Giáo dục

Đề cương ôn tập học kì 1 Văn lớp 9 bài Thúy Kiều báo ân báo oán

Những kiến thức chính cần ghi nhớ trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán là gì? Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tham khảo ngay đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn lớp 9 2019 dưới đây nhé

Đề cương học kì 1 Ngữ văn lớp 9 bài Thúy Kiều báo ân báo oán

I. TÌM HIỂU CHUNG:

1. Ví trị đoạn trích:

Bạn đang xem: Đề cương ôn tập học kì 1 Văn lớp 9 bài Thúy Kiều báo ân báo oán

– Nằm ở cuối phần thứ hai (“Gia biến và lưu lạc”).

– Trải qua “hết nạn nọ đến nạn kia”, Kiều đã nếm đủ mọi điều đắng cay. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận: “Biết thân chạy chẳng khỏi trời – Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện, Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng “đội trời đạp đất” chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận “con ong cái kiến” bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.

– Đoạn “Thúy Kiều báo ân báo oán” miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du , chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí chính nghĩa của nhân dân: con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí; “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

2. Bố cục đoạn trích: 2 phần:

– Mười hai câu đầu: Thúy Kiều báo ân.

– Hai mươi hai câu còn lại: Thúy Kiều báo oán.

Tham khảo: Soạn bài Thúy Kiều báo ân báo oán

II – PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH:

1. Thúy Kiều báo ân Thúc Sinh:

– Đúng với phẩm chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: “Cho gươm mời đến Thúc lang”. Trước cảnh uy nghiêm “gươm lớn giáo dài”, chàng Thúc hoảng sợ đến mức “Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”, mất cả thần sắc, bước đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu.

– Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?…”

  • Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”, nàng không bao giờ quên.
  • Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi,biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
  • Khi nói với Thúc Sinh, trong ngôn ngữ của Kiều xuất hiện nhiều từ Hán Việt: “nghĩa”,”tòng”,”phụ”,”cố nhân”… kết hợp với điển cố “Sâm Thương”. Lời lẽ của Kiều khi nói với Thúc Sinh là lời lẽ của một “phu nhân” với những khái niệm đạo đức phong kiến như chữ “nghĩa”, chữ “tòng” và “những phong cách biểu hiện ước lệ, công thức “Sâm Thương”, “nghĩa trọng nghìn non” ( Đặng Thanh Lê). Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều.

– Vì muốn thoát khỏi cảnh: “Sống làm vợ khắp người ta” nên Kiều đã nhận lời làm vợ lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tôi đòi khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra. Thúy Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: “Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”. Điều đó khẳng định Thúy Kiều là người trọng nghĩa.

– Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thúy Kiều đã đả động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn rỉ máu,làm cho nàng không chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần:

Vợ chàng quỉ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

-> Cách nói đã thay đổi. Nói về ân nghĩa của Thúc Sinh,cách nói của Kiều rất trang trọng. Nhưng nhắc đến Hoạn Thư, cách nói lại chuyển sang nôm na như kiểu nói của người bình dân. Những thành ngữ “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” và câu nói dứt khoát “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán theo quan điểm của nhân dân: cái ác phải bị trừng phạt, “ác giả ác báo”.

=> Qua việc báo ân Thúc Sinh, ta thấy Thúy Kiều là một người nhân hậu,nghĩa tình “Ơn ai một chút chẳng quên”.

2. Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư:

a. Thái độ, lời nói của Thúy Kiều:

– Kiều và Hoạn Thư gặp nhau lần này trong vị thế đã thay đổi. Kiều là người đứng ở vị thế của người xét xử. Còn Hoạn Thư lại ở vị thế của kẻ bị xét xử. Tuy vậy, Kiều vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà Hoạn Thư. Vừa thấy Hoạn Thư, “nàng đã chào thưa”, vẫn gọi Hoạn Thư là “tiểu thư ” . Cách chào thưa và cách gọi Hoạn Thư như vậy cho ta thấy cả hành động và lời nói của Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.

– Không chỉ mỉa mai, trong lời nói của Kiều còn cỏ cả giọng đay nghiến khi câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt,mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt, càng oan trái… Cách nói này hoàn toàn phù hợp với nhân vật Hoạn Thư. Một nhân vật ghê gớm và khôn ngoan,giảo hoạt:

Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Bề trong nham hiểm giết người không dao.

-> Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho ta thấy nàng quyết tâm trừng trị Hoạn Thư. Điều đó là hợp lí vì Hoạn Thư là người đã làm cho Kiều đau khổ tủi nhục, biến Kiều từ người vợ lẽ thành gia nô trong nhà.

b. Thái độ, lời lẽ của Hoạn Thư:

– Lúc đầu, trước những lời nói và thái độ của Kiều, Hoạn Thư cũng “hồn lạc,phách xiêu”, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi nên Hoạn Thư đã nhanh chóng trấn tĩnh để “liệu điều kêu ca”. Những điều Hoạn Thư “kêu ca” thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình:

  • Trước hết, Hoạn Thư đã đưa ra tâm lí thường tình của phụ nữ:

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

– Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư đã bị xóa bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới nữ: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ “tội nhân”, Hoạn Thư đã lập luận để mình trở thành “nạn nhân” của chế độ đa thê.

  • Tiếp đến, Hoạn Thư kể lại “công” của mình đối với Kiều:

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

– Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn. Từ tội nhân thành nạn nhân rồi thành “ân nhân”,con người này thật khôn ngoan, giảo hoạt.

  • Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều. Hoạn Thư đã đánh vào bản chất của Kiều:

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

=> Lớp lang lời tự bào chữa của Hoạn Thư theo ba bước như vậy chứng tỏ Hoạn Thư đúng là người “sâu sắc nước đời”, khôn ngoan đến mức “quỷ quái tinh ma”.

– Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen:

Khen cho: Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.

– Khi bắt đầu cuộc báo oán, Kiều bảo mọi người ngồi lại để “xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù”,nghĩa là Kiều kiên quyết trừng phạt. Bây giờ, trước lí lẽ của Hoạn Thư, Kiều băn khoăn khó xử, không biết nên trừng phạt hay tha thứ:

Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.

– Dân gian có câu: “Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã biết lỗi, Kiều cũng độ lượng thứ tha:

Đã lòng tri quá thì nên,

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Hành động ấy bộc lộ tấm lòng vị tha nhân hậu tuyệt vời của Kiều.

III – Tổng kết:

1. Nội dung:

– Đoạn trích miêu tả cảnh báo ân báo oán đối với hai nhân vật là Thúc Sinh và Hoạn Thư, qua đó làm nổi bật tấm lòng nhân nghĩa, cao thượng của Thúy Kiều.

– Thể hiện ước mơ công lí, chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức sẽ đứng lên cầm cán cân công lí.

2. Nghệ thuật:

Đoạn trích bộc lộ tài năng của Nguyễn Du về nghệ thuật xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại. Qua những đối đáp của Thúy Kiều với Thúc Sinh và Hoạn Thư, có thể thấy Thúy Kiều đã tự bộc lộ tính cách và tâm trạng của mình một cách hết sức tự nhiên ( tấm lòng trân trọng, biết ơn với Thúc Sinh qua cách nói trang trọng, giàu ước lệ; nỗi đau đớn tủi nhục không nguôi trước sự hành hạ của Hoạn Thư khiến Kiều cũng có những lời lẽ sắc sảo, chua chát, có phần nghiệt ngã). Những lí lẽ gỡ tội của Hoạn Thư cũng bộc lộ rõ tính cách của con người “nói lời ràng buộc thì tay cũng già”.

Với đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn lớp 9 2019/2020 mà THPT Ngô Thì Nhậm vừa chia sẻ ở trên, hy vọng sẽ giúp các em ôn tập tốt hơn cho kì thi sắp tới đạt điểm số cao nhé!


Tổng hợp đề cương ôn tập học kì 1 Ngữ văn 9 bài Thúy Kiều báo ân báo oán với những kiến thức cơ bản các em cần ghi nhớ tại đây

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button