Tổng hợp

Ngô Đình Diệm là ai? Sự nghiệp của Ngô Đình Diệm

Ngô Đình Diệm là ai?

Ngô Đình Diệm (chữ Hán: 吳廷琰; 3 tháng 1 năm 1901 – 2 tháng 11 năm 1963) là một chính khách người Việt Nam. Ông từng làm quan triều Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa từ năm 1955 sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại, cho đến khi bị lật đổ vào năm 1963. Ông cũng là lãnh tụ của Đảng Cần lao Nhân vị, đảng cầm quyền chính thức của miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Là một nhà lãnh đạo theo Công giáo La Mã, ông bị những người theo Phật giáo phản đối vì thực hiện các chính sách thiên vị Công giáo. Tháng 11 năm 1963, một loạt các vụ biểu tình bất bạo động của Phật tử đã gây ra những bất ổn xã hội nghiêm trọng, Ngô Đình Diệm cùng em trai của mình là Ngô Đình Nhu đã bị ám sát trong một cuộc đảo chính năm 1963 do các tướng lĩnh dưới quyền thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ.

Ngô Đình Diệm là một nhân vật quan trọng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Một số sử gia coi ông là công cụ chống cộng trong tay người Mỹ, một số thì lại coi ông là độc tài và gia đình trị, trong khi đó một số sử gia khác coi ông là nhà chính trị mang nặng truyền thống phong kiến Việt Nam. Một số nghiên cứu gần đây cho rằng Ngô Đình Diệm là người tự cho rằng mình đang gánh vác một “Thiên mệnh”, ông cũng có các kế hoạch riêng về nền chính trị ở miền Nam Việt Nam.

Ngô Đình Diệm là ai?
Ngô Đình Diệm là ai?

Sự nghiệp của Ngô Đình Diệm

Ngô Đình Diệm bẩm sinh thông minh, đường học vấn lẫn chốn quan trường đạt nhiều thuận lợi. Năm 1921, khi mới 20 tuổi, ông tốt nghiệp Trường Hậu Bổ tại Hà Nội, được phong chức Tri huyện Hương Trà, sau đó chuyển sang làm Tri huyện Hương Thủy, Quảng Điền (Thừa Thiên Huế). Năm năm sau, năm 1926, ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Hải Lăng (Quảng Trị).

Năm 1929, ông nhậm chức Tuần vũ tỉnh Phan Thiết (Bình Thuận). Bốn năm sau, ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ lại dưới triều Vua Bảo Đại. Đó là năm 1933, khi Ngô Đình Diệm 32 tuổi, ông là Thượng thư trẻ nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ.

Ngay khi nhậm chức, ông Diệm đề trình việc thành lập Viện Dân biểu với quyền hành pháp, nhưng chính phủ bảo hộ không thừa nhận. Tháng 7/1933, Ngô Đình Diệm từ quan để phản ứng lại sự phủ nhận Viện Dân biểu của Pháp.

Rời quan trường

Sau khi rời khỏi quan trường, Ngô Đình Diệm lui về ở ẩn, nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để đang sống lưu vong tại Nhật với ý định thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ Pháp hoàn toàn.

Suốt từ năm 1933 cho đến năm 1940, ông Diệm được coi là một nhân vật quá khích, xếp chung với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam.

Có hai nhận định về ông Ngô Đình Diệm rất đáng lưu ý, nhận định này được đưa ra từ người Mỹ, những người vốn được xem là dựng lên Ngô Đình Diệm. “Ông ấy (tức Ngô Đình Diệm) là một con người luôn muốn được tất cả, hoặc không có gì”, đây là tính cách nhất quán của ông Diệm từ khi ông làm quan cho đến lúc ông bị bắn chết, đúng nghĩa “được ăn cả, ngã về không”. Và, “ông Ngô Đình Diệm là một con rối. Nhưng con rối ấy tự giật dây mình và giật dây luôn cả chúng ta”. Điều này cho thấy, người Mỹ không xem ông Diệm là một kẻ bù nhìn, như bấy lâu nhiều người nhầm tưởng.

Khuya ngày 9/3/1945, người Nhật âm thầm thay thế vị trí của người Pháp tại An Nam. Thời điểm này, ông Diệm đang hoạt động tại Sài Gòn. Người Nhật thế chỗ người Pháp, ông Diệm rất hy vọng người Nhật sẽ đưa Hoàng thân Cường Để về để nắm giữ chính quyền, nhưng trái ngược với hy vọng của ông, người Nhật quay ngoắt sang ủng hộ Vua Bảo Đại. Bảo Đại mời ông Diệm làm Thủ tướng, nhưng ông từ chối. Sau cuộc thương lượng với người Nhật, ông Trần Trọng Kim ngồi vào vị trí này.

Ngày 17/4/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt nhân dân với dàn nội các toàn là những bậc trí sĩ, thức giả đầy uy tín. Chính phủ do Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu, thừa về tinh thần dân tộc, khát vọng tự do, chính sách đổi mới nhưng lại thiếu nghiêm trọng về thực quyền.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Vua Bảo Đại thoái vị, Chính phủ Trần Trọng Kim tan rã theo. Rồi Pháp lại nhanh chóng tái chiếm Việt Nam, Bảo Đại tiếp tục được biến thành con cờ trong tay người Pháp.

Năm 1949, Hiệp định Élysée được ký kết, Bảo Đại thêm lần nữa mời ông Diệm đứng ra làm Thủ tướng thành lập nội các. Ông Diệm lại từ chối: “Tôi không tin người Pháp, lại càng không tin vào nền độc lập nửa vời mà người Pháp vẽ ra”.

Sau lần từ chối này, ông Diệm cùng Giám mục Ngô Đình Thục và người em ruột là Ngô Đình Nhu thành lập đảng Xã hội Thiên Chúa giáo. Ông Diệm muốn xây dựng đảng này thành một đảng độc lập với tất cả các thế lực khác trong nước. Thời điểm này, ông trông chờ vào sự giúp sức của Mỹ.

Năm 1950, ông Diệm cùng ông Thục sang Nhật, tìm cơ hội xin diện kiến Thống tướng Douglas MacArthur, tuy nhiên Thống tướng Douglas MacArthur tiếp kiến ông Diệm, ông Thục rất lạnh nhạt và tỏ ý khiên cưỡng, hoàn toàn không có động thái cho thấy sẽ ủng hộ.

Thất bại trong cuộc vận động Thống tướng Douglas MacArthur, nghe theo lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị Đại học Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ, dùng đủ mọi cách để tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì hai lẽ. Thứ nhất, Mỹ đang bận tham chiến tại Triều Tiên. Thứ hai, người Mỹ không muốn làm mất lòng người Pháp.

Điều may mắn nhất của ông Diệm vào thời điểm tuyệt vọng này, chính là vị Hồng y Spellman nảy sinh hảo cảm với ông Thục và đồng ý nhận lời làm trung gian giúp ông Diệm có cơ hội diện kiến với những nhân vật quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ.

Từ sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman, ông Diệm đã tranh thủ được tình cảm của dân biểu Walter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Đặc biệt là Thượng nghị sĩ John F. Kennydy rất nhiệt tình với ông Diệm.

Suốt trong những năm dài ở Mỹ, thi thoảng ông Diệm sang các nước châu Âu, như Bỉ, Ý, Pháp… nên ông có thêm nhiều kinh nghiệm hoạt động chính trị

Ngày trở về…

Đầu năm 1954, Pháp kẹt cứng tại trận địa Điện Biên Phủ. Bảo Đại liên tục bắn tín hiệu sang Hoa Kỳ, yêu cầu ông Diệm trở về nước để thành lập chính phủ mới. Vẫn với lý do, “Không tin người Pháp”, ông Diệm từ chối lời mời của Bảo Đại.

Thất bại ở trận địa Điện Biên Phủ, ngày 4/6/1954, Hiệp ước Laniel – Bửu Lộc được ký kết, Pháp đồng ý trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam. Ngày 16/6/1954, ông Diệm đồng ý trở về nước theo lời yêu cầu của Bảo Đại. Thế nhưng, ông Diệm vẫn buộc Bảo Đại phải đồng ý để chính phủ do ông thành lập được toàn quyền về chính trị và quân sự. Thêm lần nữa, Bảo Đại nhượng bộ ông Diệm.

Ngày Song thất, 7/7/1954, chính phủ do ông Ngô Đình Diệm thành lập chính thức ra mắt với nội các gồm 18 người, như: Thủ tướng kiêm Nội vụ và Quốc phòng: Ngô Đình Diệm; Quốc vụ khanh: Trần Văn Chương, Tổng trưởng Ngoại giao: Trần Văn Đỗ; Tổng trưởng Tài chính và Kinh tế: Trần Văn Của; Tổng trưởng Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên; Tổng trưởng Công chánh: Trần Văn Bạch; Tổng trưởng Y tế và Xã hội: Phạm Hữu Chương; Tổng trưởng Canh nông: Phan Khắc Sửu; Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục: Nguyễn Dương Đôn; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Trần Chánh Thánh; Bộ trưởng Thông tin: Lê Quang Luật; Bộ trưởng Đặc trách Công vụ Phủ Thủ tướng: Phạm Duy Khiêm; Bộ trưởng Nội vụ: Nguyễn Ngọc Thơ; Bộ trưởng Quốc phòng: Lê Ngọc Chấn…

Ngay sau khi thành lập chính phủ, ông Diệm đã có những động thái kiên quyết đến độc đoán, theo đúng cá tính của ông. Ông dẹp yên chuyện tướng Nguyễn Văn Hinh công khai đối đầu và đòi đảo chính. Tướng Bình Xuyên là Bảy Viễn (Lê Văn Viễn) đòi tắm máu Sài Gòn nếu không được tham gia chính quyền cũng bị ông Diệm từ chối cương quyết.

Quốc trưởng Bảo Đại thấy không điều khiển được Ngô Đình Diệm cũng tán thành theo người Pháp, gây áp lực đòi Mỹ thay bằng được ông Diệm. Ý của Bảo Đại là muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng, hoặc chí ít là Phó thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham mưu trưởng còn tướng Bình Xuyên Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Các giáo phái lớn tại miền Nam thì chơi trò đi hàng hai, nửa ngã chiều này, nửa nghiêng chiều kia. Thậm chí, Đại sứ J. Lowton Collins cũng muốn thay thế gấp ông Diệm. Hơn một lần, Collins ngược về Mỹ, thuyết phục những người cầm quyền ở Washington thay thế ông Diệm.

Đại sứ Mỹ J. Lowton Collins nhận xét về ông Diệm: “Ông ấy quá quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt, không có bất cứ sáng kiến đáng kể nào từ ngày nắm chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều khó chịu về thói quen quyết định trên đầu người khác của ông Diệm. Ông Diệm hoàn toàn không trông cậy vào họ, mà đặt hết niềm tin vào hai người em cùng những người chịu phục tùng ông ấy. Ông là người hoàn toàn không biết nhân nhượng và với thái độ của một người khổ hạnh, ông không thể đương đầu với những thế lực thực tại, điển hình nhất là Bình Xuyên…”.

Thời điểm này, chính phủ của ông Diệm cũng như bản thân ông tồn tại được thực chất là nhờ những tác động hết sức cần thiết của những người bạn là dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ mà ông đã tranh thủ được họ khi ông sang Mỹ vận động vào năm 1950.

Điển hình nhất của mối thân hữu này, là khi Đại sứ J. Lowton Collins một hai yêu cầu Washington phải thay thế Diệm, Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi đó là Dulles nhờ đến sự tham vấn của Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Được hỏi, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield dành hết lời khen ngợi để nói về các ưu điểm của Ngô Đình Diệm. Kết quả, Ngoại trưởng Delles chỉ thị Đại sứ J. Lowton Collins phải nhất tâm ủng hộ Ngô Đình Diệm.

Thật ra, tất cả động thái của người Mỹ chỉ là nhằm câu giờ, để thông qua sự đối phó với các thế lực trong nước, họ sẽ có cái nhìn chính xác hơn về khả năng của Ngô Đình Diệm. Sau vụ dẹp yên tướng Hinh, bình ổn nhất thời các giáo phái và quan trọng hơn nữa là vụ bình định được cuộc nổi loạn của Bình Xuyên, ông Diệm trở thành một cá nhân khác trong mắt người Mỹ.

Một cứ liệu quan trọng khác, để xét về Ngô Đình Diệm, thông qua lời Ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dulles, ông Dulles nhận định: “Chúng tôi chỉ thị cho tất cả những nhân viên Sứ quán ở Sài Gòn bằng mọi cách trì hoãn việc thay thế ông Diệm. Bởi, nếu ông ấy không thoát ra được cuộc hỗn loạn thì ông ấy sẽ bị thay thế. Còn ngược lại, ông ấy sẽ trở thành nhân vật anh hùng trong buổi tao loạn. Một khi kết quả đã an bài, chúng tôi sẽ tính đến việc thay thế ông ấy bằng một trong hai nhân vật mà chúng tôi đã lựa chọn sẵn”.

Khi tập trung được quyền lực trong tay thông qua cuộc đối đầu sống mái, chuyện gì đến sẽ đến, ông Diệm nhân danh tập thể phế truất chức Quốc trưởng của Bảo Đại, bác bỏ yêu cầu tổ chức Hội nghị hiệp thương để thảo luận về tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tổ chức cuộc bầu cử sặc mùi gian lận để khẳng định sự tín nhiệm của nhân dân…

Ngày 26/10/1956, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Người ta gọi đây là nền Đệ nhất Cộng hòa…

Sự nghiệp của Ngô Đình Diệm
Sự nghiệp của Ngô Đình Diệm

Chuyện về những mối tình của Ngô Đình Diệm

Mối tình đầu của Ngô Đình Diệm

Về ngày sinh tháng đẻ, nơi sinh của Ngô Đình Diệm cho tới nay vẫn có nhiều tư liệu khác nhau. Tác giả C.Đ viết trên một tờ báo ở nước ngoài: Diệm sinh ngày 21/7/1897 tại làng Đại Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Nhưng theo lời bà Ngô Đình Thị Hiệp (vừa mới tạ thế tại Australia, thọ 102 tuổi) thì: Diệm được rửa tội tại nhà thờ Phú Cam, tên bổn mạng là Gioan Baotixita, sinh ngày 3/1/1901, do Mê Thuyên (tức ông Hường Thuyên, một người thuộc Hoàng phái) đỡ đầu. Ông Hường Thuyên là thân phụ của hai ông Ứng Đệ và Ứng Trạo, hai nhân vật này người dân Huế đều biết tên. Sau này, khi lê gót nơi xứ người (1945-1954), tại Thụy Sĩ, Ngô Đình Diệm lập căn cước ngày sinh là 3/1/1901 tại Huế, theo đúng ngày ghi trong lễ rửa tội ở nhà thờ Phú Cam.

Năm 1918, Diệm học tại Huế, Trường Pellerin, là trường dòng của Công giáo. Lúc này Diệm 17 tuổi, cái tuổi biết yêu. Thời gian này Diệm cũng có một mối tình. Chuyện này được một người kể như sau: Ông tri phủ Ngoa Thế Cầu làm quan thời Bảo Đại, từng là bạn thuở nhỏ của Diệm. Một lần, vào cuối năm trung học, cậu ấm Diệm cùng một bạn trai ra chân cầu Bạch Hổ đứng hóng mát. Diệm tâm sự với bạn: “Do đã tự hứa với mình là không bao giờ để chuyện yêu đương tình ái lăng nhăng trong tâm trí mà dồn tất cả vào việc học. Hai anh tôi là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục lần nào về thăm cũng dặn dò kỹ lưỡng: dòng họ Ngô Đình ta có gốc tích ở Phúc Thọ, Sơn Tây, sau lưu lạc vào Quảng Bình, lúc nào cũng không được thua kém các dòng họ khác. Các anh bảo tôi phải cố gắng học hành để có một tương lai tươi sáng. Thầy đã làm đến quan Thượng thư đầu triều, lẽ nào anh em mình không nối bước được chí khí vinh quang và sự nghiệp của thầy”.

Bạn đang xem: Ngô Đình Diệm là ai? Sự nghiệp của Ngô Đình Diệm

Diệm còn kể tiếp: “Chính nhờ những lời giáo huấn này mà cả hai năm Prèmiere Année cũng như Deuxième Année tôi đã đứng nhất ở Trường Pellerin. Thú thật nếu anh Thục không đi tu thì tôi sẽ là vị linh mục đầu tiên của dòng họ Ngô Đình”. Diệm kể tiếp: “Từ khi 12, 13 tuổi, tôi đã mơ ước được hiến đời mình để phụng sự Chúa, nhưng anh Thục đã nhận lãnh vinh dự và thầy tôi cũng không muốn trong gia đình có đến hai người đi tu để quên phận sự kẻ sĩ”.

Kể về tình yêu,  Diệm nói: “Không hiểu tôi gặp người con gái ấy có phải do Thánh ý hay không? Một buổi chiều, vừa đạp xe tới trước cửa nhà, từ phía nhà thờ Phú Cam, gia đình của quan Thượng họ Nguyễn cũng vừa xem lễ chiều xong. Quan Thượng Nguyễn với thầy tôi là chỗ đồng học khi xưa ở Pénang và là bằng hữu nên khi quan Thượng Nguyễn gặp tôi là nhận ra ngay. Sau đó, ngài giới thiệu tôi với bà Thượng và mấy người con. Trong số đó có người con gái út là tiểu thư Trang Đài. Nàng đẹp tuyệt vời, khuôn mặt nàng tỏa ra vẻ thánh thiện. Tôi đánh bạo mời quan Thượng và gia quyến vào thăm nhà, nhưng ngài viện cớ phải về gấp. Cả hai ông bà đều gửi lời thăm hỏi thầy mẹ tôi, còn nàng thì e thẹn cúi đầu lễ phép chào tôi. Khi họ đi rồi, tôi lẳng lặng nhìn theo. Tối hôm đó, tôi có mang cuộc gặp gỡ này trình với thầy mẹ tôi, và cũng nói cho thầy mẹ biết tôi đã thay mặt gia đình mời họ vào nhà xơi nước. Thầy tôi thì không nói gì còn mẹ tôi quở trách: lần sau con không được thay mặt gia đình mời ông Thượng Nguyễn vào nhà mà chỉ nên lễ phép chào hỏi rồi kiếu từ liền. Tôi nghe trong giọng nói của mẹ không được vui và có điều khác lạ. Tôi nghĩ, có lẽ đều là quan quyền cả, thầy tôi làm đến quan Thượng thư nhưng đã treo ấn từ quan lâu rồi, cảnh nhà lại thanh bần, còn quan Thượng Nguyễn vẫn còn tại chức, vả lại họ giàu có nên thầy mẹ tôi không muốn giao thiệp? Hay là trong quá khứ họ Ngô Đình và họ Nguyễn có điều gì không hay? Tôi phân vân mà không dám hỏi. Mấy ngày sau, vào sáng chủ nhật, tôi vừa lên được mấy bậc tam cấp nhà thờ Phú Cam, thì thật bất ngờ tôi lại gặp Trang Đài cũng vào nhà thờ xem lễ.

Tư thất của quan Thượng Nguyễn ở bên An Cựu, lẽ ra nàng phải đi lễ nhà thờ dòng Chúa Cứu thế. Khi nhìn thấy Trang Đài, tôi bối rối và nghĩ có nên chào nàng cho phải phép hay không. Giữa lúc chưa quyết định chào hay không thì nàng đã lễ phép cúi đầu chào tôi trước. Xong lễ, chúng tôi gặp nhau trước sân nhà thờ, lần này tôi đánh bạo chào hỏi nàng trước. Không giống như nhiều tiểu thư khác ở cái đất Thần kinh, cung cách đối xử của nàng không e lệ hoặc kênh kiệu quá đáng. Tất cả những lời nói, cử chỉ của nàng hòa nhã và nghiêm nghị. Cứ thế, hàng tuần vào sáng chủ nhật chúng tôi lại gặp nhau và không còn rụt rè, ngần ngại nữa mà tỏ ra rất tự nhiên. Có khi hai chúng tôi trò chuyện, gia quyến nhà họ Thượng Nguyễn cũng nhìn thấy, các cụ chỉ gật đầu và tôi cúi đầu chào lại và họ không nói gì, ra xe về trước. Còn gia đình tôi cũng chẳng có ý kiến khi nhìn thấy chúng tôi. Học hết trung học, tôi được gia đình cho ra  miền Bắc học nên tôi và Trang Đài chưa nói với nhau chuyện yêu đương, nhưng trong ánh mắt, chúng tôi đã có cái gì quý mến nhau. Khi gặp Trang Đài  lần cuối, chúng tôi không thề non hẹn biển gì, tôi chỉ ngỏ lời tạm biệt nàng và hẹn khi  nào học xong có dịp về Huế sẽ tới thăm nàng”. Cụ tri phủ Cầu còn kể tiếp: “Sau khi Ngô Đình Diệm ra Hà Nội học và ra trường đi làm việc, lúc này Trang Đài đã đi tu trong một dòng kín ở Sài Gòn”.

Đó là một mối tình đầu thầm kín của Diệm. Còn một chuyện tình khác của Diệm, được ông Phạm Văn Nhu (ông Nhu là bạn học thời nhỏ của Diệm cũng ở đất Thần kinh, sau làm giáo sư và làm dân biểu thời Đệ nhất Cộng hòa, rồi giữ chức Chủ tịch Quốc hội chế độ nhà Ngô) kể lại: Thuở nhỏ ông và Diệm thường tắm truồng ở sông An Cựu, ông thấy Diệm cũng bình thường như mọi thanh niên khác, không hề bị dị tật về cơ thể.

Năm 19 tuổi, khi còn là sinh viên Trường Hậu bổ, vào một buổi sáng mùa hè, Diệm đang ngồi đọc sách tại nhà bà cả Lễ thì có mấy cô gái Huế đến chơi. Bấy giờ vào buổi tân thời, nên các cô rất dạn dĩ chọc ghẹo và có những câu nói ong bướm với cậu ấm Diệm. Diệm liền nổi nóng la mắng: “Con gái gì mà hư thân trắc nết như rứa”. Từ đó vùng Phú Cam các cô gái rỉ tai nhau phê bình: “Cậu Diệm sợ đàn bà con gái”.

Khi trở thành tri phủ Hòa Đa, Tuần vũ, Bình Thuận, Diệm chỉ sống độc thân dù rất nhiều gia đình quan lại danh giá đánh tiếng gả con gái cho ông. Năm 1948, khi Diệm đã ở tuổi ngũ tuần, giới thân cận của ông không ai nghe ông nói tới đàn bà con gái. Chính vì vậy mà trong giao tiếp mọi người chỉ toàn nói về chuyện tu hành, đạo đức thánh thiện, và không ai dám đề cập chuyện tình cảm riêng của Diệm.

Ông Phạm Văn Nhu kể về chuyện tình ái của Diệm: Vào một buổi sáng đẹp trời, ông Diệm đến tìm tôi ở nhà luật sư Kim. Hôm ấy, Diệm rất vui vẻ, mất đi cái ưu tư, khắc khổ thường ngày. Tôi nghĩ, chắc ông Thượng thư mới nhận được tin gì tốt đẹp đây. Ông Diệm nói: Xếp hết công việc lại, sáng nay bọn mình đi Sở thú. Ông Nhu mượn được một chiếc xe hơi, trên đường đi Diệm đề nghị: Bọn mình ghé đâu uống cà phê đi. Đó là một điều lạ khiến tôi thắc mắc. Sau tuần cà phê sữa, hai người vào Sở thú. Đi một vòng thưởng ngoạn cây cỏ, muông thú nhưng xem chừng Diệm đang có một sự náo nức trong lòng nên ông ta không quan tâm mọi vật xung quanh.

Ở Sở thú ra, Diệm có vẻ ngần ngại, đắn đo một lúc rồi bảo ông Nhu: Ông cho tôi lên đường Pellerin (Pasteur hiện nay), ngay ngã tư đường Pellerin – Grand de Laliraye (Điện Biên Phủ hiện nay). Đến nơi, Diệm bảo ông Nhu khóa xe và đi theo ông ta. Hai người vào một căn nhà trên tầng 2, dãy nhà gồm nhiều căn, chủ nhà hầu hết là công chức Pháp. Ông Nhu hỏi vào nhà ai, Diệm vui vẻ đáp: Tôi vào đây thăm con mệ nó. Lần đầu tiên ông Nhu nghe Diệm nói đến “con mệ nó”.

Chuyện về những mối tình của Ngô Đình Diệm
Chuyện về những mối tình của Ngô Đình Diệm

Diệm gõ cửa, một người đàn ông trạc 50 tuổi ra mở cửa. Vừa thấy Diệm, ông ta đã cúi đầu kính cẩn thưa: Mời cụ lớn vào. Diệm hỏi ngay: Bà có nhà không? Người đàn ông thưa: Bà con vừa ra Nha Trang, mời cụ vào nhà dùng nước đã. Nghe nói thế, vẻ mặt đang vui của Diệm bỗng nhăn lại, nói trống không: “Lạ chi hè! Đi Nha Trang mà không cho biết hỉ?”. Đứng bần thần một lúc rồi Diệm hỏi người đàn ông: “Ông có biết bà ra Nha Trang ở nơi mô không?”. Người đàn ông trả lời có biết, Diệm liền vui vẻ trở lại và hỏi ông Nhu: “Ông mang giấy bút, ghi lại địa chỉ cho tôi ngay”. Trên đường về, Diệm còn nói: “Con mệ nó” hiền đức lắm, tuy lấy Tây nhưng lòng dạ tốt lắm. Nhờ “con mệ nó”, tôi đã cứu được nhiều người bị mật thám Tây bắt, chồng “con mệ nó” làm ở Sở Mật thám Liên bang, bót Catinat. Chính vì việc nhờ chồng “con mệ nó” can thiệp khi Diệm nhờ cứu một số bạn bè mà ông ta bị thải hồi, thất nghiệp, phải lên Đà Lạt làm cho một hãng xe hơi. Sau đó, ông ta bị tử nạn trong một tai nạn máy bay trên không phận Sài Gòn. Ông Nhu nghĩ, nơi này hẳn là Diệm hay lui tới, và ông cũng là người duy nhất mà Diệm tin cẩn cho đi theo.

Về tới nhà, Diệm bảo ông Nhu chuẩn bị hành lý đi Nha Trang ngay. Hôm sau, hai người đã có mặt tại Nha Trang. Ông Nhu đi tìm địa chỉ về báo lại cho Diệm biết. Khi gặp bà ta, ông Nhu mới ngã ngửa kinh ngạc, người đàn bà này không ai khác hơn chính là cô gái Huế năm nào mà Diệm đã quen.

Qua nhiều năm xa cách, không hiểu vì duyên cớ nào mà cô gái ấy lưu lạc đến tận Sài Gòn hoa lệ và trở thành vợ của một ông Tây. Ông Nhu còn cho biết: đây là một người phụ nữ xinh đẹp, ăn nói duyên dáng mặn mà. Bà ta ra Nha Trang để thăm xứ thùy dương lần cuối trước khi sang Pháp sống nơi quê chồng. Theo lời ông Phạm Văn Nhu, kể từ đó trở đi không bao giờ nghe Diệm nhắc tới ba tiếng “con mệ nó”.

Nhưng nhiều người vẫn cho rằng Ngô Đình Diệm là người ái nam ái nữ và không thể quan hệ được với phụ nữ. Chúng tôi tò mò đến hỏi một chủ tiệm may tên Chu ở đường Huỳnh Thúc Kháng để hỏi xem thực hư thế nào, vì ông này là người đã may quần áo cho Diệm nhưng ông ta khẳng định, khi đo quần cho Diệm ông cũng để ý kỹ lưỡng và thấy bộ phận sinh dục của Diệm rất bình thường, không như những điều mọi người xì xầm bàn tán về “của quý” của ông Diệm có dị tật.

Mới đây, chúng tôi còn đọc được một tư liệu của Nguyễn Cần (Tú Gàn) viết: Sau khi hạ sát Diệm – Nhu, tướng Dương Văn Minh cũng tò mò và ra lệnh vạch quần Diệm ra xem có “cái đó” không. Nhưng khi mục kích tận mắt, tướng Minh thấy Diệm cũng bình thường nên bỏ đi, để lại đám sĩ quan đứng ngó nhau rồi tủm tỉm cười.

Con rơi của Ngô Đình Diệm

Năm 1989, tướng Trần Văn Đôn có viết trong hồi ký mang tựa “Việt Nam nhân chứng” được in tại Mỹ. Một trong những người thân cận nhất của gia đình họ Ngô là ông Cửu Long Lê Trọng Văn cũng cho những lời kể của Trần Văn Đôn là có lý, và ông kể lại như sau: Lần đầu tiên có tin tiết lộ về đứa con trai Ngô Đình Diệm từ các nhân chứng như bà Hoàng Tỷ – Chồng bà là giám đốc một trường trung học ở Sài Gòn, lúc Ngô Đình Diệm còn làm Tuần vũ ở Phan Thiết thường lui tới gia đình bà cựu trung tá Tỉnh trưởng Bình Thuận là ông Nguyễn Quốc Hoàng và Lưu Bá Châm, Antonie Lê Căng Đảm – giám học trường chồng bà Hoàng Tỷ.

Sáng ngày 3/11/1963, tôi (Trần Văn Đôn) sai ông Lê soạn cho lính vào dọn dẹp và góp nhặt tất cả giấy tờ, tài liệu trong Dinh Gia Long vì ông Võ Văn Hải, Chánh văn phòng đặc biệt của Diệm cho biết trong Dinh Gia Long có nhiều tài liệu mật, không nên để lọt vào tay ai. Tướng Dương Văn Minh ký giấy ra lệnh cho Đại úy Đặng Văn Hoa đến gặp ông Võ Văn Hải và ông Quách Tòng Đức, cựu Đổng lý của Diệm ở Dinh Gia Long để nhận tài liệu. Trong số tài liệu này cho biết Ngô Đình Diệm có một đứa con trai. Sau đảo chính, ông Võ Văn Hải có giao cho tôi một số tài liệu để cất giữ và dặn rằng tôi phải giữ cho kỹ. Một hôm, tôi nhận được số hồ sơ do sĩ quan cấp dưới giao, trong đó có hình một người đàn bà, đứng bên cạnh là đứa con trai khoảng 13, 14 tuổi. Có một bức thư kèm theo nói rằng đứa bé trong hình là con của Ngô Đình Diệm.

5 năm sau, tôi được cô T.N cho biết Ngô Đình Diệm có một con trai, lúc đó tôi mới nhớ ra tấm hình và bức thư, liền đưa cho cô T.N xem. Thì ra cô T.N là thân nhân của người đàn bà kia.

Người đàn bà ấy quê Hậu Giang, con gái một gia đình trí thức, khi Diệm xuống thăm anh trai Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long thì hai người quen nhau. Sau đó Diệm làm tổng thống, gia đình họ Ngô muốn giữ tiếng tăm cho Diệm nên người đàn bà ấy đã không dám tiết lộ với ai về đứa con trai giữa bà và Ngô Đình Diệm, lúc bà tá túc tại nhà bà đốc Hoàng Tỷ bà mới nhờ bà đốc giao thư và hình đến tận tay cho Ngô Đình Diệm. Nhưng bà Hoàng Tỷ lại không đi mà nhờ em gái mình. Em gái bà Hoàng Tỷ về giao hình và thư cho người con trai là Lê Căng Đảm. Lá thư ấy đã đến tay Ngô Đình Diệm gần một tuần lễ mà không thấy tin tức gì, người đàn bà ấy đành dắt đứa con trai về Hậu Giang sống âm thầm với kỷ niệm đau thương.

Khi biết bà có thai với Ngô Đình Diệm, gia đình bà cảm thấy nhục nhã nên đuổi bà ra khỏi nhà. Bà phải sống cơ cực, thiếu thốn. Năm 1964, T.N hỏi tin tức về người con trai của Diệm và được biết anh ta chỉ là một người lính bình thường trong quân đội của chế độ Sài Gòn.

******************** 

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm 

Chuyên mục: Tổng hợp 

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button