Giáo dụcLớp 12

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà với 3 bài văn mẫu hay nhất sẽ giúp các em làm tốt bài phân tích của mình.

Đề bài: Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà
Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà

Dàn ý Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà, vấn đề: tính hung bạo của con sông Đà ở thượng nguồn.

2. Thân bài

a. Khái quát chung về tác phẩm, hình tượng con sông Đà:

– Tùy bút Người lái đò sông Đà sáng tác năm 1960 trong chuyến thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân. – Sông Đà hiện lên trên trang tùy bút với 2 nét tính cách: Trữ tình, thơ mộng và hung bạo, dữ dội.

b. Tính hung bạo của sông Đà:

– Vách đá “dựng thành vách”, vách đá chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu, thiếu nắng, thiếu cả hơi ấm.

– Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” gùn ghè, dữ dằn như muốn ăn tươi nuốt sống bất cứ chiếc thuyền nào yếu tay lái.

– Hút nước ở Tà Mường Vát: những cái hút nước đáng sợ, không thuyền nào dám men gần sợ bị nó hút văng vào bên trong và kéo xuống dưới.

– Tiếng nước réo gầm: mang nhiều giọng điệu, lúc thì oán trách lúc van xin, lúc như khiêu khích, chế nhạo hoặc “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng”.

– Thạch trận trên sông: bày binh bố trận để tiêu diệt con người với ba lớp tấn công, tiền vệ, trung vệ và hậu vệ.

c. Đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật:

– Nội dung: ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, tinh thần lạc quan và sức mạnh chế ngự với thiên nhiên của con người Tây Bắc.

– Nghệ thuật: lối ngông trong văn chương của Nguyễn Tuân, sử dụng nhiều thuật ngữ của nhiều lĩnh vực khác nhau, từ ngữ miêu tả sinh động

3. Kết bài

Cảm nhận chung về hình tượng con sông Đà, khẳng định lại giá trị tác phẩm.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà hay nhất
Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà hay nhất

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà hay nhất

“Người lái đò sông Đà” – một thiên tùy bút của Nguyễn Tuân viết về sông Đà và người lao động bình dị mang trong mình “chất vàng mười”, ta nhận ra Nguyễn Tuân không chỉ muốn xê dịch để khuây khỏa cảm giác “vắng quê hương” mà đã có khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời. Nguyễn Tuân đã bằng tình yêu và sự tài hoa của mình không chỉ phát hiện ra tính chất hung bạo của dòng sông khi ở thượng nguồn mà còn làm nổi bật tài trí, sức mạnh của người lái đò.

Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân nói nhiều đến sự “hung bạo” ở thượng nguồn con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ. Tuy nhiên ông vẫn làm cho chúng ta nhận thấy một điều rằng: bên trong sự hung bạo ấy là vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước. Sông Đà dữ dội và hung bạo trước hết ở cảnh hai bên bờ có những “vách đá dựng đứng” làm cho lòng sông hẹp hẳn đi, khoảng cách giữa hai bờ bị thu nhỏ lại và lòng sông chỗ ấy phải lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời, hẳn là một nơi thiếu ánh sáng. Đi đò qua quãng ấy đang là mùa hè cũng cảm thấy lạnh cho thấy nơi ấy thiếu cả hơi ấm, lòng sông chỗ ấy như chảy trong hang đá. Sông Đà hung bạo còn ở cảnh mặt ghềnh Hát Loóng “Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Mặt ghềnh được tạo bởi đá ngầm suốt chiều dài hàng cây số, nước – đá – sóng – gió cứ xô lẫn nhau. Nhà văn sử dụng câu văn có cấu trúc trùng điệp để mô tả cảnh mặt ghềnh với dòng nước dữ tợn xô vào đá ầm ào suốt đêm ngày. Hình ảnh “cái hút nước” đã tô đậm tính hung bạo của con sông, bằng cách miêu tả sự nguy hiểm của hút nước sông Đà ở cả bề mặt và bề sâu. Bề mặt hút nước sông Đà nhà văn đã dùng những hình ảnh so sánh, ví “cái hút nước” như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu và “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Với những hình ảnh so sánh đó ta hình dung bề mặt hút nước rất rộng, lưu lượng nước và sức hút là rất lớn, bất cứ con thuyền nào vô ý nghênh ngang qua đó không biết lướt qua cho nhanh thì sẽ bị cái hút nước lôi tuột xuống và làm cho tan xác.

Ở bề sâu, tác giả sử dụng kiến thức ở lĩnh vực điện ảnh, nhà văn mượn cảm giác của một nhà quay phim táo tợn vì muốn truyền cảm giác mạnh cho người xem nên đã dũng cảm cầm máy quay ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả người, cả máy xuống đáy cái hút nước sông Đà, rồi từ đáy cái hút nước nhà quay phim mới lia ngược cái ống kính lên để thu hình. Lúc này chiếc thuyền bị hút nước làm cho xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, nhà quay phim đã truyền cảm giác mạnh ấy cho người xem khiến người xem ngỡ rằng chính bản thân mình đang ở đáy hút nước sông Đà, đang bị cuốn vào vòng xoáy tít của dòng nước mà hoảng sợ tới mức chỉ còn biết giữ chặt lấy mép ghế mà phó mặc cho số phận mình cho dòng nước xoáy. Để tô đậm biểu hiện hung bạo của sông Đà ở tiếng thác nước, nhà văn đã dùng cả cách nói nhân hóa và cách nói so sánh. Câu văn nhân hóa “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Ở đây nhà văn đã gắn cho sông Đà những trạng thái bất thường, “oán trách” là sự hờn giận, trách cứ đầy ai oán, “van xin” là thái độ năn nỉ, cầu xin một cách tha thiết như kẻ có lỗi, “khiêu khích” và “chế nhạo” lại là sự thách thức đầy nhạo báng. Những trạng thái rất thất thường hay chính là tô đậm những diễn biến khó lường của thiên nhiên bí ẩn. Nhà văn so sánh tiếng thác như “tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nhà văn muốn mượn tính chất của một mớ âm thanh hỗn độn để miêu tả độ mạnh của tiếng thác nước sông Đà, âm thanh ấy như tiếng gầm thét của tự nhiên hoang dại. Như vậy qua câu văn nhân hóa và câu văn so sánh, nhà văn muốn tô đậm hình ảnh một con sông không chỉ có tâm trạng mà còn có cả tính cách dữ dằn, ở đó tiềm ẩn những diễn biến khó lường của thiên nhiên hoang dã. Tiêu biểu nhất cho tính hung bạo của sông đà chính là dàn thạch trận trên sông. Ở đây nhà văn kết hợp giữa những câu văn nhân hóa với những kiến thức quân sự, thể thao để làm rõ âm mưu, tâm địa của con sông khi nó chủ động bày binh bố trận để tiêu diệt con người. Nguyễn Tuân cho rằng, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, “mai phục” là chủ động ẩn nấp để đón đánh đối phương và mỗi khi thoáng nhìn thấy đối thủ, đá trên sông Đà đã nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, tô đậm tính hiếu chiến của sông Đà. Ngoài ra giàn thạch trận trên sông, mỗi dàn lại có nhiệm vụ khác nhau: hàng tiền vệ có nhiệm vụ canh cửa giả là sơ hở để dụ dỗ đối phương, hàng trung vệ có nhiệm vụ đánh khuýp quật vu hồi – nghĩa là đánh bất thần trở lại khiến đối phương không kịp trở tay, tuyến trong cùng sông Đà giao nhiệm vụ cho boong – ke chìm và pháo đài đá nổ phải tấn công tới tấp đối phương và tiêu diệt triệt để. Ta thấy sông Đà chủ động bày binh bố trận rất kĩ càng, có âm mưu tiêu diệt đối phương bằng một chiến lược, chiến thuật cụ thể. Con sông Đà không chỉ có tính cách, tâm trạng mà còn có âm mưu và tâm địa xấu xa, nó trở thành một loài thủy quái và là kẻ thù số một của con người.

Có thể nói, hình tượng sông Đà nói chung và tính hung bạo của con sông ở thượng nguồn nói riêng đã bộc lộ vẻ đẹp, “cá tính” của dòng sông Đà và sự tài hoa, uyên bác, sử dụng nhiều kiến thức của nhà văn Nguyễn Tuân. Qua hình tượng con sông Đà, ta cảm nhận được niềm tin yêu, gắn bó với cuộc sống của tác giả cùng tình yêu quê hương đất nước bằng việc ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà – Mẫu 2

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, giá trị của ông đối với toàn nhân loại là vô cùng mạnh mẽ, với cách miêu tả sáng tạo đầy nhiệt huyết, ông đã vẽ lên hình tượng con sông Đà với những nét tươi tắn và đầy sức sống, cảm xúc mạnh mẽ nhất cho con người, biết bao nhiêu giá trị trong tác phẩm đã đang được thể hiện mạnh mẽ và đậm nét nhất trong tâm hồn của người.

Với Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một vật vô tri vô giác, một hiện tượng thiên nhiên nữa mà sông Đà đã trở thành hình tượng văn học,sông Đà như một sinh mệnh có tính cách, tâm trang độc đáo. Sông Đà có hai tính cách đối lập nhau : “hung bạo và trữ tình”, như nhà văn từng nói. Lúc trở mặt hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một của con người, lúc trữ tình, sông Đà đầy chất thơ, dịu dàng, thân thiết. Hai nét tính cách đối lập nhau của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm lĩnh hiện thực của Nguyễn Tuân. Sông Đà hung bạo cũng phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân ở chỗ, nhà văn say mê miêu tả những cảm giác mạnh.

Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh lẽo, thâm u, mà khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, và những hiểm nguy rình rập con người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đò đến đó hút vào, rồi cho tan xác ở đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”.

Tính chất hung bạo của sông Đà được thể hiện ở chỗ vách thành dựng đứng. Chỗ ấy lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Chỗ ấy hẹp, nguy hiểm, chỉ thấy mặt giời lúc đúng ngọ. Sông Đà hẹp đến nỗi : “con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Nguyễn Tuân cảm nhận sông Đà đoạn này không chỉ bằng thị giác mà còn bằng xúc giác, ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, giữa mùa hè không chỉ lạnh mà còn thấy tối. Người ta cảm thấy ghê rợn và nguy hiểm vì sông Đà hẹp, vách thành dựng đứng.

Sông Đà hung bạo còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát lóng dài hàng cây số : “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn, gùn ghè suốt năm…”. Câu văn của Nguyễn Tuân có nhịp điệu 3/3/3…, nhịp điệu này mô phỏng độ lượn của mặt ghềnh. Ở mặt ghềnh mà con thuyền phải vượt qua chỉ thấy nước – đá -sóng- gió mà thôi. Những từ lặp lại : “nước -đá-sóng-gió” như gối lên nhau hồi hoàn của mặt ghềnh nguy hiểm. Nhờ vậy, câu văn tạo nên một cảm giác mạnh của mặt ghềnh ào ạt. Nếu không phải là một cây bút tài hoa thì không thể tổ chức được những câu văn giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh như Nguyễn Tuân.

Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.

Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày ra nhiều trùng vi thạch trận hòng cướp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây. Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.

Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.

Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên – con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác.

Đối lập với sông Đà hung bạo, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra một nét tính cách nữa của sông Đà: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả. Tính cách trữ tình của sông Đà cũng phù hợp với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân, sông Đà là sản phẩm tuyệt mĩ của tạo hóa, ông chiếm lĩnh nó trên phương diện văn hóa và mĩ thuật. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà trữ tình ở nhiều góc độ khác nhau. Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao. Có lúc Nguyễn Tuân nhìn sông Đà qua đám mây của mùa xuân, có khi người nghệ sĩ nhìn sông Đà qua đám mây của mùa thu. Cũng có khi tác giả cảm nhận sông Đà bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi Ng Tuân tiếp cận sông Đà bằng đôi mắt của lịch sử, của hồi ức, của quá khứ.

Mỗi góc độ ấy, Nguyễn Tuân đã so sánh sông Đà với nhiều đối tượng khác nhau rất tài tình và biến hóa. Nhà văn đã so sánh sông Đà với trên dưới mười đối tượng, tạo cho người đọc cảm giác ngạc nhiên, thán phục và nhận ra rằng không có nhà văn nào so sánh hay hơn, đúng hơn Nguyễn Tuân. Từ trên cao sông Đà ngoằn ngoèo như một cái dây thừng. Nhìn sông Đà từ xa, Nguyễn Tuân so sánh như một tiên nữ giáng trần : “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo….” Đẹp biết bao khi ngắm sông Đà, mùa xuân xanh một màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra bao vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Nếu không gắn bó và yêu thiết tha phong cảnh quê hương, đất nước thì hẳn Nguyễn Tuân không có những so sánh, phát hiện ra vẻ đẹp của sông Đà.

Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”

Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm. Đọc tùy bút Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người – ông lái đò – ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Đọc Người lái đò sông Đà ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong Người lái đò sông Đà – Mẫu 3

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông đặc biệt có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút Người lái đò sông Đà. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò giản dị mà tài hoa, tác phẩm còn khắc hoạ được vẻ đẹp của con sông Đà trong những góc nhìn khác nhau: có khi hùng tráng, hung bạo, lúc lại trữ tình, duyên dáng nên thơ.

Trước hết về lai lịch của dòng sông, theo như Nguyễn Tuân, dòng sông khai sinh ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc, sau đó ra nhập quốc tịch Việt Nam và cứ thể trưởng thành mãi lên. Những chữ như khai sinh, quốc tịch, … đã biến dòng chảy của con ôong trở nên dòng đời, số phận và sinh thể sống.

Để làm rõ vẻ đẹp của con sông Đà tác giả đã miêu tả nó ở hai khía cạnh đó chính là dữ dằn và hùng vĩ, thứ hai là thơ mộng và trữ tình. Trước hết là tính cách hung bạo của dòng sông, để thể hiện sông Đà là một dòng sông vô cùng hùng vĩ và dữ dội tác giả Nguyễn Tuân đã hướng ngòi bút miêu tả diện mạo của con sông Đà.

Tiếp đến tác giả miêu tả cánh thoát nước của con sông Đà ở “quãng mặt ghềnh Hát Loong dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được quả đấy”. Câu văn của Nguyễn Tuân trùng điệp co duỗi nhịp nhàng, tác còn sử dụng kiểu câu móc xích thông qua động từ “xô” như xô từ câu văn này sang câu văn khác để thể hiện vẻ dữ dằn, cuồn cuộn của con sông Đà.

Đến “quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái miệng giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đáy thở và kêu như cái cống bị sặc. Trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ như tiếng cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy,…”

Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh để miêu tả cái hút nước trên dòng sông giống như miệng của một cái giếng bê tông, với những âm thanh được phát ra nhưng những tiếng thở của những đồ vật như đang sắc như tiếng quạ. Tất cả để thể hiện cái dữ dằn và hung bạo của dòng sông Đà, sau đó lại: “nghe như oán trách khiêu khích”, “giống như một ngàn con trâu mộng” đang trong một khu rừng bị cháy. Tác giả đã dùng lửa để miêu tả sức nước.

Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thể hiện rõ nhất chính là trong trận chiến với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí vô cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo ở tiếng thác nước từ phía xa. Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải sợ hãi. Và dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác vô cùng ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó có đến bốn cửa tử nhưng chỉ có duy nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. Ở trùng vi thạch trận thứ hái, cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” và lũ thủy quân xô như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.

Nhưng đẹp đẽ nhất, lưu lại nhiều ấn tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con sông Đà hung bạo kia, mà chính là dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Tác giả miêu tả dáng vẻ của con sông như một chiếc dây thừng ngoằn ngoèo, tác giả đã thay đổi góc quan sát của mình từ trên mắt sông giờ chuyển sang là từ trên cao nhìn xuống. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh con sông Đà “như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa bạn, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn như mùi khói núi Mèo đốt nương”.

Con sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm, mỹ lệ. Nước của con sông đà thay đổi màu theo mùa. Bờ của con sông hoang dại như một bờ tiền sử, hiện lên như một niềm cổ tích ngày xưa, tác giả còn gọi con sông Đà như một cố nhân lắm chứng lắm bệnh,…

Thông qua việc miêu tả con sông Đà ở hai tính cách trái ngược nhau là hung bạo và dữ dằn, tác giả Nguyễn Tuân nhằm thể hiện tình yêu quê hương đất nước và phong cách nghệ thuật của ông đó chính là tài hoa uyên bác và sâu sắc, thích miêu tả, tô đậm những ấn tượng phi thường trong câu văn của mình.

**********

Vẻ đẹp của dòng sông là một chuyện, sự đáng quý của con người lao động ở miền Tây Bắc. Mời các em cùng tìm hiểu về hình ảnh con người trên chính con sông Đà qua những bài viết sau: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà, Cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác, Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà, Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà.

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo Dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button