Giáo dụcLớp 12

Phân tích truyện Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu hay nhất (3 Mẫu)

Phân tích truyện Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 3 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích truyện Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu

Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu

Dàn ý Phân tích truyện Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng.

II. Thân bài:

a. Tình huống truyện và ý nghĩa:

* Tình huống truyện:

– Câu chuyện mở ra bằng cảnh tượng những người lính lái xe trên chuyến đường Trường Sơn trong một buổi đêm nghỉ ngơi đã thay nhau kể về câu chuyện của cuộc đời mình: Lãm đã kể về cuộc gặp gỡ tình cờ của mình và Nguyệt.

* Ý nghĩa:

– Tình huống truyện bất ngờ đã làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và cũng càng khiến cho nhân vật Lãm được hiểu rõ hơn về người con gái này.

– Cô Nguyệt được tự do bộc lộ tính cách, suy nghĩ cùng với tấm lòng thủy chung của mình với người yêu chưa biết mặt mà không phải ngại ngùng.

– Cảm nhận được sâu sắc cái lý thú của truyện, khi Nguyễn Minh Châu đặt Lãm vào hoàn cảnh ngờ ngợ, phấp phỏng về cô gái tên Nguyệt. Thế nhưng trong suốt chuyến Lãm vẫn không hề mở miệng nói ra nghi ngờ của mình.

=> Sự tinh tế trong thể hiện tâm lí nhân vật của Nguyễn Minh Châu. – Sự “mơ hồ” mà mãi đến cuối truyện, Lãm và Nguyệt vẫn chưa thực sự có một cuộc gặp mặt chính thức đã khiến câu chuyện thêm phần hấp dẫn, thú vị, độc giả từ đó có cơ hội để thỏa sức tưởng tượng về những gì xảy ra tiếp theo.

b. Nhân vật Nguyệt:

* Vẻ đẹp ngoại hình, tính cách:

– Vẻ đẹp tinh tế, trong ngần với “một đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chấm mắt cá”

– “một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, giọng nói và tấm thân mảnh dẻ”,”mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dài tết thành hai dải. Chiếc làn và chiếc nón mới trắng lóa khoác ở cánh tay trông thật nhẹ nhàng”.

=> Cái vẻ đẹp duyên dáng, yêu kiều của cô gái đã dấy lên trong lòng Lãm những ấn tượng ban đầu tốt đẹp, một cái nhìn thiện cảm hơn hẳn.

– Lối nói, lối ứng xử của Nguyệt cũng thể hiện cô là một cô gái thông minh và duyên dáng. Từ việc cô hỏi Lãm về đèn “quả dưa” hay “quả táo”, đến việc cô thành thực kể về những cô Nguyệt trong đội làm đường khi Lãm hỏi, rồi cái nét bối rối, ngượng ngùng khi cô giải thích về mấy chỗ đường lồi lõm họ đi qua do đội cô chịu trách nhiệm san lấp, tu bổ

.=> Nguyệt có một tâm hồn như trăng, trong sáng, dịu dàng, dễ thương và dễ khiến người khác cảm thấy gần gũi vô cùng.

– Dáng vẻ e lệ, ngập ngừng khi ngồi cạnh một người đàn ông xa lạ, cô vẫn giữ cho mình những sự ý tứ rất duyên, Nguyệt lên ngồi ghế lái phụ “cô cố ý ngồi sát mép cửa, chiếc làn ôm gọn trong lòng, để lại giữa Lãm và cô một khoảng trống lớn”, ánh mắt rụt rè, tò mò kín đáo ngắm xung quanh cái “căn nhà” của anh Lãm.

* Vẻ đẹp trong quá trình phối hợp giúp đỡ đồng đội khi chiến đấu:

– Tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự nhiệt huyết trong, hăng hái trong nhiệm vụ.

+ Nguyệt đã bộc lộ được sự tự tin và tấm lòng nhiệt thành của mình khi luôn động viên “Anh cứ yên tâm, đoạn đường này em quen lắm”.

+ Chỉ đường cho Lãm đi đúng hướng, ở những chỗ bánh xe sục sâu quá Nguyệt kiêm luôn vai trò lơ xe nhanh chóng nhảy xuống làm “xi nhan” cho Lãm kéo xe lên.

+ Nhiệt tình muốn theo xe qua sông, giúp anh vượt qua chỗ sông có nhiều nguy hiểm “anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư”.

– Lột xác, từ một cô gái nhẹ nhàng, duyên dáng bỗng trở thành một nữ chiến sĩ nhanh nhẹn, thông minh và quyết đoán.

+ Tinh ý phát hiện ra tiếng máy bay trinh sát, đồng thời nhắc nhở cho Lãm về việc tắt đèn xe kẻo bóng sáng sẽ loang ra xa khắp mặt sông.

+ “vội nhảy ùm xuống sông” một cách kiên quyết và dứt khoát, chấp nhận ướt, bẩn để dẫn lối cho xe của Lãm, nhanh nhẹn lội qua bên kia sông để giúp Lãm cột dây tời xe.

+ Không nghĩ gì đến bản thân, sự dũng cảm, kiên cường, tinh thần bất khuất, vì đất nước đã cho cô một sức mạnh phi thường để đẩy cái người đàn ông cao lớn ấy vào một góc nào đó “rất cứng và sâu”, để bảo vệ anh khỏi những trận đánh tọa độ hung hiểm của địch, cứng rắn đinh ninh “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp ở đó!”.

+ Nhanh nhẹn và biết phối hợp, khi thấy Lãm chạy ra bảo vệ xe, cô cũng lao ra nhanh chóng nhảy lên hàng ghế phụ, rồi ra sức chỉ đường cho Lãm trong đêm tối, Nguyệt cứ nói “rành rọt như người đếm ở bên tai: “Anh ngoặt sang trái… Trước mặt anh có hố bom đấy… Chuẩn bị sắp lên một cái dốc có “cua”…”. Có quãng nào khó đi và tối Nguyệt lại nhảy xuống đi dò đường trước để cho Lãm bám theo sau.

+ Bị thương nhưng vẫn hồn nhiên lạc quan”anh cứ yên tâm, vết thương chỉ xước ngoài da thôi. Từ giờ tới sáng em có thể lên đến tận trời được” để an ủi sự thương xót, áy náy trong lòng Lãm.

c. Vẻ đẹp trong tình yêu:

– Dành cho người con trai chưa biết mặt thứ tình cảm thủy chung hàng mấy năm ròng không đổi.

– Đó là một điểm sáng nổi bật nhất của nhân vật, thể hiện niềm tin, niềm yêu mạnh mẽ của cô gái, cũng như những hy vọng về một tương lai tốt đẹp, rằng một mai có thể gặp được Lãm, người yêu chưa từng thấy mặt, để cùng xây dựng những mộng ước hạnh phúc tuyệt vời. Mà xa hơn ấy chính là niềm tin vào kháng chiến một mai nhất định thành công, Bắc Nam sum họp một nhà, cô nhân công làm đường và anh lính lái xe trở thành đôi.

=> Tình yêu thủy chung mà Nguyễn Minh Châu xây dựng cho Nguyệt, có vẻ hơi kỳ lạ giữa đời sống ngày nay, và khó có thể xảy ra. Thế nhưng trong thời chiến, tình yêu dần trở nên thiêng liêng và khác biệt, cùng với sức trẻ, lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu không ngừng nghỉ, những con người trẻ tuổi còn cần thêm tình yêu để làm động lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ, đó là một niềm hy vọng dẫu mỏng manh, nhưng rất đẹp, rất trân quý.

III. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.

3 Bài mẫu Phân tích Mảnh trăng cuối rừng hay nhất

Phân tích Mảnh trăng cuối rừng – Mẫu 1

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lý tưởng của nền văn chương hiện đại nước ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông với đa dạng tác phẩm để lại những ý nghĩa sâu sắc, triết lý sống sâu xa.

Trong chậm tiến độ, tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng” là một tác phẩm được ông viết khi mà quân Mỹ đang bắn phá khốc liệt phá hoại nền phân phối phường hội chủ nghĩa của miền Bắc nước ta.

Truyện ngắn mô tả tính anh hùng, lãng mạn, thể hiện chất của những người bộ đội kiên cường, quật cường trong chiến tranh phóng thích dân tộc, chống lại quân thù cướp nước.

Người nào trong chúng ta sinh ra cũng đều được cha mẹ đặt tên riêng, dòng tên chính là điều ý nghĩa nhất theo chúng ta tới suốt thế cuộc một tác phẩm văn chương, nghệ thuật cũng vậy lúc xây dựng thương hiệu người khác cũng sẽ đặt tên cho đứa con tinh thần của mình, sao cho xứng đáng và ý nghĩa nhất.

Nhan đề của tác phẩm là “Mảnh trăng cuối rừng” đã trình bày sự lãng mạn, bi hùng thể hiện sự minh bạch của 1 mảnh trăng nhỏ nhưng vẫn quyết tâm soi sáng cả 1 cánh rừng rộng to giữa đêm tối trong rừng Trường Sơn.

Truyện ngắn kể về nhân vật cô gái mang tên là Nguyệt. Mảnh trăng cuối rừng mô tả cho vẻ đẹp tâm hồn của người con gái đấy, chậm triển khai chính là vẻ đẹp trẻ trung đang độ xuân xanh phấp phới, dù cho bom đạn của quân đội Mỹ sở hữu ra công phá hủy cũng không làm cho vẻ đẹp bị lụi tàn.

Tác giả Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công cảnh huống truyện cực kỳ bất ngờ phổ biến ly kỳ hấp dẫn. Truyện nói về 1 cuộc gặp gỡ giữa 1 chàng trai tài xế quân sự và một cô nhân lực giao thông đi nhờ xe của anh. Sự sắp đặt tình cờ của căn số đã tạo nên cuộc gặp gỡ định mệnh làm 2 con người gắn kết lại có nhau.

Hai người đều với một cuộc hứa hẹn định mệnh, sở hữu người mà mình được đính hôn, được gia đình bạn bè 2 bên làm mối. thành tâm cờ là Nguyệt và Lãm không hề biết mặt đối phương, nên khi cả 2 cùng ngồi chung một xe người này đi gặp người kia mà không phải hay biết đối phương đang ở rất gần mình.

Cả 2 đều là những người bộ đội cách mạng, đều sở hữu trong lòng tình ái quê hương đất nước hết sức mãnh liệt, chính cho nên cả hai người nhanh chóng thân quen, nói chuyện như những người bạn lâu ngày chưa gặp lại. những câu chuyện riêng tư cũng được cả hai người chia sẻ trên chuyến đi định mệnh chậm tiến độ.

Trong quá con đường đi chung xe cả hai người đã gặp những nguy hiểm, rình rập, lúc gặp tàu bay địch, rồi xe bị sa lầy, cô gái có tên là Nguyệt chậm tiến độ đã phát huy vẻ đẹp tâm hồn của mình, đã hết sức giúp đỡ cho anh tài xế Lãm, 2 cộng vượt qua hoán vị nạn, gian khổ có nhau.

Tình cảm bởi thế mà càng gắn bó đậm đà, dù cả 2 không đi được đến chỗ mình đã hứa gặp người đính hôn nhưng các gì cả hai cùng tâm tình san sớt có nhau khiến cho 2 người cảm thấy hạnh phúc.

Tình huống truyện độc đáo bỗng nhiên khiến cho nhân vật của tác phẩm trình bày được vẻ đẹp bỗng nhiên chẳng hề khiên cưỡng hay gượng gập ép kém chất lượng tạo chút nào.

Nguyệt toát lên là một cô gái mang vẻ đẹp đẽ. Cô cũng sở hữu 1 mẫu mã đẹp đẽ với phương pháp biểu hiện đôi gót chân bóng hồng biểu lộ cho việc cô vốn là 1 cô gái đẹp từ đầu đến chân, ưa sạch sẽ, chỉn chu trong mọi việc. Nó toát lên vẻ cao nhã thánh thiện của người con gái khác hẳn có vẻ xù xì chông gai của chiến tranh.

Cô không chỉ đẹp mà còn là người dễ sắp dù mới tiếp xúc nhưng Lãm cảm nhận được sự dễ thương dễ mến toát ra trong khoảng cô gái lần đầu gặp gỡ này. Tâm hồn cô cũng khôn xiết ngay thẳng, chính trực, thiến nạn không chùn bước thể hiện sự mưu trí dũng mãnh.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã biểu hiện Nguyệt đẹp từ kiểu dáng tới tâm hồn bên trong làm người con trai nào khi xúc tiếp với cô cũng thấy bâng khuâng xao xuyến.

Diễn ra từ mà Lãm biết Nguyệt chính là người con gái có ước hẹn gặp gỡ mang mình thì trong lòng anh tràn ngập sự sung sướng bởi được một cô gái xinh đẹp, cẩm đoan trang, dễ mến chờ đợi.

Cũng chính trong khoảng chậm tiến độ Nguyệt và trăng như hai hình ảnh sóng đôi chập chờn trong lòng anh chàng bạn teen Lãm.

Nguyệt là người con gái vô cùng đặc thù, cô có xuất sắc sống sâu sắc yêu quốc gia trong gian khó nghiêm trọng vẫn tự tin yêu đời. Cô cũng là người chung thủy sắc son quyết định hẹn ước sở hữu người con trai mình chưa họp mặt và chờ đợi anh.

Nhưng trong hoàn cảnh nào thì cả Nguyệt và Lãm đều coi trọng nhiệm vụ công việc là trên hết phần nhiều bộc lộ lòng yêu nước, ý thức kỷ luật của cả hai người.

Bằng những lời văn chân tình sâu sắc tác kém chất lượng đã viết lên một chuyện tình đậm chất hùng ca lãng mạn truyền tụng người đội viên trong chiến đấu.

Phân tích Mảnh trăng cuối rừng – Mẫu 2

Nguyễn Minh Châu trên văn đàn Việt Nam hiện đại đã tỏa sáng như một ngọn cờ đầu đi tiên phong trong nền văn học nước ta thời kỳ đổi mới. Những tác phẩm của ông thường được nhận ra bằng giọng văn dịu dàng, trữ tình, phản ánh hiện thực một cách mềm mại và ở những cái đẹp của thiên nhiên, của con người, nhà văn vẫn có một bút pháp lý tưởng hóa rất độc đáo, rất thi vị trữ tình. Thế nhưng nhà văn không phải tập trung vào khai thác những vẻ đẹp hoàn mỹ đó mà sau cùng từ những vẻ đẹp ấy Nguyễn Minh Châu mới đi vào khai phá, mổ xẻ dẫn dắt người đọc đến với những triết lý, tư tưởng năm sâu trong từng tác phẩm của mình. Có thể nói rằng giai đoạn sáng tác hoàng kim của Nguyễn Minh Châu và những sáng tác nổi bật của ông chủ yếu nằm vào những thập niên 80, tức là là khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thành công, đất nước đang đi vào thời kỳ chuyển mình, kiến thiết lại, những vấn đề về đời sống cá nhân, đạo đức xã hội bắt đầu trở thành đề tài sáng tác được quan tâm hơn cả. Mà có thể kể đến các sáng tác xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu về đề tài này như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa hay Khách ở quê ra,… Thế nhưng với vai trò là một nhà văn đồng thời là một người lính chiến, tác giả cũng để lại một số tác phẩm về đề tài chiến tranh khá sâu sắc, trong đó Mảnh trăng cuối rừng có thể xem là truyện ngắn ấn tượng nhất của Nguyễn Minh Châu về đề tài “chiến tranh cách mạng – lực lượng vũ trang”.

Nhắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ có lẽ không thể nào không nhắc đến tuyến đường Trường Sơn những người lính lái xe, những cô gái thanh niên xung phong quanh năm phá bom, lấp đường, cho những chuyến xe nối dài Bắc Nam, chở tình cảm, viện trợ của hậu phương đến với tiền tuyến xa xôi. Tuyến đường Trường Sơn cũng như những con người gắn bó với nó dần dà đã trở thành một trong những hình tượng được nhiều tác giả khai thác và tạo nên những tác phẩm bất hủ trong nền văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Có thể kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây của Phạm Tiến Duật, Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. Và bản thân Nguyễn Minh Châu cũng góp phần với Mảnh trăng cuối rừng, câu chuyện kể về một tình yêu mỏng manh, nhưng rất mực kỳ diệu giữa những con người xa lạ chưa một lần gặp mặt, nhưng lại tồn tại bền vững giữa chiến trường bom đạn suốt mấy năm trời, bằng tấm lòng thủy chung và niềm tin của một cô gái trẻ, xinh đẹp và có cái tên cũng rất đẹp – Nguyệt.

Câu chuyện mở ra bằng cảnh tượng những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong một buổi đêm nghỉ ngơi đã thay nhau kể về câu chuyện của cuộc đời mình, lúc ấy một chàng trai từ trong góc tối đã lặng lẽ kể về mối tình của mình, những ký ức khó quên về một cô gái tên Nguyệt và thứ tình yêu mà cô đã âm thầm ôm ấp cho Lãm suốt mấy năm trời, từ khi còn nhỏ dại, đến khi đã trưởng thành xinh đẹp. Tuyến đường Trường Sơn thuở ấy không chỉ nối liền hai miền Nam Bắc mà còn trở thành ông tơ bà nguyệt cho vô số những anh lính lái xe và những nữ thanh niên xung phong, những cô công nhân giao thông. Họ gặp gỡ, tìm hiểu nhau bằng những giây phút gặp mặt hiếm hoi, ít ỏi, bên cạnh những quả bom chưa nổ, những hố bom chưa lấp và những chiếc xe bị tàn phá vì bom đạn. Những con người trẻ tuổi, kiên cường trải qua biết bao khó khăn, cái chết thường trực chờ, thế nhưng họ vẫn dành rất nhiều niềm tin, tình yêu vào cuộc sống, vẫn có những ước vọng tương lai tốt đẹp. Những đối với Lãm và Nguyệt tình yêu của họ thậm chí còn mong manh hơn thế, Lãm là một chàng trai khá, có nhiều kinh nghiệm lái xe, đã qua lại tuyến đường khắc nghiệt này không biết bao nhiêu lần. Còn Nguyệt lại là một cô gái trẻ, xinh đẹp, hiền lành, thế nên chị Tính chị gái của Lãm đã có ý nhắm cô cho em trai của mình, một mối duyên tơ đã bắt đầu từ đó. Khó có thể tin được rằng Nguyệt lại yêu một chàng trai chỉ thông qua lời kể của chị Tính, và ôm ấp tình yêu ấy một cách chung thủy hàng mấy năm trời, một lòng hướng về Lãm, giữa chiến trường khốc liệt tình yêu ấy cũng chưa từng đứt đoạn chỉ cần Nguyệt còn sống. Còn với bản thân Lãm, anh không yêu Nguyệt khi mới chỉ nghe chị gái giới thiệu, và với cuộc đời nay đây mai đó của mình Lãm nhiều khi cũng không dám hy vọng gì nhiều, sau mấy lần gặp mặt “hụt”, lại qua mấy năm anh dường như đã quên mất người con gái tên Nguyệt ấy. Bước ngoặt thực sự cho tình yêu của họ bắt nguồn từ một sự “vượt quyền” của anh phó lái dưới quyền Lãm. Anh chàng hoạt bát, trai lơ này lúc đánh xe về cho Lãm, đã cho một cô gái đi nhờ. Lãm không thích điều này, thế nhưng cũng chẳng nỡ đuổi cô gái ấy xuống, đành cho cô đi nhờ một đoạn. Điều Lãm không thể ngờ tới ấy là việc cô gái đi nhờ lại chính là người đã đính ước với anh. Tình huống truyện bất ngờ đã làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và cũng càng khiến cho nhân vật Lãm được hiểu rõ hơn về người con gái này, không phải vì cô là hôn thê của mình mà thông qua tư cách của những người xa lạ tình cờ gặp nhau. Cô Nguyệt cũng vì thế mà được tự do bộc lộ tính cách, suy nghĩ cùng với tấm lòng thủy chung của mình với người yêu chưa biết mặt mà không phải ngại ngùng, chỉ vì Lãm là người mình hằng mong nhớ. Thêm một điều nữa, ta cũng cảm nhận được sâu sắc cái lý thú của truyện, khi Nguyễn Minh Châu đặt Lãm vào hoàn cảnh ngờ ngợ, phấp phỏng về cô gái tên Nguyệt, liệu có phải là cô gái đã đính ước với mình không. Thế nhưng trong suốt chuyến đi từ lúc nói chuyện bâng quơ, cho đến lúc gặp khó khăn nguy hiểm, Lãm vẫn không hề mở miệng nói ra nghi ngờ của mình, thú thực đó là một cái tinh tế trong thể hiện tâm lí nhân vật của Nguyễn Minh Châu. Lãm một phần là không dám, thứ hai là không chắc chắn, thứ ba nữa là cũng chưa muốn để cô biết về mình trong cái hoàn cảnh gặp mặt không chính thức như này. Đó thật sự là tâm lý của một con người bình thường, đặc biệt là khi Lãm đã có tình cảm với Nguyệt, anh lại càng muốn đi đường vòng để xác nhận, để đảm bảo an toàn hơn cho mối quan hệ của anh và cô sau này. Thêm nữa sự “mơ hồ” mà mãi đến cuối truyện, Lãm và Nguyệt vẫn chưa thực sự có một cuộc gặp mặt chính thức đã khiến câu chuyện thêm phần hấp dẫn, thú vị, độc giả từ đó có cơ hội để thỏa sức tưởng tượng về những gì xảy ra tiếp theo, phản ứng của Nguyệt, rồi tình yêu của họ trong chiến tranh sẽ đi về đâu? Đều hoàn toàn là những điều khiến người ta không khỏi trăn trở suy nghĩ, nhưng có lẽ người ta thường hướng tới một kết thúc tốt đẹp.

Bên cạnh tình huống truyện lý thú người ta cũng chú ý đến nhân vật Nguyệt, nhân vật được Nguyễn Minh Châu tập trung khai thác nhiều nhất. Những ấn tượng về cô gái này chủ yếu thông qua ánh nhìn của người lái xe, đồng thời cũng hiện lên rõ ràng thông qua hành trình đi đường, trong những lần các nhân vật vượt qua khó khăn. Đọc nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, ta thấy rằng ông rất chú ý trong cách miêu tả ngoại hình nhân vật, đặc biệt là đối với người phụ nữ, như thể hiện một niềm trân trọng đối với họ. Nguyệt cũng như nhiều nhân vật khác trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đều được ông “tắm rửa sạch sẽ”. Cô gái trẻ hiện lên trong ấn tượng của Lãm là vẻ đẹp tinh tế, trong ngần với “một đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ, gấu quần lụa đen chấm mắt cá”. Sau đó khi chính thức chạm mặt Nguyệt, Lãm đã không khỏi bất ngờ với “một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, giọng nói và tấm thân mảnh dẻ”, lại “mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dài tết thành hai dải. Chiếc làn và chiếc nón mới trắng lóa khoác ở cánh tay trông thật nhẹ nhàng”. Cái vẻ đẹp duyên dáng, yêu kiều của cô gái đã dấy lên trong lòng Lãm những ấn tượng ban đầu tốt đẹp, một cái nhìn thiện cảm hơn hẳn, khác với ấn tượng ban đầu về cảnh tượng anh thấy “một bên là cái vẻ nũng nịu của một cô nàng ôm chiếc nón trắng đứng sát cửa xe, một bên là những câu hỏi ỡm ờ của “anh tài phụ”… đang ngồi vắt vẻo trong buồng lái…”. Hay “cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn nhường ấy”, khiến Lãm không khỏi “phát hoảng lên” dù rằng anh vẫn nhận ra “tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác”. Lãm bắt đầu có những chuyển biến tích cực trong nội tâm, dáng vẻ ngoài mong đợi khác hẳn với những cô công nhân giao thông “thường cô nào cũng thấp và đẫy đà”, đã mang đến cho anh nhiều sự tò mò, thế nên anh đã mời cô lên ghế phó lái, việc mà trước đây anh chưa làm bao giờ. Không chỉ vẻ đẹp về ngoại hình như sương, như hoa mà cả lối nói, lối ứng xử của Nguyệt cũng thể hiện cô là một cô gái thông minh và duyên dáng. Từ việc cô hỏi Lãm về đèn “quả dưa” hay “quả táo”, đến việc cô thành thực kể về những cô Nguyệt trong đội làm đường khi Lãm hỏi, rồi cái nét bối rối, ngượng ngùng khi cô giải thích về mấy chỗ đường lồi lõm họ đi qua do đội cô chịu trách nhiệm san lấp, tu bổ. Tất cả đều cho thấy ngoài một vẻ đẹp ngoại hình hiếm có giữa Trường Sơn, Nguyệt còn có một tâm hồn như trăng, trong sáng, dịu dàng, dễ thương và dễ khiến người khác cảm thấy gần gũi vô cùng. Và đối với Lãm, một chàng trai dù đã quen bom đạn, “già đời” trong nghề lái xe, mà trái tim vẫn lỡ làng vài nhịp, để đến mức phải ngại ngùng trước cô gái trẻ khi nhận nhầm cả trăng thành pháo sáng của địch. Nhưng Nguyệt không chỉ hiện lên với tính cách thoải mái, tự nhiên, mà nàng cũng còn cả dáng vẻ e lệ, ngập ngừng khi ngồi cạnh một người đàn ông xa lạ, cô vẫn giữ cho mình những sự ý tứ rất duyên, Nguyệt lên ngồi ghế lái phụ “cô cố ý ngồi sát mép cửa, chiếc làn ôm gọn trong lòng, để lại giữa Lãm và cô một khoảng trống lớn”, ánh mắt rụt rè, tò mò kín đáo ngắm xung quanh cái “căn nhà” của anh Lãm. Nguyệt quả thực khiến người ta yêu quá, thảo nào chị Tính cứ mãi nhắm cô cho cậu em trai, sợ cô bị anh lính nào đó cướp mất.

Dĩ nhiên rằng nếu Nguyệt chỉ đẹp và có tính tình vui vẻ, duyên dáng, trong sáng thì cô cũng không làm nên một nhân vật đặc sắc. Hơn hết, những cô gái trên chiến trường, thì vẻ đẹp của họ cũng luôn gắn liền với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự nhiệt huyết trong, hăng hái trong nhiệm vụ. Dẫu rằng Lãm với Nguyệt không phải là đồng đội, cũng chưa từng phối hợp với nhau bao giờ, thế nhưng từ một cuộc gặp mặt tình cờ, họ đã trở thành những con người phối hợp ăn ý với nhau. Nguyệt đã bộc lộ được sự tự tin và tấm lòng nhiệt thành của mình khi luôn động viên anh lính lái xe về khả năng nhớ đường, quen thuộc địa hình của mình bằng chất giọng rất khảng khái”Anh cứ yên tâm, đoạn đường này em quen lắm”. Không chỉ nói cô còn bộc lộ khả năng của mình bằng hành động, vừa chỉ đường cho Lãm đi đúng hướng, ở những chỗ bánh xe sục sâu quá Nguyệt kiêm luôn vai trò lơ xe nhanh chóng nhảy xuống làm “xi nhan” cho Lãm kéo xe lên. Đặc biệt, vốn dĩ cô gái chỉ muốn đi nhờ đến trước sông, thế nhưng bằng tấm lòng biết ơn và cảm tình với người lính lái xe cô đã nhiệt tình muốn theo xe qua sông, giúp anh vượt qua chỗ sông có nhiều nguy hiểm “anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư”. Một câu nói thể hiện sự nghĩa khí, vẻ chân chất, tấm lòng đẹp như trăng của Nguyệt.

Từ đây ta bắt đầu thấy Nguyệt lột xác, từ một cô gái nhẹ nhàng, duyên dáng bỗng trở thành một nữ chiến sĩ nhanh nhẹn, thông minh và quyết đoán. Bằng những kinh nghiệm lâu năm khi làm việc ở ngầm Đá Xanh cạnh con sông này, Nguyệt nhanh chóng tinh ý phát hiện ra tiếng máy bay trinh sát, đồng thời nhắc nhở cho Lãm về việc tắt đèn xe kẻo bóng sáng sẽ loang ra xa khắp mặt sông, tránh địch phát giác. Thế rồi với ấn tượng về một cô gái tỉ mỉ, sạch sẽ, biết chăm chút cho bản thân, cả người toát lên hơi thở trong ngần, lại càng thêm sâu sắc khi cô gái ấy bỗng “vội nhảy ùm xuống sông” một cách kiên quyết và dứt khoát, chấp nhận ướt, bẩn để dẫn lối cho xe của Lãm, nhanh nhẹn lội qua bên kia sông để giúp Lãm cột dây tời xe. Lúc này đây người ta mới phát hiện ra rằng Nguyệt không chỉ là một cô gái đẹp, duyên dáng, một cô công nhân làm đường, mà còn kiêm cả vai trò chiến sĩ, một chiến sĩ giữa tuyến đường Trường Sơn khắc nghiệt, đang vận dụng hết những sự thông minh, nhạy bén để phối hợp với đồng đội bảo vệ chiếc xe chở đầy quân nhu. Và như thế Nguyệt lại càng đẹp và càng sáng hơn, nước sông hay sự ướt át dường như lại càng rửa sáng thêm cái vẻ đẹp ẩn giấu trong tâm hồn của cô gái trẻ. Trong lúc nguy hiểm cận kề, Nguyệt lại càng không nghĩ gì đến bản thân, sự dũng cảm, kiên cường, tinh thần bất khuất, vì đất nước đã cho cô một sức mạnh phi thường để đẩy cái người đàn ông cao lớn ấy vào một góc nào đó “rất cứng và sâu”, để bảo vệ anh khỏi những trận đánh tọa độ hung hiểm của địch, còn bản thân cô đứng chơi vơi bên ngoài mặc kệ sống chết. Nguyệt kiên quyết bảo vệ anh lính lái xe mới quen cùng chiếc xe chở đầy đồ quân sự với trái tim anh dũng, cứng rắn đinh ninh “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp ở đó!”. Đối mặt với nguy hiểm, mới thấy dù là đàn bà hay đàn ông người ta cũng có sự mạnh mẽ và liều lĩnh y như nhau, khi cần phải bảo vệ một điều gì đó quan trọng, mà ở đây không chỉ là chuyến hàng mà còn là đất nước, còn là kháng chiến đang trong những ngày khó khăn gian khổ. Không chỉ vậy Nguyệt còn là một đồng đội, nhanh nhẹn và biết phối hợp, khi thấy Lãm chạy ra bảo vệ xe, cô cũng lao ra nhanh chóng nhảy lên hàng ghế phụ, rồi ra sức chỉ đường cho Lãm trong đêm tối, đem hết những kinh nghiệm sở tại về con đường này trong cô để cùng chiến đấu. Nguyệt cứ nói “rành rọt như người đếm ở bên tai: “Anh ngoặt sang trái… Trước mặt anh có hố bom đấy… Chuẩn bị sắp lên một cái dốc có “cua”…”. Có quãng nào khó đi và tối Nguyệt lại nhảy xuống đi dò đường trước để cho Lãm bám theo sau. Sau khi an toàn vượt qua được sự hung hiểm, Lãm mới nhận ra Nguyệt bị thương, máu chảy ướt cả một bên vai, thế nhưng Nguyệt đã cố nén chịu đau, người con gái mảnh dẻ, như hoa như sương ấy, không hề nhăn nhó, than thở mà theo anh một đường liên tục, lại càng chứng minh cho sự kiên cường, ý chí mạnh mẽ trong trái tim của Nguyệt. Điều đó càng làm Lãm cảm động và thêm cảm tình cô hơn, đặc biệt là đối với sự lạc quan, hồn nhiên khi cô nói “anh cứ yên tâm, vết thương chỉ xước ngoài da thôi. Từ giờ tới sáng em có thể lên đến tận trời được” để an ủi sự thương xót, áy náy trong lòng Lãm.

Cuối cùng, chắc phải nói về tình yêu trong lòng Nguyệt, thực không dễ dàng gì mà một cô gái lại dành cho người con trai chưa biết mặt thứ tình cảm thủy chung hàng mấy năm ròng không đổi như thế. Đó là một điểm sáng nổi bật nhất của nhân vật, đồng thời cũng chính là “hòn ngọc” mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến tất cả độc giả đọc truyện. Nhà văn muốn khẳng định điều gì thông qua nhân vật này, thì đó chỉ có thể là niềm tin, niềm yêu mạnh mẽ của cô gái, cũng như những hy vọng về một tương lai tốt đẹp, rằng một mai có thể gặp được Lãm, người yêu chưa từng thấy mặt, để cùng xây dựng những mộng ước hạnh phúc tuyệt vời. Mà xa hơn ấy chính là niềm tin vào kháng chiến một mai nhất định thành công, Bắc Nam sum họp một nhà, cô nhân công làm đường và anh lính lái xe trở thành đôi. Thú thực rằng thứ tình yêu thủy chung mà Nguyễn Minh Châu xây dựng cho Nguyệt, có vẻ hơi kỳ lạ giữa đời sống ngày nay, và khó có thể xảy ra. Thế nhưng trong thời chiến, khi gặp gỡ ít, xa cách nhiều, đặc biệt là sự khốc liệt của chiến tranh, tình yêu dần trở nên thiêng liêng và khác biệt, cùng với sức trẻ, lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu không ngừng nghỉ, những con người trẻ tuổi còn cần thêm tình yêu để làm động lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ, đó là một niềm hy vọng dẫu mỏng manh, nhưng rất đẹp, rất trân quý. Nguyệt cũng vậy, Lãm từng thắc mắc “Qua bấy nhiêu năm tháng sống giữa bom đạn và cảnh tàn phá những cái quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao? Trong tâm hồn người con gái bé nhỏ, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không hề đứt không thể tàn phá nổi ư?”. Những gian khó trong chiến tranh, chỉ càng làm cho mối dây tình cảm của Nguyệt thêm sâu sắc, càng chứng minh cho cái sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, một tâm hồn giàu đẹp đã trở thành miền đất màu mỡ gieo hạt giống tình yêu với Lãm. Cũng chính tình cảm đặc biệt của Nguyệt dành cho mình mà Lãm đã có những trăn trở, bâng khuâng, đồng thời càng thêm tin tưởng vào tương lai, vững lòng hơn trong chiến đấu. Lãm chiến đấu hôm nay không chỉ vì đất nước, dân tộc, mà cũng còn vì cả tấm lòng của Nguyệt dành cho mình trong suốt những năm tháng qua, trở thành động lực, niềm tin vào một tương lai tươi đẹp của đất nước.

Mảnh trăng cuối rừng là một truyện ngắn với cấu tứ đơn giản, là những dòng ký ức của một anh lính lái xe về người con gái được đính ước, nhưng chưa từng gặp mặt. Cuộc gặp mặt tình cờ và đầy tự nhiên đã trở thành cơ hội khiến anh yêu và hiểu hơn về cô gái có cái tên rất đẹp – Nguyệt. Truyện ngắn cũng truyền tải một nội dung tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về con người giữa chiến tranh rằng ở họ luôn có một “viên ngọc” tinh thần sáng chói, ẩn giữa làn bụi bom đạn, nhưng chưa bao giờ mất đi vẻ sáng đẹp, mà vẫn luôn được bảo vệ vững chắc trong tâm hồn. Ấy là niềm tin, niềm hy vọng, sức sống tiềm tàng mãnh liệt, vẻ đẹp của những tình yêu thủy chung, son sắt luôn kiên cường trước thực tại khắc nghiệt, khiến người ta không khỏi trân trọng và yêu quý.

Phân tích Mảnh trăng cuối rừng – Mẫu 3

Do tính chất không trực diện của đề tài, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu đã làm một bổ sung, một khám phá về một phương diện khác, ở đó không phải không có tiếng ầm ầm “rung cả đường sá, núi non” của xe xích kéo pháo, âm thanh “ập đến như tiếng sét” của máy bay địch đánh tọa độ, những chiếc cầu bằng đá “xanh biếc và đẹp như một giấc mộng” chỉ một nháy mắt đã “bị cắt làm đôi như một nhát rìu phang rất ngọt”… Ở đó còn có cái yên tĩnh, độ lắng sâu, những nỗi niềm lẩn khuất, hi vọng được nhóm lên bền bỉ, dẻo dai gần như tương ứng với sự khốc liệt, xô bồ, ngổn ngang của cuộc chiến hiện ra trước mắt. Chỉ có điều tất cả những cung bậc đa diện của đời sống nội tâm ấy không tách rời, ngược lại in rất đậm dấu vết của chiến tranh. Cuộc gặp gỡ, sự chờ đợi của một tình yêu chẳng hạn, trắc trở, mong manh, mơ hồ nhưng hình như là có thật, có thật mà cứ tưởng như một giấc chiêm bao. Mảnh trăng cuối rừng là hình ảnh khúc xạ từ những giấc chiêm bao ấy.

Nhân vật chính của câu chuyện là những nhân vật đời thường, thậm chí rất quen thuộc của chiến tranh: anh bộ đội lái xe và những cô công nhân làm đường vùng tuyến lửa. Chiến tranh là cái gạch nối cho họ gặp nhau, những cuộc gặp gỡ để nhớ để quên, không có gì đặc biệt. Chính vì vậy, mặc dù xe mới đang lăn bánh, nhìn về nơi mà mình sẽ đi đến. Lãm đã hình dung ngay được cuộc gặp gỡ “giữa đám các cô gái nghịch như quỷ sứ” ấy nó thế nào. Gặp anh, Nguyệt sẽ nói rất ít, còn “các cô bạn thì sẽ làm loạn lên”.

Song, chẳng hề gì bởi “họ đều là những người bạn của anh em lái xe, đều là những người con dũng cảm, chân thực và mến khách”. Vậy cái hấp dẫn người đọc là gì, nếu không phải là tình huống khá đặc biệt: Cuộc “trốn tìm” chưa một lần tới đích của một tình yêu, một tình yêu cũng lại khác thường. Nó chỉ có thể xảy ra trong những cuộc chiến tranh. Yêu nhau mà chưa một lần gặp mặt, cũng không một sự hẹn hò, thế mà vẫn chung thủy, chờ đợi nhau giữa muôn trùng cách trở. Tình huống đặc biệt ấy tạo được một không khí, một dư vị rất giàu chất thơ. Chính cái bóng này, chứ không phải cái hình (cốt truyện) khoác lên được chiếc áo nhiều màu cho các sự kiện đầy chất ngẫu nhiên, đem đến cho người đọc những liên tưởng nhiều chiều, bất tận.

Câu chuyện được chính người “trong cuộc” kể lại trong một chiếc lán giữa rừng. Nó bập bùng nhóm lên như ngọn đèn dầu tâm tình, tâm sự. Nói với đồng đội trong trung đội lái xe mà cũng là nói với chính mình, nó như một độc thoại nội tâm. Cái riêng đã hòa nhập vào cái chung, do vậy có sự lan tỏa, đồng vọng ngân nga. Hiện tượng này là phổ biến trong chiến tranh: Những người sát cánh, sẻ chia cái sống, cái chết từng giờ. Không có gì là sở hữu riêng. Ngay đến một bức thư, giữa chốn rừng núi heo hút ấy, nó cũng “xem như của chung của mọi người”, nỗi buồn, niềm vui của bất kỳ ai cũng thuộc về tất cả. Vì vậy giữa người kể chuyện và người nghe chuyện, giữa kênh phát với kênh thu có cùng một tần số. Cái ăng ten giao cảm này tạo nên sự gắn bó giữa những con người và đẩy cho câu chuyện cứ thế lăn đi trên cái mạch khi liên tục, lúc ngắt ngừng của nó…

Hoàn toàn không phải là phung phí, dài lời khi tình huống vào truyện là hai nỗi bực nối tiếp nhau cua người lái xe có tên là Lãm ấy. Còn gì “sốt ruột” hơn khi người chờ xe là người lái, nhất là người lái đầy tinh thần trách nhiệm, lại trong một hoàn cảnh khác thường: “Giữa thời chiến, xe mình chỉ cần vượt lên thiên hạ nửa vành bánh, khi qua phà qua ngầm đã đủ nhàn”. Nhưng cái mà anh chờ là tiếng máy chiếc Gát quen thuộc của mình mãi chưa thấy dù đã “hết sức lắng tai nghe”, trong lúc những chiếc xe không đợi không chờ “cứ lao vun vút trước mặt như ngựa đua”. Đó là chưa nói chuyến xe này đã được hoạch định trong độ sít sao của nó. Chậm một phút là kế hoạch có thể đổ vỡ hoàn toàn không gì bù đắp nổi. Với dự định chạy sớm, giao hàng sớm kịp quay về giấu xe ở rừng săng lẻ, một địa điểm an toàn, Lãm sẽ ghé thăm người chị ruột ở khu vực gần cầu Đá Xanh. Cuộc thăm viếng không chỉ là đáp ứng yêu cầu một phía với lời phàn nàn vừa trách móc vừa thiết tha: “Đã hơn ba năm chưa được gặp cậu Lãm đấy!”.

Còn cái riêng của Lãm là gì, anh chưa nói, dù nó quan trọng không kém. “Nhưng dầu sao nó cũng chỉ là một việc riêng”. Gài vào câu chuyện một cách kín đáo những nỗi niềm như thế, đó là “cái duyên” của người kể. Bởi nó tạo nên một tầng nghĩa thứ hai, một mạch ngầm, phía dưới những con sóng đều đều mặt nổi bên trên của những sự kiện. Đây là cái nút, một thứ nút bấm không phải lúc nào cũng có thể mở ra, vì nếu sớm mở ra, truyện không còn là truyện nữa. Vừa hết cái bực dọc thứ nhất khi “đồng chí lái phụ đánh xe lên, từ dưới chân dốc, đã bóp còi inh ỏi như xe chữa cháy” cùng với lô hàng đã nhận và phiếu giao hàng có kí nhận hẳn hoi, lại nảy sinh một tình huống ngoài dự kiến. Anh chàng lái phụ vui tính không phải vô cớ mà lúc mới giao xe đã nháy mắt ranh mãnh và phát mạnh vào vai Lãm “một cái đau điếng. Cái gì vậy?”. “Còn một cái nữa, cái này có nhưng mà không ghi trong phiếu”. Xe chở hàng quân sự mà cho người đi nhờ là trái điều lệnh, “dù bất cứ trong hoàn cảnh nào”. Cho nên người lái phụ trình bày dù có “hợp lý” đến đâu, Lãm vẫn giận cái hành vì “tự động vô nguyên tắc” ấy. Là một lái xe, anh lạ gì những cuộc gặp gỡ.

Một “cảnh tượng quen mắt” hiện ra giữa một bên là “cái ve nũng nịu của một cô nàng ôm chiếc nón trắng đứng sát cửa xe”, còn một bên là “những câu hỏi ỡm ờ” của anh tài phụ “của tôi đang ngồi vắt vẻo trong buồng lái”. Lãm chán nản, xót xa: “Thế là đủ tai họa cho tôi rồi! Tàn cho được câu chuyện ấy thỉ xe lèn sớm làm sao được?”. Với một “việc đã rồi” như thế, mà chấp nhận thì ấm ức vì anh là một kẻ đồng tình với việc làm trái nguyên tắc nói trên. “Giận cá” thì chỉ còn biết “chém thớt”. Sự “chẳng lấy gì làm ôn tồn” của Lãm khi lên tiếng hỏi, câu hỏi đầu tiên là “Ai ngồi trong đó”, là lẽ thường tình. Và cũng là thường tình khi người đi nhờ xe im lặng (chắc người ấy đang phấp phỏng sợ tôi không cho đi nhờ – Lãm nghĩ). Nhưng bất ngờ đầu tiên, sau cái im lặng kia, với Lãm là câu trả lời của người đi nhờ xe: không sợ sệt như Lãm đoán. Trong cái câu nói: “Tôi đây… Tôi nhờ đồng chí lên cầu Đá Xanh một tẹo”, anh “đoán chẳng sai” có một nửa. Cái nửa ấy là giọng nói của phụ nữ. Nửa còn lại kia, mặc dù là vẫn của cô gái đi nhờ xe đang phải nhờ vả vào anh, nhưng “tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác”. Cái sự “cứng cỏi” trong đối đáp sau đó đã thay đổi hẳn mối tương quan.

Người chủ động hỏi, hỏi trong tình thế chủ động đã chỉ còn ở vào một tình thế bị động “vội nổ máy” cho xe đi vì trong bụng đang “phát hoảng lên vì cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn dường ấy”. Mà không “phát hoảng” làm sao khi biết rõ người ấy là đàn bà, nhưng khi gặng hỏi thì câu trả lời ngay tức khắc: “Đàn ông”. Đặc trưng của phụ nữ là sự kín đáo chẳng hạn, thế mà khi được một chàng trai tò mò hỏi là đi thăm chồng hay người yêu, lại không hề do dự một giây: “Em đi thăm người yêu đấy”. Có thể nói, trước Lãm lúc này là một chân dung chưa toàn diện (vì anh còn chưa biết mặt cô gái kia mà) nhưng đã sắc sảo hiện ra một “cái tôi” không dễ coi thường. Đó là một nhân cách. Cũng vẫn là nhân cách ấy, nhưng một phía khác, phía hoàn chỉnh hơn, Lãm sẽ nhận ra khi anh đã “thân mật” với cô gái hơn một chút với câu hỏi dịu dàng: “Cô làm ở ngầm Đá Xanh hay chỉ về đây thăm ai?”. Cùng một lượng thông tin ngang nhau nhưng do mức độ cảm thông và hiểu biết được tăng cường, đã vừa đủ để xuất hiện trên khuôn mặt sáng sủa của cô gái “một nét e thẹn”, không còn đáng sợ mà là đáng yêu. Như thế là một hoạt cảnh đơn sơ mà sinh động, rất “thời chiến” đã diễn ra và đột ngột dừng lại ở cái chi tiết có phần bột phát, quá đà để định hình một chân dung chưa hoàn thiện, chưa hoàn thiện nhưng đã lung linh.

Câu trả lời của cô ta, với Lãm vẫn còn là lơ lửng, cái câu “Em đi thăm người yêu đấy”. Thật hay đùa? “Biết đâu đấy, biết dâu cô ta nói thật?”. Sự dừng lại ấy giống như việc hãm phanh nhưng không phải để vượt mọi chướng ngại nào mà chiếc xe quân sự của anh cần phải vượt qua, nó chỉ nhằm tiếp thêm nhiên liệu cho cuộc hành trình, ơ đây, về hình thức, nó như rẽ sang một mạch khác, nhưng thực chất là điều chỉnh lại những đường dây liên hệ tưởng là rời rạc mà kỳ thực lại gắn bó hữu cơ. Để từ đó, mọi chi tiết – từ ngôn ngữ đến cử chỉ của nhân vật trong tầm quan sát của người đi xe không còn đơn nghĩa. Chẳng hạn, sau này, trước câu hỏi làm như thuận miệng vô tình của Lãm: “A quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé” và câu trả lời rụt rè của người đi nhờ xe: “Em là… Nguyệt!”, người kể chuyện và người nghe chuyện tự chắp nối những liên tưởng, những giả định của mình. Vì cả hai đối tượng (người kể và người nghe) đã có được một thông báo tiên đề: một cô Nguyệt trong bức thư của chị Tính.

Cô Nguyệt trong thư dịu dàng và xinh đẹp như được tỏa ra từ vằng vặc, rạng ngời một sắc trăng đêm, còn cô Nguyệt trong đời thực lúc này, trước mắt Lãm, dù được nhìn qua “ánh đèn tù mù” khi thì của bóng đèn gầm hắt xuống, khi thì của đoàn xe xích “lao đi ầm ầm bên cạnh”, vẫn là một cái gì khó trộn lẫn. Đó là “một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ”. Không hiểu vì sao, cô Nguyệt lúc này, vẫn là dáng điệu ấy, chiếc áo màu xanh và chiếc nón khoác tay như mọi cô gái đi nhờ xe khác mà Lãm nhắm mắt lại cũng hiện ra rõ mồn một, lại không giống bất cứ một ai. Ngoài thân hình mảnh dẻ “khác hẳn với nhiều cô gái công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà”, Nguyệt còn có những nét riêng, và nét nào cũng duyên dáng dù kín đáo chứ không lòe loẹt phô trương. Cũng là cái áo chít hông nhưng “vừa khít”, còn cái làn, cái nón cũng khoác ở cánh tay nhưng không gượng gạo mà “nhẹ nhàng” thanh thoát tự nhiên.

Như vậy, sự trùng hợp đến là vô lý đã xảy ra. Cuộc đời sao lại trớ trêu làm vậy! Cô gái đang đợi chờ anh là Nguyệt. Vậy cô Nguyệt ngồi đây có phải là nỗi chờ đợi đó không? Với băn khoăn không dê giải đáp mặc dù trong thâm tâm Lãm “phải tìm cho đến ngọn nguồn lạch sông”, cô gái đi nhờ xe mang vẻ đẹp lấp lánh hai chiều (thực và mộng) để làm cho người chiến sĩ lái xe không thể nào còn dửng dưng được nữa.

Phản ứng của Lãm mặc dù có vẻ hờ hững “như không”, nhưng sự mời mọc “vồn vã” thì đã ân cần không chỉ ở giọng nói. Cùng với cánh tay mở rộng cửa buồng lái, còn là cái nhìn không thể nói là vô tâm khi anh “vội đưa mắt ngắm cô gái một lần nữa thật kỹ lưỡng”. Rồi khi cô gái tên là Nguyệt ấy đã ngồi vào cái chỗ đặc biệt mà cả một đời lái xe của Lãm, chưa bao giờ anh “mời một cô gái ngồi trong buồng lái” bao giờ, những câu hỏi của anh đã không dừng được nữa. Cả một hệ thống câu hỏi về những cô Nguyệt ở đơn vị làm đường… đã làm cho chính người được hỏi phải ngạc nhiên: “Sao anh hỏi tỉ mỉ vậy?”. Nói cho đúng thì đó là cuộc thăm dò. Mà điều ấy đâu chỉ có riêng anh?

Với tư cách là người quan sát, Lãm không đọc được tâm trạng của Nguyệt, nhưng chắc chắn về phía người đọc chúng ta, Nguyệt không thể không có thoáng chốc phân vân. Vì người cô yêu cũng là lính lái xe, cậu em trai mà chị Tính “nói thẳng ý định” của chị ấy nhiều lần, trong những lần ấy Nguyệt chỉ biết im lặng và “đỏ mặt bừng lên” cũng đi trên tuyến đường này, và hôm nay mình vừa ra đi từ cái nơi hẹn gặp người ấy… Chỉ có điều khác là dù có băn khoăn đến đâu, Nguyệt cũng không dễ dò hỏi như Lãm. Nếu có, nó cũng không thể vội vàng, chỉ như một cái gì ẩn hiện mà thôi. Cho nên ý mới ẩn sau lời, trốn chạy trong trọng âm, ngữ điệu: “Anh nhỉ? Có phải không nhỉ?”. Rõ ràng là một câu hỏi, nhưng hỏi về cái gì thì Lãm lại không nghe được, người nghe không nghe được nhưng người hỏi lại tha thiết thế kia? Đến nỗi người lái xe phải hỏi lại người hỏi “Cô hỏi gì?”. Câu trả lời của Nguyệt có lẽ qua được cái giây bối rối khi cất tiếng hỏi đầu tiên, chỉ còn êm đềm như một dòng suối chảy: “Em hỏi có phải các anh lái xe đi nhiều nơi, chắc hẳn quen biết nhiều người lắm?” Nguyệt và Lãm là hai nhân vật chơi trò ú tim đồng tâm trạng đang đi với nhau, vì chưa một lần gặp gỡ nên ngồi bên nhau rồi mà vẫn như hai người xa lạ.

Đó là sắc thái ngẫu nhiên của tình huống truyện. Nó đến với người đọc như một sự tình cờ nhưng thường thấy của chiến tranh. Trở lại vấn đề ở người kể chuyện, ở cách dẫn chuyện của nhà văn. Khi biết ở đơn vị thanh niên xung phong ấy có đến ba người cùng có tên là Nguyệt, không phải Lãm khôn ngoan, khéo léo làm phép loại suy, giảm thiểu. Nhưng khi đã “giảm thiểu” đến mức cuối cùng rồi, khi biết một trong ba người ấy đã có bốn con thường được gọi đùa là chị Nguyệt “lão” rồi, cái ẩn số “rối như ta vò” vẫn cứ trơ ra: “Một trong hai người ai là người tôi sắp tìm đến, ai? Người tôi sắp tìm đến là ai? Bởi vì trong khi khai thác “đối tượng”, Lãm biết được rằng cô Nguyệt đã hi sinh “cách đây ba, bốn tháng” cũng là người con gái có những điểm lý lịch và phẩm chất giống cô Nguyệt ngồi cạnh mình đây: Chưa có chồng, mới có người yêu, mà cũng chỉ “hình như” thôi. Trong công việc thì dũng cảm, đối xử thì hiền lành, chết đi “ai cũng tiếc”. Nhớ lại những dòng thư tâm tình của chị Tính nói về cô Nguyệt “của anh”-. Cô ta “rất ngoan ngoãn và tích cực… Trên đời khó tìm được một người con gái như thế…” Vì vậy khi biết một cô Nguyệt như thế đã hi sinh, Lãm đã bị “sốc” ngay. Mặc dù tự kiềm chế, nhưng cảm giác trong anh như bị một gáo nước lạnh dội vào.

Câu hỏi về cái chết ấy dù vội vàng nhưng “rõ ràng nghe tiếng nói của mình mà như của người khác”. Sự thật không còn tự chủ được bản thân nặng nề hơn, Lãm phải bám vào một cái gì để khỏi chơi vơi, mất đà. Nhưng mặt đất vẫn cứ ngả nghiêng, chao đảo. Bình tĩnh hơn một chút khi biết chị Nguyệt “lão” đã có bốn con rồi thì câu nói đùa – chẳng còn sức để đùa – của anh trở nên “nhạt thếch” vì đó là âm sắc ngôn từ nhợt nhạt của một kẻ vô hồn. Mạch truyện đang đi vào những “của” những “ngầm” gấp khúc. Xử lý tình huống đầy phức tạp đó ra sao? Con người lý trí ở trong anh bật tín hiệu hiểm nguy khác thường: đèn đỏ. Phải dừng lại vì đây là cái ngưỡng cuối cùng không thể vượt qua, không thể “đi sâu vào câu chuyện riêng giữa chuyến công tác”. Nhưng con người khác – từ trái tim anh lại đòi hỏi, thúc bách một sự trả lời: “Trong hai người con gái, một trẻ và xinh đẹp ngồi bên cạnh và một người đã chết anh dũng, ai là người đã từng mang canh cánh trong trái tim tuổi trẻ mối tình đầu đối với tôi suốt mấy năm, mà tôi lại tỏ ra hờ hững?”. Nhất là có một giả định: Nếu cô Nguyệt đã hy sinh là Nguyệt ấy, Lãm “sẽ mang mối hận mãi mãi”.

Sự dồn nén của tình huống và tâm trạng đến mức thẳng căng, ngột ngạt, cần phải “xả hơi” về mặt tâm lý cho người đọc, người nghe. Điều này hợp quy luật. Mạch truyện giãn ra, có phần thư thái hơn, dù đường sá lúc này lại còn gập ghềnh, “ngổn ngang hố bom”, hơn trước. Nhưng vì sao một nhầm lẫn “không chết người” nhưng thật đáng tiếc với người “già đời trong nghề lái xe, bom đạn nguy hiểm gặp đã nhiều”, lại không phải anh nhút nhát, vậy mà không hiểu sao đêm nay anh lại “nhìn trăng ra pháo sáng”? Có lẽ vầng trăng thì vẫn bình yên, cái bình yên muôn thuở, nhưng bầu trời của lòng anh, những đám mây u ám thì vẫn chưa tan, chưa có ngọn gió nào xua đi được. Nó vẫn là một ám ảnh nặng nề (nếu cô Nguyệt hi sinh là cô gái ấy). Trường liên tưởng này là liên tục, tự nó tỏa ra một góc nhìn không còn là vô tư, khách quan được nữa. Không phải Lãm chỉ tự trói mình bởi mặc cảm xót xa, anh cũng muốn giải thoát. Nhưng bằng cách nào đây, thì đó vẫn là một thách thức, một câu hỏi không có hồi âm. Là người đọc, người nghe có lẽ cũng đồng cảm với mối “tơ vò” của người kể.

Chỉ có một cách mà anh không thể làm là hỏi cô ta có biết chị Tính hay không, “mọi sự sẽ vỡ ngay. Sở dĩ Lãm “không muốn hoặc không dám hỏi” vì cái đẹp của con người ở đây cũng như cái đẹp của ánh trăng, nó gần gũi mà xa xôi biết mấy. Chỉ cần một đụng chạm nhỏ là tan. Vì thế mà bất kỳ ai rơi vào tình trạng của Lãm đều phải thận trọng nâng niu một cái gì dễ vỡ. Cái đẹp nói chung là như thế, nhiều khi nó chỉ tồn tại trong cảm giác của con người. Nói gì đến cái đẹp ở đây đứng trước hai khả năng nghiệt ngã: mất và còn. Lãm sẽ là người giàu có nhất đời còn ngược lại anh sẽ chỉ còn hai bàn tay trắng với sự nuối tiếc mà thôi. Chính là ở vào cái thế chênh vênh giữa hư và thực này, tâm hồn người lính lái xe đã trở nên tâm hồn thi sĩ. Cũng là một vầng trăng đầu tháng đó thôi, mà mỗi lần hiện ra một khác. Có lúc nó tội nghiệp, đáng thương, run rẩy hiện ra giữa sương lạnh và mây đen tái nhợt. Đó là một thứ ánh sáng lòe nhòe “mỗi lúc xe nảy lên hay vòng qua chỗ lượn, mảnh trăng lại chập chờn lay động, có lúc thấy rơi tõm xuống khoảng tối mịt mù của cánh rừng già”.

Đến khoảng gần khuya, vẫn vầng trăng ấy nhưng có thương tổn, hao mòn chút ít vì mây gió, sương đêm nhưng lại trong trẻo rạng ngời. Đó là “mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc”. Giữa hai cái vùng tối sáng ấy, người lính lái xe vốn chỉ quen chú ý đến đường, đã thêm một cảm giác bồng bềnh của người “đi giữa đêm trăng mà không biết”. Âm thanh mà anh lắng nghe không chỉ là cái âm điệu thường ngày, cái “ràn rạt” của gió thổi vào cành lá ngụy trang trên nóc xe mà cả một tiếng chim mơ hồ trong khoảng sâu thẳm của trời đêm. Sông, núi trong sương cũng vậy. Cái thì mờ đi như dòng sông bên trái đường phút chốc bị sương trắng phủ kín, cái thì rõ mồn một không chỉ hình hài mà dường như còn có linh hồn của nó nữa kia. Đó là ngọn núi đá bên kia sông “đen đủi và cô độc giữa một màn trắng xóa”.

Chính là trong bối cảnh ấy, câu trả lời của Lãm với cô gái đi nhờ xe mới trở nên bóng bẩy không ngờ. “Đời lái xe chúng tôi như con vạc ấy, cô ạ! Nay rừng này, mai qua suối kia, nhưng tháng này sang tháng khác vẫn làm bạn với đường, với trăng thôi”, ở đây, quy luật của cái đẹp đang vận hành. Nó có khả năng đánh thức mọi giác quan, nó khơi lên những gì mà cuộc đời thực hàng ngày không thể khơi. Đó là khả năng chắp cánh để mọi tâm hồn bay bổng. Sự chuyển hóa lạ lùng đến nỗi tự con người không còn nhận ra chính mình. Băn khoăn rất thành thực của Lãm là: “Chẳng biết lúc ấy, ai mới móc miệng cho mà tôi bỗng trở nên ăn nói văn vẻ đến thế” bắt nguồn từ cái phần ngủ yên, quên lãng ấy nay đang cựa quậy, xôn xao. Bản chất của lãng mạn là cái đẹp đến hai lần. Bởi cái đích của nó xa rộng và luôn hướng đến “cái thiện”, “cái chân”, còn bởi vì trong cái cảm quan mới mẻ ấy, cuộc sống chủ thể và khách thể tự nó thay đổi dáng hình trong mối giao cảm tri tâm đáng yêu, đáng mến. Bắt rễ vào cái thực, vào cuộc đời, cái lấp lánh của giấc mơ không còn chơi vơi, mặc dù điều này có khi dường như chỉ là vô thức.

Một linh cảm không lý giải đã ập đến lúc này với Lãm là “không hiểu sao, lúc ấy, như có một niềm tin vô cớ mà chắc chắn từ trong không gian ùa tới tràn ngập cả lòng tôi. Tôi tin chắc chắn người con gái đang ngồi cạnh mình là Nguyệt, chính người mà chị tôi thường nhắc đến”. Niềm tin của Lãm được tắm gội bằng thứ ánh sáng thiên thần, cả con người ngồi cạnh anh cũng thế. Nguyệt vốn nghĩa là trăng, “từng sợi tóc” của người ấy cũng đang chốc chốc lại “sáng lên” mỗi lúc Lãm quay nhìn về phía ấy. Nếu đặc sắc của Mảnh trăng cuối rừng là cái đẹp kì ảo, thì đoạn văn đang được phân tích ở đây như một thứ tâm điểm của đường tròn tạo nên những lớp, những tầng thẳm sâu dát bạc cho từng chữ, từng dòng, vời vợi ánh trăng đêm.

Điều kì lạ nữa là mảnh trăng của thiên nhiên khi xe của họ đến cầu Đá Xanh đã lặn, còn “mảnh trăng” trong lòng, ít nhất là ở Lãm, thì vẫn vẹn nguyên, và dù là trăng non, trăng đầu tháng, nó vẫn lộng lẫy khác thường. Hành trang của anh tăng một trọng lượng vô hình bên cạnh gói xôi lạc và một bi đông nước đường mà người lái phụ đặt trên cabin từ trước. Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì khúc tình ca có thể đã có sức bay nhưng chưa đủ độ nặng, độ đằm. Cái đẹp ở cô gái mới dừng lại ở mức tả chân thực thấm đẫm mồ hôi, nước mắt của đời, nhất là cái thời bom đạn.

Quan điểm duy mĩ và chủ nghĩa hiện thực khác nhau chỉ chừng đó mà thôi. Vàng và thau đều một sắc, dễ nhầm. Nhưng một khi qua lửa thì “thau” không thể là “vàng” được nữa. vẻ đẹp của Nguyệt phải là vàng chín, vàng mười trong ấn tượng thẩm mĩ của người đọc, người nghe, và với Lãm mới trở thành một cái gì như là lí tưởng. Cuộc gặp gỡ vô tình của người lính lái xe có thêm độ nồng hậu, tiếng đàn mới không tắt dù âm thanh của nó đã ngừng bay. Song, nói thì dễ rơi vào giả tạo. Để vượt qua cái mà không có tài năng không thể vượt qua, nhà văn đã bố trí một chi tiết bất ngờ, cả với Lãm, cả với chúng ta: Cô gái đã không xuống cái nơi lẽ ra cô phải xuống.

Mặc dù tới “giang sơn” của mình, quãng trạm gác bên ngầm ở ngã ba, Nguyệt còn muốn đưa tiếp người lái xe thêm một đoạn: Sang bên kia sông với một câu nửa thực nửa đùa (những câu Lãm cần, cô gái đều trả lời nước đôi đến là khó hiểu): “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư”. Giọng nói thì có gì ỡm ờ, bỡn cợt (đến nỗi Lãm phải điều chỉnh lại bằng một câu nói nghiêm trang), nhưng những cái cô làm sau đó thì đâu phải là tếu táo, đùa vui. Quyết định có tính chất ngẫu hứng của cô (đưa người lính qua sông) hoàn toàn không mang nghĩa nhất thời, cạn hẹp. Khi xe vào đoạn đường xấu, tiếng nói của cô xót xa như số phận con đường: “Chúng nó ném bom luôn, chúng em đã rải bao nhiêu đá mà đường sá còn ra thế!”. Khi vượt ngầm, đoạn ngầm ngắn thôi nhưng bị ngập tới hơn một mét nước, xe không đi được nữa. Hình như có cả tiếng máy bay. Đèn tắt. Khi cả cái gian khổ, cái hiểm nghèo cùng ập tới, người lính lái xe từng trải, xông pha như Lãm không còn biết xoay xở ra sao.

Nếu không có Nguyệt không chỉ bám bên cánh cửa làm hoa tiêu, mà còn “để cả quần áo thể, nhanh nhẹn lội phăng sang bên kia bờ” giúp Lãm cột dây tời vào một gốc cây thì làm sao, dù có phép tiên, người lính có thể “đánh vật một lúc” rồi cuối cùng “cũng đưa chiếc xe lao lên được”? Nhưng căng thẳng nhất, đó là lúc xe vừa vượt qua ngầm Đá Xanh thì máy bay địch ập đến, Nguyệt rất thông minh khi không để Lãm “chạy nhào về phía xe” (vì lí do mà khi Lãm đã ở vào một vị trí an toàn, cô mới nói). Nhưng cùng với sự thông minh còn là một thái độ kiên quyết, cứng rắn đến lạ lùng.

Khi Lãm bị cô túm trở lại, anh thấy hành động ấy “nhanh và khỏe hết sức”. Chưa hết, trước đó vất vả với chiếc xe vượt ngầm, cả Lãm, cả cô “thở không ra hơi” thì giờ đây, vẫn là cô Nguyệt đó với quần áo ướt sũng nước, lấm láp, nhưng “nghe hơi thở và tiếng nói của Nguyệt rất bình tĩnh: “Chúng đánh tọa độ đấy!”. Rồi trong một tình huống bất ngờ ngay sau đó mấy giây: xe hàng bị lửa bén vào lốp. Lãm bắt buộc cô phải đổi chỗ (bế xốc Nguyệt đặt giữa hai cái khe của hai gốc cây) để tự mình chạy tới cứu xe giữa những luồng đạn “hai mươi li đỏ lừ” từ máy bay bắn xuống. Lãm vừa trèo lên xe thì Nguyệt cũng vừa kịp đến. Lần này cô không còn “mệnh lệnh” với anh một cách cứng rắn mà lại giục giã đến bồn chồn: “Cho xe chạy đi anh, nó còn tiếp tục đánh ngầm đấy!”. Một cảnh tượng có một không hai xảy ra như một thách đố là: địch quây tròn trên đầu như xay lúa, rất thấp, thả pháo sáng và bắn hai mươi li, ta: một chiếc xe hàng không vũ khí cứ chạy với trái tim của hai con người dũng cảm giữa những ngoặt trái, hố bơm, những dốc có cua, không đèn đóm…

Vẫn biết cái “phi thường” nhiều khi là rất thật trong cuộc đời, nhất là trong những giờ phút hiểm nguy. Nhưng trong nghệ thuật, nó dễ sa chân vào tình trạng “lên gân” vì nó không gắn vào cái gốc rê bình thường. Nguyệt có thể trở thành một nàng tiên trong truyện cổ tích, nhưng như thế thì với Lãm chẳng hạn, điều ấy xa lạ biết bao vì đó là những gì mà con người thường không thể nào với được.

Cho nên chi tiết Nguyệt bị thương sau chiến công thầm lặng và quyết liệt dường này là rất đắt. Vì nó đúng, nó hợp lý (có thắng lợi nào mà chẳng có hy sinh), nhất là nó gần gũi với con người. Là một con người bằng xương bằng thịt mà làm nên kỳ tích trên đây mới có thể “dấy lên” trong lòng người lái xe không kém phần dũng cảm, anh hùng “một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục”. Trước lo lắng của người lính lái xe, cái bình thường ấy lại tự nâng cấp lên lần thứ hai bằng nụ cười tươi tỉnh và xinh đẹp dù khuôn mặt cô gái hơi tái đi vì mất máu: “Anh cứ yên tâm, vết thương chỉ sướt da thôi. Từ giờ đến sáng, em có thể đi lên đến tận trời được”…

Thông báo của chị Nguyệt “lão” đối với Lãm là rất quan trọng. Bởi vì đặt chân đến khu rừng săng lẻ rất đẹp (lán đội nữ công nhân) mà lòng anh chưa hết băn khoăn: “Hai ngày qua, tôi đã tin chắc chắn không thể nào sai được rằng người con gái mình đang tìm gặp thì đã gặp, nhưng đến đây, tôi lại nghĩ Nguyệt có thể là người con gái đã anh dũng hy sinh từ cách đây ba, bốn tháng”. Với tâm trạng không yên ấy, câu trách yêu của chị Tính là một liều thuốc an thần: “Hôm kia, sao cậu không về? Nguyệt nó chỉ tranh thủ được có một hôm, đợi cậu suốt ngày không thấy, cô ấy lại phải về dưới ti rồi!”. Như thế là Nguyệt “của anh” vẫn sống. Còn hơn thế:

Nguyệt mà chính anh đã từng gặp đẹp như một giấc mơ, hơn cả một giấc mơ. Giấc mơ ấy được xác nhận vô tình qua cách nói đùa vui của chị Nguyệt “lão”: “Tôi hỏi thế này nhé, anh đã biết tội của anh chưa?”. Như thế là một người mà anh mong gặp cho cả cuộc đời mình còn sống. Và tình yêu ấy ở Nguyệt đang sống, đang tha thiết hướng về anh: “Cớ sao mấy năm trời để cho cái Nguyệt nó đợi đỏ mắt. Có muốn “tìm hiểu” người ta hay không thì cũng phải bảo một câu chứ!”. Chao ôi, với Lãm, những lời “chửi mắng” ấy sao mà đáng yêu chứ không khi nào đáng giận, bởi nó ngọt ngào và ngân nga như một giai điệu bất tuyệt của tâm hồn.

Từ biệt chị Tính và khu lán nữ công nhân rồi, lần đầu tiên Lãm thấy bâng khuâng, cái bâng khuâng để ngỡ ngàng vì chưa quen của con người khi đột ngột bước vào một vùng ánh sáng khác lạ, vùng sáng của tình yêu. Nhu cầu cần được yên tĩnh ở anh là nhu cầu của việc xác thực hóa giấc mơ vì giấc mơ quá lớn. Trong tâm thế rất con người này, anh nhận ra cuộc sống này chứa bao điều anh chưa hiểu nổi. Chiếc cầu với ba nhịp phía bên này đổ sập xuống, những phiến đá xanh lớn rơi ngổn ngang dưới lòng sông, chỉ còn hai hàng trụ đứng trơ vơ giữa trời kia là có thực.

Vậy có thực hay không cái nghịch lý: “Qua bấy nhiêu năm tháng sống giữa cảnh bom đạn và tàn phá những cái quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi sao?”. Sự thật hiện ra dưới dạng khẳng định thì đó là sự thật bình thường. Còn sự thật lung linh dưới dạng tồn nghi, sự thật ấy là kì diệu. Sự thống nhất giữa cái bình thường và cái kì diệu phải chăng là một quy luật của muôn đời? Kể cả trong chiến tranh. Và nếu thế thì “cái mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc” mà Lãm nhìn thấy một lần phải đâu là ảo ảnh? Câu chuyện kể của người lính lái xe dù đã khép lại rồi, nhưng ấn tượng của chúng ta, niềm tin của chúng ta đến lượt mình từ từ vỗ cánh trong một giấc mơ, không chỉ trong mơ.

Xung quanh giá trị của Mảnh trăng cuối rừng có một ý kiến rất đáng suy ngẫm. Đó là lời cảnh tỉnh của Nikulin trong Lời bạt truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Ý kiến rất đáng quan tâm đó như sau: “Nhà văn thời ấy đã khá triệt để trong việc thi vị hóa nhân vật. Đây vừa là chỗ mạnh của anh ‘ta, lại vừa là chỗ yếu: niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, của cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ anh đã “tắm rửa sạch sẽ” các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng”.

Ý kiến đó là một nhắc nhở sáng suốt để ngăn chặn sự lỡ trớn của một chặng đường văn học, đặng ngừa phòng sự thiếu chân thật của một quan điểm thẩm mĩ, văn chương. Song, vấn đề là ở chỗ: trong cả một nền văn chương, làm sao có thể khiên cưỡng đến mức bình quân hóa mọi sáng tạo độc đáo của người cầm bút? Mức độ nặng nhẹ không đồng đều giữa cái hùng và cái hài, cái bi và cái lạc chẳng hạn là rất tự nhiên trong cảm hứng, trong ngẫu hứng của cái phút xuất thần khám phá. Văn chương là hình ảnh của cuộc đời nhưng khoảng cách ấy đâu phải là một cự ly không đổi?

Vậy thì nếu có một nhà văn nào đó, ở vào một phát hiện nào đó, ý tưởng sáng tạo lóe lên hướng vào cái cao cả khác thường thì có gì là lạ? Ở vào cái phút đặc biệt của sự thăng hoa, nếu “nhà văn dường như vượt lên khỏi cái hàng ngày và hướng về cái đẹp dường như được giải thoát khỏi gánh nặng của cái xấu, bay vượt lên khỏi cái thường nhật” (sách đã dẫn) thì có gì phải băn khoăn? Cái đẹp đích thực luôn ở vào một cái thế không dàn đều, hầu hết đều cực đoan, và điều này không có gì khó hiểu.

Trên ý nghĩa đó, Mảnh trăng cuối rừng không phải được viết bằng giọng điệu đại ngôn. Ngược lại nó rất chân thành đến trong suốt với cái ý nghĩ lặng thầm mà xốn xang trước cái đẹp không thể nào lường trước của cuộc đời, kể cả ở vào cái thời điểm khắc nghiệt nhất: chiến tranh.

*****

Trên đây là 3 bài mẫu Phân tích truyện Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường cấp 3 Lê Hồng Phong biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button