Tổng hợp

Pol Pot là ai? Tiểu sử của Pol Pot

Pol Pot là ai?

Saloth Sar (19 tháng 5 năm 1925 – 15 tháng 4 năm 1998), được biết đến dưới cái tên Pol Pot (phiên âm tiếng Việt là Pôn Pốt), là một nhà cách mạng và chính trị gia Campuchia gốc Hoa, người đã lãnh đạo Campuchia với tư cách là Thủ tướng của Campuchia Dân chủ từ năm 1975 đến năm 1979. Về mặt tư tưởng là một người theo chủ nghĩa Marx-Lenin và một người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer, ông là một thành viên hàng đầu của phong trào cộng sản Campuchia, Khmer Đỏ, từ năm 1963 đến năm 1997 và giữ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Campuchia từ năm 1963 đến năm 1981. Dưới sự quản lý của ông, Campuchia đã được chuyển đổi thành một nhà nước cộng sản độc đảng do theo cách hiểu của Pol Pot về chủ nghĩa Marx – Lenin.

Sinh ra trong một gia đình nông dân giàu có ở Prek Sbauv, Campuchia thuộc Pháp, Pol Pot được học tại một số trường ưu tú nhất của Campuchia. Khi ở Paris trong những năm 1940, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Trở về Campuchia năm 1953, ông tham gia vào tổ chức Khmer Việt Minh theo chủ nghĩa Mác-Lênin và cuộc chiến tranh du kích chống lại chính phủ mới độc lập của Quốc vương Norodom Sihanouk. Sau cuộc rút lui năm 1954 của Khmer Việt Minh vào miền Bắc Việt Nam do chủ nghĩa Mác-Lênin kiểm soát, Pol Pot trở về Phnom Penh, làm giáo viên trong khi vẫn là thành viên trung tâm của phong trào Mác-Lênin ở Campuchia.

Pol Pot – Kẻ cầm đầu nạn diệt chủng Campuchia
Pol Pot – Kẻ cầm đầu nạn diệt chủng Campuchia

Năm 1959, ông đã giúp chính thức hóa phong trào này thành Đảng Lao động Campuchia, sau này được đổi tên thành Đảng Cộng sản Campuchia (CPK). Để tránh sự đàn áp của nhà nước, vào năm 1962, ông chuyển đến một đồn điền trong rừng và vào năm 1963 trở thành lãnh đạo của CPK. Năm 1968, ông bắt đầu lại cuộc chiến chống lại chính phủ của Sihanouk. Sau khi Lon Nol lật đổ Sihanouk trong cuộc đảo chính năm 1970, lực lượng của Pol Pot đã đứng về phía nhà lãnh đạo bị phế truất chống lại chính phủ thân Mỹ. Được sự hỗ trợ của Trung Quốc và sự làm ngơ của Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ, lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot đã phát triển mạnh và kiểm soát toàn bộ Campuchia vào năm 1975.

Pol Pot đã biến Campuchia thành một quốc gia độc đảng gọi là Kampuchea Dân chủ. Tìm cách tạo ra một xã hội chủ nghĩa xã hội trọng nông mà ông ta tin rằng sẽ phát triển thành xã hội cộng sản, chính quyền Pol Pot đã cưỡng chế di dời dân thành thị về nông thôn để làm việc trong các trang trại tập thể. Theo đuổi chủ nghĩa quân bình hoàn toàn, tiền đã bị bãi bỏ và tất cả công dân phải mặc quần áo đen giống nhau. Những người mà Khmer Đỏ coi là kẻ thù đều bị giết. Những vụ giết người hàng loạt này, cùng với tình trạng suy dinh dưỡng và chăm sóc y tế kém, đã giết chết từ 1,5 đến 2 triệu người, khoảng một phần tư dân số Campuchia, thời kỳ này sau đó được gọi là nạn diệt chủng Campuchia. Các cuộc thanh trừng nội bộ liên tục của Khmer Đỏ đã tạo ra sự bất mãn ngày càng tăng; vào năm 1978, binh lính Campuchia nổi dậy ở phía đông.

Sau nhiều năm đụng độ ở biên giới tây nam, Quân đội nhân dân Việt Nam với sự hỗ trợ của mặt trận dân tộc đoàn kết cứu quốc Campuchia do Heng Samrin làm chủ tịch đã tiến quân vào Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot và thành lập một chính phủ mới theo chủ nghĩa Mác-Lênin vào năm 1979. Khmer Đỏ rút lui vào rừng rậm gần biên giới Thái Lan, từ đó họ tiếp tục chiến đấu. Khi sức khỏe giảm sút, Pol Pot đã rút lui khỏi nhiều vai trò trong phong trào. Năm 1998, chỉ huy Khmer Đỏ Ta Mok quản thúc Pol Pot tại gia, ngay sau đó ông chết.

Pol Pot đã bị quốc tế lên án vì vai trò của ông trong cuộc diệt chủng ở Campuchia và bị coi là một nhà độc tài toàn trị, người đã phạm tội ác chống lại loài người.

Tiểu sử của Pol Pot

Khởi đầu

Pol Pot (tên khai sinh là Saloth Sar) sinh năm 1925 trong một gia đình giàu có tại Prek Sbauv lúc ấy là một phần của Đông Dương thuộc Pháp hiện nay là tỉnh Kompong Thom, Campuchia (từ 1928). Năm 1934 cha mẹ gửi ông tới Phnom Penh để học tại Wat Botum Vaddei, một Tu viện Phật giáo lớn và trở thành một nhà sư. Sau một năm ở đó, ông tới sống với vợ chồng người anh trai và bắt đầu theo học Trường Miche. Trong lần đầu tiên thi bằng sơ cấp tiểu học (Certificat d’Etudes Primaires Complémentaires) năm 1941, ông thi trượt và bị giữ lại trường. Tới tận năm 1943 ông mới đỗ. Ông cũng trượt ở kỳ thi vào trường Lycée Sisowath và vì thế phải theo học trường cấp thấp hơn tên là Collège Preah Sihanouk tại Kampong Cham năm 1943.Trong thời gian ở đó ông vẫn là một học trò tầm thường, nhưng thích chơi bóng đá và roneat (một thứ nhạc cụ tre). Năm 1947 ông vượt qua kỳ thi cuối cùng và được theo học Lycée Sisowath.

Năm 1949, ông được theo học kỹ sư radio ở Paris. Trong thời gian học, ông đã trở thành một người cộng sản và gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Cũng trong thời gian sống và học tập tại đây, Pol Pot đã gặp gỡ Ieng Sary, Khieu Samphan, Son Sen, Hu Nim và Vorn Vet… Đến năm 1953, ông trở về Campuchia. Lúc ấy, cuộc kháng chiến do cộng sản lãnh đạo đang diễn ra chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Trung tâm cuộc kháng chiến ở tại Việt Nam, nhưng cũng có các chi nhánh ở Campuchia và Lào Saloth Sar gia nhập Việt Minh, nhưng thấy rằng tổ chức này chỉ chú trọng tới Việt Nam chứ không phải Lào hay Campuchia. Năm 1954, Pháp rời Đông Dương, nhưng Việt Minh cũng rút về Bắc Việt Nam, và Vua Norodom Sihanouk kêu gọi tổ chức bầu cử. Sihanouk thoái vị và lập ra một đảng chính trị. Sihanouk hất cẳng những người cộng sản đối lập và chiếm toàn bộ số ghế chính phủ.

Con đường đến quyền lực

Cuối tháng 9 năm 1960, Pol Pot nằm trong số 21 đại biểu của Đảng nhân dân cách mạng Khmer họp bí mật tại nhà ga đường sắt ở Phnom Penh. Đảng được đổi tên thành đảng công nhân Campuchia. Tou Samouth được bầu làm Tổng Bí thư, Nuon Chea được bầu làm phó Tổng Bí thư còn Pol Pot, Keo Meas và Ieng Sary xếp lần lượt thư ba, thứ tư và thứ năm trong Đảng. Năm 1962, Tou Samouth bị ám sát tại Phnom Penh, sau đó Pol Pot đã đứng ra tổ chức đại hội Đảng công nhân Campuchia lần thứ hai và đã leo lên vị trí Tổng Bí thư thay cho Tou Samouth. Khi lên nắm quyền, Pol Pot đồng thời loại bỏ những Đảng viên “miền Đông” thân Việt Nam ra khỏi ban thường vụ như Non Soun, Keo Meas, Chou Chet và bị thay thế bởi Son Sen, Vorn Vet và Ta Mok.

Saloth Sar chạy trốn cảnh sát mật của Sihanouk và đã sống trong cảnh trốn tránh bảy năm trời, chiêu mộ binh lính. Tới cuối thập kỷ 1960, Lon Nol là giám đốc tổ chức an ninh nội bộ của Sihanouk tiến hành các hành động chống lại những người cộng sản, lúc ấy được gọi là Đảng Cộng sản Campuchia. Saloth Sar bắt đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, được Cộng hoà nhân dân Trung Hoa giúp đỡ.

Trước năm 1970, Đảng Cộng sản Campuchia là một tổ chức rất ít được biết đến trong đời sống chính trị Campuchia. Tuy nhiên, năm 1970, vị tướng được phương Tây ủng hộ là Lon Nol lật đổ Sihanouk, bởi vì Sihanouk bị coi là người ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Để phản kháng, Sihanouk quay sang ủng hộ phe của Saloth Sar. Cùng năm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh tấn công quân sự vào Campuchia để tiêu diệt những nơi trú ẩn của Mặt trận Giải phóng gần biên giới Nam Việt Nam. Cùng với sự yêu mến của dân chúng dành cho Sihanouk và cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia, phe Saloth Sar được nhiều người ủng hộ và chỉ trong thời gian ngắn chính phủ Lon Nol chỉ còn kiểm soát được các thành phố.

Khi Hoa Kỳ rời Việt Nam năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rời Campuchia nhưng Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu với sự ủng hộ của họ. Không còn giữ được quyền kiểm soát đất nước nữa, chính phủ Lon Nol nhanh chóng sụp đổ. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Đảng cộng sản Campuchia chiếm Phnom Penh và Lon Nol bỏ chạy sang Mỹ. Chỉ chưa tới một tháng sau, ngày 12 tháng 5 năm 1975, lực lượng hải quân Khmer Đỏ hoạt động trên vùng lãnh hải Campuchia đã bắt giữ chiếc tàu buôn S.S. Mayaguez của Mỹ, chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, gây ra Sự kiện Mayaguez. Saloth Sar đổi tên thành Pol Pot vào khoảng thời gian này, rõ ràng là không muốn lộ diện.

Norodom Sihanouk quay trở lại nắm quyền năm 1975, nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng ông đang bị loại bỏ bởi các đồng minh cộng sản cấp tiến, những người không có nhiều quan tâm tới các kế hoạch khôi phục chế độ quân chủ của ông. Ngay sau khi trở thành người lãnh đạo Đảng, Pol Pot đã ra sức tiêu diệt những Đảng viên miền Đông thân Việt Nam và những Đảng viên từng phục vụ dưới quyền Hoàng thân Norodom Sihanouk như Hou Yuon, Hu Nim, Tok Phoum… nhằm củng cố quyền lực.

Campuchia dân chủ

Tháng 4 năm 1976, Pol Pot được bầu làm thủ tướng của Campuchia dân chủ. Với vai trò là Thủ tướng kiêm tổng Bí thư của Campuchia dân chủ, Pol Pot đã thực hiện những chính sách cực đoan và diệt chủng đối với nhân dân Campuchia và cả Việt Nam. Đối với bên ngoài, Pol Pot thực hiện các chính sách chống Việt Nam trên nhiều phương diện, còn bên trong nội bộ Đảng, Pol Pot tiến hành thực hiện nhiều cuộc thanh lọc và xử tử nhiều Đảng viên cao cấp của Khmer Đỏ ( hầu hết là Đảng viên kì cựu thuộc nhánh quân khu miền Đông của So Phim ). Chỉ trong 4 năm cầm quyền chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu. Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số của Lào và Việt Nam.

Ngoài việc tiêu diệt các nhà sư Phật giáo, chế độ Pol Pot còn bãi bỏ mọi tôn giáo và giải tán các nhóm thiểu số, cấm họ nói những ngôn ngữ của họ cũng như thực hiện các lễ nghi theo phong tục

Ngay sau khi Phnom Penh sụp đổ, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những cuộc cải cách cộng sản triệt để, và Sihanouk bị đặt vào vị trí lãnh đạo bù nhìn. Khmer Đỏ ra lệnh sơ tán toàn bộ khỏi Phnom Penh và tất cả các thành phố, thị xã chính của đất nước. Những người sơ tán được tuyên truyền rằng họ phải ra đi để tránh những cuộc ném bom của người Mỹ.

Tiến sĩ Gregory H. Stanton, đã viết trong cuốn Những chiếc khăn quàng xanh và những ngôi sao vàng: Sự xếp hạng và biểu tượng hoá trong Cuộc diệt chủng ở Campuchia:

“Những người lãnh đạo chính của chế độ Pol Pot đã đọc lý thuyết Marx của André Gunder Frank rằng các thành phố là những vật ký sinh vào nông thôn, rằng chỉ giá trị lao động là giá trị thật sự, rằng các thành phố chiếm đoạt giá trị thặng dư của những vùng nông thôn. Vì thế, ngay sau khi chiếm được quyền lực, Khmer Đỏ sơ tán toàn bộ các thành phố theo hình thức ép buộc, gồm cả những người không nên đi sơ tán như các bệnh nhân trong bệnh viện và những đứa trẻ mới sinh.”

Năm 1976 mọi người được tái xếp hạng thành những người có đủ mọi quyền lợi (căn bản), ứng cử viên, và người mới đến – gọi thế vì đa số người thuộc loại này là người mới đến từ các thành phố. Những người mới đến được đánh dấu để tiêu diệt. Các khẩu phần của họ bị giảm xuống còn hai bát cháo, hay “juk” một ngày. Điều này khiến cho nạn đói xảy ra bên trong tầng lớp mới đến.

Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang trên đài rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, “sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì”.

Hàng trăm ngàn người mới đến đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, “Không được làm phí đạn dược.”

Khmer Đỏ cũng xếp hạng dân theo tôn giáo và dân tộc. Theo cuốn sách của Father Ponchaud Campuchia: Năm không: Bắt đầu từ năm 1972 những chiến binh du kích đã tống toàn bộ dân chúng ở các làng mạc và thị trấn họ chiếm được vào sống trong rừng và thường đốt nhà của họ để họ không còn gì để quay về.

Khmer Đỏ từ chối những lời đề nghị viện trợ nhân đạo, một quyết định cho thấy là một thảm hoạ nhân đạo, khi hàng triệu người đã chết đói và vì phải làm việc quá sức ở vùng nông thôn.

Sở hữu trở thành công cộng, và giáo dục chỉ được tiến hành ở các trường làng. Chế độ Pol Pot đặc biệt tàn bạo đối với bất đồng chính trị và đối lập. Tra tấn diễn ra khắp mọi nơi. Một số ví dụ, tù nhân bị trói vào khung sắt của giường nằm và bị cắt cổ.

Hàng nghìn chính trị gia và quan chức bị buộc tội hợp tác với chính phủ cũ bị giết hại trong khi Phnom Penh biến thành một thành phố ma với rất nhiều người chết đói, bệnh tật hay bị hành quyết. Mìn là thứ Pol Pot coi là “người lính tuyệt vời” và được rải khắp mọi vùng nông thôn. Danh sách thương vong thời Pol Pot hiện vẫn còn gây tranh cãi. Các nguồn đáng tin cậy ở Tây và Đông cho rằng số người chết dưới thời Khmer Đỏ là 1,6 triệu. Một con số cụ thể, là ba triệu người chết trong giai đoạn 1975 và 1979 được chế độ Phnom Penh là PRK đưa ra. Ponchaud cho rằng 2,3 triệu người—dù con số này có hàng trăm ngàn người chết trước khi CPK nắm quyền;Dự án về Diệt chủng tại Campuchia của Đại học Yale ước tính 1,7 triệu người; Ân xá quốc tế ước tính 1,4 triệu; và Uỷ ban quốc gia Hoa Kỳ, 1,2 triệu. Khieu Samphan và Pol Pot, đưa ra con số 1 triệu và 800.000 nhưng con số này bị cho là thấp hơn thực tế. CIA ước tính rằng có 50.000 đến 100.000 người bị hành quyết.

Năm 1976, Sihanouk bị quản thúc tại gia và Pol Pot lên làm Thủ tướng và người cầm đầu nhà nước chính thức là Khieu Samphan bạn học của Pol Pot.

Tới năm 1978, thảm hoạ nhân đạo ở Campuchia dưới chế độ Pol Pot đã hiển hiện. Những cố gắng của chế độ nhằm thanh trừng những yếu tố Việt Nam ra khỏi Campuchia ngày càng tăng dẫn tới các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. Cuối năm 1978, để trả đũa những mối đe dọa ở biên giới và tới người dân Việt Nam, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ.

Quân đội Campuchia dễ dàng bị đánh bại và Pol Pot chạy tới vùng biên giới Thái Lan. Tháng 1 năm 1979, Việt Nam hỗ trợ lập ra một chính phủ mới với người đứng đầu là Heng Samrin, gồm những người thuộc lực lượng Khmer Đỏ đã chạy sang Việt Nam để tránh các cuộc thanh trừng. Pol Pot vẫn giữ được một vùng nhỏ ở phía tây đất nước. Lúc ấy, Trung Quốc, trước kia từng ủng hộ Pol Pot, tấn công Việt Nam, gây ra một cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung ngắn.

Pol Pot tán thành một thứ tập hợp các triết lý cấp tiến, được gọi là Học thuyết “Anka”, được sửa đổi theo chủ nghĩa quốc gia Khmer. Muốn xây dựng một chủ nghĩa ruộng đất nguyên thủy, Khmer Đỏ tán thành một xã hội ruộng đất hoàn toàn theo đó tất cả các phát minh kỹ thuật hiện đại đều bị cấm ngặt. Pol Pot là kẻ đối lập lại với thuyết chính thống Xô viết. Bởi vì ông là người chống Xô viết nên Cộng hòa nhân dân Trung Hoa coi ông là thích hợp để chống Việt Nam (và vì thế cũng là chống Liên Xô). Các nước phương tây cũng có quan điểm gần tương tự, ủng hộ ngoại giao cho Khmer Đỏ sau khi họ bị người Việt Nam lật đổ năm 1979.

Nỗi ám ảnh mang tên Pol Pot
Nỗi ám ảnh mang tên Pol Pot

Hậu quả

Hoa Kỳ phản đối sự mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Dương, và vào giữa thập kỷ 1980 đã giúp đỡ cho những nhóm kháng chiến chống lại chế độ Heng Samrin, cung cấp hỗ trợ 5 triệu USD cho Mặt trận nhân dân giải phóng quốc gia Khmer (KPNLF) của cựu thủ tướng Son Sann và nhóm ủng hộ Sihanouk ANS năm 1985. Dù vậy chế độ Khmer Đỏ của Pol Pot vẫn là nhóm thiện chiến và có khả năng nhất trong số ba nhóm quân sự, và ba nhóm này dù có khác biệt về tư tưởng vẫn thành lập nên Chính phủ Campuchia dân chủ liên hiệp (CGDK) từ ba năm trước. Trung Quốc tiếp tục cung cấp hỗ trợ quân sự lớn cho Khmer Đỏ, và những người chỉ trích chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ buộc tội rằng Hoa Kỳ đã viện trợ trực tiếp cho Khmer Đỏ vì sự công nhận CGDK của họ.

Pol Pot chính thức từ chức năm 1985, nhưng trên thực tế vẫn là lãnh đạo Khmer Đỏ và là lực lượng chủ chốt bên trong liên minh chống Heng Samrin. Những đối thủ của Khmer Đỏ lên án họ thường hành động một cách phi nhân tính bên trong lãnh thổ do liên minh kiểm soát.

Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Pol Pot từ chối hợp tác với tiến trình hoà bình, và vẫn tiếp tục chiến đấu với chính phủ liên hiệp mới. Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu tới tận năm 1996, khi quân đội của họ dần tan rã. Nhiều lãnh đạo Khmer Đỏ quan trọng bỏ đi.

Pol Pot ra lệnh hành quyết Son Sen, người trong nhiều năm là cánh tay phải và mười một thành viên trong gia đình Son Sen ngày 10 tháng 6 năm 1997 vì họ muốn hoà giải với chính phủ (ba ngày sau tin tức về vụ này mới tới tai cộng đồng quốc tế). Sau đó Pol Pot chạy sang cứ điểm của hắn ở phía bắc, nhưng sau đó bị lãnh đạo quân sự Khmer Đỏ là Ta Mok bắt giữ, và kết án quản thúc tại gia suốt đời. Tháng 4 năm 1998, Ta Mok chạy vào rừng đem theo Pol Pot khi bị chính phủ mới tấn công. Vài ngày sau, ngày 15 tháng 4 năm 1998, Pol Pot chết, nguyên nhân theo thông báo là bệnh tim. Xác Pol Pot được thiêu tại vùng nông thôn Campuchia với khoảng vài chục thành viên Khmer Đỏ tham gia. Theo họ, khi xác bị đốt, tay phải Pol Pot đã nắm lại hình nắm đấm và giơ lên cao.

Sở thích

Ngược với bề ngoài giản dị với bộ áo quần bà ba đen, Pol Pot rất sành điệu khi chọn xe hơi với các chiếc xe Limousine Mercedes-Benz Stretch đời 1973 cực kỳ sang trọng và quý phái đương thời.

Diệt chủng Pol Pot Campuchia
Diệt chủng Pol Pot Campuchia

Tội ác tày trời của tập đoàn Pol Pot gây ra cho Việt Nam

Ngay từ năm 1963, sau khi nắm quyền trong Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Pol Pot đã bắt đầu có thái độ, hành động thù địch đối với Việt Nam và những người cộng sản Campuchia trung kiên. Chúng ngấm ngầm tuyên truyền Việt Nam đã phản bội Campuchia khi ký Hiệp định Geneve 1954 và cho lưu hành hơn 10 văn kiện phê phán Đảng Lao động Việt Nam khi Việt Nam không tán thành “đường lối cách mạng mạo hiểm” của Pol Pot…

Năm 1966, Pol Pot rút cơ quan đại diện bên cạnh Trung ương Cục miền Nam về nước và từ đó, quan hệ của Đảng ta với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia càng có nhiều trắc trở. Trong thời kỳ này, ở vùng Đông Bắc và Đông Campuchia, chính quyền Vương quốc thỏa thuận cho Việt Nam đặt hậu cứ, kho tàng, trạm cứu thương… Lợi dụng điều kiện vùng hành lang là khu vực rừng rậm, binh lính Pol Pot lúc thì công khai, lúc thì đóng giả làm lực lượng của các phe nhóm khác, đã cướp kho tàng, phục kích các nhóm hành quân lẻ của bộ đội Việt Nam.

Từ năm 1970 đến 1973, khi bộ đội Việt Nam tập trung lực lượng đánh Mỹ và tay sai ở chiến trường Campuchia thì lính Pol Pot đã gây ra 174 vụ khiêu khích, tập kích các hậu cứ, cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và chiến sĩ Việt Nam. Năm 1972, Pol Pot công khai đề nghị Việt Nam rút quân về nước và có hành động xua đuổi Việt kiều trong vùng vừa giải phóng. Khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết tháng 1-1973, Pol Pot cho rằng việc ký hiệp định là sự phản bội của Việt Nam với cách mạng Đông Dương và cho cấp dưới tuyên truyền, tổ chức các cuộc biểu tình phản đối lực lượng Việt Nam đứng chân ở Campuchia.

Trước thái độ thù địch của Pol Pot, tháng 7-1970, trong bức thư gửi cho Trung ương Cục miền Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết: “Với Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, chúng ta cần tìm ra mọi cách tăng cường quan hệ, từng bước tạo ra sự nhất trí về đường lối, chủ trương, đồng thời giúp bạn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trên bước đường cùng tiến lên của cách mạng, không tránh khỏi những sự khác nhau giữa ta và bạn. Nhưng với đường lối đúng đắn, với tinh thần quốc tế chân chính, với thái độ chân thành, tôn trọng bạn… sẽ xây dựng được tình đoàn kết chiến đấu ngày càng sâu sắc giữa hai Đảng, nhân dân hai nước”.

Tuy nhiên, trái với hy vọng của chúng ta, cách mạng Campuchia càng đến gần thắng lợi thì Pol Pot càng ráo riết chuẩn bị kế hoạch chống phá Việt Nam và tiêu diệt lực lượng yêu nước chân chính Campuchia. Ngay sau khi cách mạng hai nước giành thắng lợi (tháng 4-1975), ngày 1-5-1975, tập đoàn Pol Pot đã cho quân xâm phạm nhiều nơi thuộc lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh; tiếp đó đánh chiếm các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết nhiều người dân và bắt đưa đi 515 người khác.

Sau những sự kiện nghiêm trọng trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn bày tỏ mong muốn hai nước Việt Nam và Campuchia đàm phán ký kết hiệp ước về biên giới giữa hai nước trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục đoàn kết và tăng cường tình nghĩa anh em giữa nhân dân hai nước. Song, do bản chất dân tộc cực đoan, tập đoàn Pol Pot được sự hậu thuẫn bên ngoài tiếp tục có nhiều hành động thù địch chống Việt Nam. Chỉ trong mấy tháng cuối năm 1975 và đầu năm 1976, quân Pol Pot liên tiếp gây ra hơn 250 vụ xâm phạm lãnh thổ, cướp thóc gạo, trâu, bò, tàn sát nhiều người dân Việt Nam.

Từ đầu năm 1977, quân Pol Pot lại mở cuộc tiến công vào các đồn biên phòng Việt Nam ở Bu Prăng (Đắc Lắc), vùng Mỏ Vẹt (Long An) và một số nơi ở Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang. Nghiêm trọng nhất là từ ngày 30-4 đến 19-5-1977, Pol Pot sử dụng lực lượng quy mô sư đoàn tiến công sang đất Việt Nam trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, giết hại 222 người, làm bị thương 614 người, bắt đi 10 người, đốt cháy 552 nhà dân, cướp 134 tấn lúa, phá hoại hàng trăm héc-ta lúa đang đến mùa gặt; cướp phá nhiều tài sản của nhân dân….

Tháng 6-1977, lãnh đạo Khmer Đỏ ra nghị quyết coi Việt Nam “là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu” của Campuchia và từ đây, chúng ngang nhiên mở rộng xung đột thành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mấy tháng cuối năm 1977, quân Pol Pot mở nhiều cuộc tiến công lớn sang Việt Nam trên tuyến biên giới từ Kiên Giang đến Tây Ninh. Riêng tại xã Tân Lập (Tân Biên, Tây Ninh), ngày 25-9-1977, quân Pol Pot đã đốt cháy 400 nóc nhà, giết hơn 1.000 dân thường.

Sau khi bị bộ đội Việt Nam mở đòn tiến công trừng trị hành động xâm lược trên tuyến biên giới, ngày 31-12-1977, tập đoàn Pol Pot đã đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Từ đây, chúng công khai tuyên truyền vu khống Việt Nam, coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Campuchia, gắn quá trình phản bội và xâm lược Việt Nam với các cuộc thanh trừng các lực lượng chân chính trong nước.

Chúng ráo riết xây dựng thêm các sư đoàn chiến đấu, đồng thời tập trung 13/18 sư đoàn bộ binh áp sát biên giới Việt Nam, tiến hành khiêu khích, thăm dò, chuẩn bị những cuộc tiến công xâm lược mới. Liên tiếp trong các tháng đầu năm 1978, Pol Pot sử dụng 5 sư đoàn chủ lực cùng 5 trung đoàn địa phương, có pháo binh yểm trợ, luân phiên đánh vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt, tại xã Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang), cách đường biên giới Việt Nam-Campuchia 7km, ngày 18-4-1977, lính Pol Pot đã dồn người dân hiền lành để bắn, giết tập thể bằng những hành động vô cùng dã man, giết hại 3.157 người, phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ em, trong đó có hơn 100 gia đình bị giết cả nhà.

Tính từ tháng 5-1975 đến giữa năm 1978, quân Pol Pot đã giết hại hơn 5.000 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi hơn 20.000 người; hàng nghìn trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, trâu, bò bị cướp, giết, hoa màu bị phá hoại; hàng vạn héc-ta ruộng đất và đồn điền cao su ở vùng biên giới Tây Nam Việt Nam bị bỏ hoang; khoảng nửa triệu dân sát biên giới với Campuchia phải bỏ nhà, bỏ đất, bỏ ruộng chạy sâu vào nội địa.

Hậu quả mà Pol Pot gây ra cho nhân dân Việt Nam là hết sức to lớn, trong khi nguy cơ diệt vong của dân tộc Campuchia dưới chế độ diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot đã đến mức nguy kịch. Những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của tập đoàn Pol Pot là không thể dung tha. Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng và thiêng liêng của mình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; đồng thời cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, giúp đỡ những người cách mạng chân chính Campuchia làm lại cuộc cách mạng đã bị phản bội.

********************

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Tổng hợp

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button