Giáo dục

Đề đọc hiểu Đời thừa của Nam Cao

Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tìm hiểu một số đề đọc hiểu Đời thừa của Nam Cao.

Đề đọc hiểu Đời thừa của Nam Cao – Đề số 1

Gợi dẫn

1. Là một nhà văn lớn và tài năng của văn học Việt Nam, cuộc đời Nam Cao điển hình cho cuộc đời của những trí thức tiểu tư sản những năm trước Cách mạng tháng Tám. Vật lộn với gánh nặng cơm áo để giữ mình và rồi được đến với cách mạng, cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sáng tác của Nam Cao chủ yếu thể hiện tấn bi kịch của con người bị tha hoá. Ông chú ý đến hai đối tượng rất gần gũi với cuộc đời ông là người nông dân và người trí thức nghèo.

2. Tóm tắt tác phẩm : Hộ là một văn sĩ nghèo mang trong mình nhiều hoài bão ước mơ. Anh là người có lí tưởng sống rất cao đẹp. Là một nhà văn, anh đã từng ước mơ có những tác phẩm lớn, có giá trị vượt thời gian. Nhưng từ khi cứu vớt cuộc đời Từ, cưới Từ về làm vợ, anh phải lo cho cuộc sống của cả gia đình chỉ với những đồng tiền ít ỏi của nghề viết văn. Hộ đã rơi vào tình trạng khốn khổ. Tạm gác ước mơ hoài bão để nuôi gia đình, nhưng rồi nỗi lo cơm áo và những dằn vặt lương tâm của một nhà văn đã biến anh thành một người đàn ông vũ phu. Anh uống say rồi hành hạ, đánh đập vợ con, rồi lại ân hận. Hộ rơi vào cái vòng luẩn quẩn, không lối thoát.

3. Đời thừa thể hiện tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản, nguyên nhân của tấn bi kịch ấy là gánh nặng cơm áo. Hộ đồng thời rơi vào hai tấn bi kịch : bi kịch của người nghệ sĩ phải đang tâm chà đạp lên nguyên tắc sáng tạo của nghệ thuật chân chính, bi kịch của người cha người chồng phải chà đạp lên nguyên tắc tình thương do chính mình đề ra.

Qua bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao thể hiện một tư tưởng nhân văn đẹp đẽ : tố cáo hiện thực, lên án sự tha hoá, cảm thông với những con người bất hạnh và khẳng định những quan điểm nghệ thuật chân chính.

4. Đọc chậm, thể hiện những day dứt và diễn biến nội tâm của nhân vật Hộ.

II  Kiến thức cơ bản

Đời thừa là truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài trí thức tiểu tư sản. Qua tác phẩm, nhà văn vừa phản ánh một cách sinh động, cụ thể hiện thực cuộc sống đương thời, vừa nêu lên những tư tưởng mang tính khái quát triết lí sâu sắc về nhân sinh.

Hộ vốn là một văn sĩ có niềm say mê văn chương, muốn sống có ích bằng văn chương. Nhưng vì miếng cơm manh áo và những lo lắng tủn mủn của cuộc sống đời thường mà anh không thực hiện được hoài bão lí tưởng của mình. Chính sự mâu thuẫn giữa lí tưởng và hiện thực cuộc sống đã làm nảy sinh tấn bi kịch tinh thần đau đớn ở Hộ. Bi kịch ấy thể hiện ngay trong nhan đề của tác phẩm. Đời thừa có nghĩa là sống vô ích, sống vô tích sự, không có ý nghĩa gì cho cuộc đời. Với cả hai tư cách người trí thức và người chồng, nhà văn Hộ đều rơi vào bi kịch “đời thừa”.

Là người trí thức, Hộ rơi vào bi kịch của con người có tài năng, có hoài bão, muốn sống có ích nhưng lại trở thành vô ích. Hoài bão của Hộ là hoài bão của một nhà văn chân chính. Anh là nhà văn yêu nghề, muốn cống hiến cả đời mình cho văn chương. Đối với Hộ, niềm say mê văn chương đã trở thành niềm say mê lí tưởng : “Đói rét không có nghĩa gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn”, với Hộ, “nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa”. Còn hơn cả niềm say mê văn chương, Hộ muốn sống có ích bằng văn chương. Anh muốn cống hiến cho xã hội những tác phẩm văn chương có giá trị. Khác hẳn với nhiều văn sĩ lãng mạn với quan điểm sáng tạo “nghệ thuật vị nghệ thuật”, nghệ thuật mà Hộ theo đuổi là “nghệ thuật vị nhân sinh”. Với Hộ, tác phẩm có giá trị phải là “tác phẩm nói lên được nguyện vọng vừa đau đớn vừa mạnh mẽ, nó ca ngợi lòng yêu thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”. Hộ khát khao trở thành nhà văn lớn giật giải Nô-ben về văn học. Đây không phải là sự háo danh của một kẻ tầm thường mà là biểu hiện của một nhà văn yêu nghề muốn sống có ích, có ý nghĩa với đời. Thế nhưng, như Xuân Diệu đã nói :

Nỗi đời cơ cực giơ nanh vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ.

(Xuân Diệu)

Từ ngày cứu vớt Từ, có gia đình vợ con, bao nhiêu gánh nặng đổ lên vai chàng văn sĩ nghèo đầy khát vọng nghệ thuật song cũng đầy tình yêu thương đối với con người. Và Hộ phải lo toan miếng cơm manh áo, gánh nặng cơm áo hàng ngày đã không cho Hộ cơ hội thể hiện tài năng, thực hiện hoài bão. Thật đau đớn xót xa khi anh trở thành đời thừa với tất cả.

Với tư cách là một nghệ sĩ, Hộ một nhà văn chân chính. Anh đã có những quan điểm rất đúng đắn về nghề văn, nhà văn và về văn chương tác phẩm. Những dằn vặt và suy ngẫm của nhà văn về nghề văn, về lao động nghệ thuật cũng chính là những suy nghĩ vô cùng tốt đẹp của Nam Cao về nghề văn. Vì thế, những đoạn miêu tả tâm lí của nhà văn Hộ khi anh nghĩ và nói về nghề văn là những đoạn rất thành công của tác phẩm. Đó là những đoạn sử dụng lời văn nửa trực tiếp như : “Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn kí tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng […]. Khốn nạn ! Khốn nạn ! Khốn nạn thay cho hắn ! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn ! Hắn chính là một kẻ bất lương ! […] sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện […]. Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình”. Những suy nghĩ cay đắng của Hộ là tâm sự của nhiều nhà văn chân chính. Vì phải lo lắng miếng cơm manh áo, vì xã hội đối xử không công bằng với văn học nghệ thuật buộc họ phải làm điều họ không muốn. Hộ hiểu và nhận ra quá rõ sự bất lực của mình nên anh rơi vào tâm trạng bi kịch.

Là người nghệ sĩ có quan điểm nghệ thuật rất chân chính nhưng Hộ lại là đời thừa với xã hội vì những tác phẩm của anh đời không cần đến, những tác phẩm viết vội vàng cẩu thả nên chỉ gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn đạt vài ý thông thường, khuấy loãng trong thứ văn quá ư bằng phẳng. Những tác phẩm ấy chẳng mang đến điều gì mới lạ cho văn chương.

Hộ là đời thừa với gia đình vì anh chẳng những không giúp được gì cho gia đình. Anh những tưởng hi sinh nghệ thuật chân chính một vài năm để kiếm tiền nuôi vợ con và kiếm cho Từ một số vốn kha khá làm ăn nhưng rồi những tác phẩm rẻ tiền ấy không giúp anh nuôi nổi vợ con. Cuối cùng vợ con anh vẫn đói khổ nheo nhóc và anh trở thành vô tích sự với gia đình.

Hộ còn là đời thừa với chính bản thân mình. Anh chẳng những không thực hiện được hoài bão của bản thân mà còn để rơi cả tài năng nhân cách. Còn gì đau đớn hơn là một nhà văn mà ngay cái tên của mình cũng rơi vào sự thờ ơ quên lãng của người đọc ? Những bài báo viết vội vàng cẩu thả đã khiến người ta quên ngay sau khi đọc. Nhận thức được sự cẩu thả trong văn chương là điều đê tiện nhưng anh vẫn cứ phải làm và điều đó làm anh đau đớn. Tài năng, nhân cách của anh đã phải cúi đầu nhục nhã trước những cái tầm thường, vặt vãnh trong cuộc sống.

Hộ rơi vào bi kịch thứ hai không kém phần xót xa đau đớn, đó là bi kịch của con người vốn có nhân cách, muốn sống có tình thương nhưng cuối cùng lại chà đạp một cách thô bạo lên chính nguyên tắc thiêng liêng cao đẹp ấy. Chính anh đã dang tay cứu vớt cuộc đời Từ. Anh lo toan mọi công việc gia đình. Anh đã sẵn sàng gác lại những ước mơ nghệ thuật cao đẹp để sống có tình thương. Tình thương chính là tiêu chuẩn để phân biệt con người và dã thú. Hộ phản đối triết lí sống “phải biết ác để sống cho mạnh mẽ”, với anh, “kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.

Thế nhưng Hộ vi phạm nguyên tắc mà anh theo đuổi. Với tư cách là một người đàn ông, người chồng, anh chà đạp lên nguyên tắc tình thương. Anh để mình ngày càng lún sâu vào con đường tha hoá. Anh tìm quên trong rượu chè, nhưng cơn say không giúp anh thoát khỏi sự bế tắc. Hộ đã không chỉ không thực hiện được trách nhiệm của người nghệ sĩ chân chính mà còn trở thành một người đàn ông vũ phu. Trở về nhà trong cơn say, những cơn ức chế thần kinh đã khiến anh dang tay đánh vợ. Con người khi tha hoá mà không nhận ra mình tha hoá thì đau ít. Khi còn nhận ra mình bị hư hỏng thì người ta sẽ rơi vào bi kịch. Những nhân vật của Nam Cao thường rơi vào tấn bi kịch tinh thần ấy. Biết mình bị tha hoá mà không tự cứu mình được. Hộ hành động vũ phu với vợ trong cơn say để khi tỉnh rượu lại tự giày vò mình và chửi mình là một thằng khốn nạn. Hộ đã phải chịu đựng cùng một lúc hai bi kịch đớn đau, bi kịch của người nghệ sĩ không thực hiện được mơ ước và bi kịch của một người cha, người chồng không thể thực hiện được nghĩa vụ với gia đình.

Qua nhân vật Hộ và nhiều nhân vật trí thức khác, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo của mình. Nhà văn lên án chế độ xã hội đã huỷ hoại nhân cách con người. Tâm sự của Hộ, của Thứ, của Điền cũng là tâm sự của những nghệ sĩ chân chính của mọi thời đại. Mâu thuẫn giữa cơm áo gạo tiền và những lí tưởng nghệ thuật cao cả là mâu thuẫn luôn tồn tại trong lao động nghệ thuật. Qua Hộ, nhà văn đã thể hiện sự tin tưởng của mình đối với những nhà văn chân chính. Vẫn nhận ra sai trái của mình con người sẽ biết sửa chữa. Và những nhà văn như Hộ sẽ vượt lên được mình để giữ gìn nhân cách. Anh sẽ viết được những tác phẩm như anh mong muốn, sẽ có trách nhiệm với gia đình và sẽ vẫn là một người tốt bởi bản chất anh không phải là kẻ xấu. Anh là người có nhân cách.

Hộ là điển hình cho bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Nghệ thuật điển hình hoá đã đạt đến đỉnh cao trong sáng tác của Nam Cao. Những giằng xé trong Hộ, Điền, Thứ cũng là những giằng xé trong mỗi người nghệ sĩ khi họ muốn vượt lên những lo toan đời thường để cống hiến và sống hết mình với nghệ thuật. Vì vậy, giá trị nhân văn cao cả trong sáng tác của Nam Cao cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ là tấn bi kịch của một người chân chính, truyện ngắn Đời thừa còn là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm đúng đắn về nghề văn, nhà văn và về nghệ thuật đích thực.

III  Liên hệ

Đời thừa là truyện về một nhà văn nghèo bất đắc chí. Đề tài ấy không thật mới : đương thời, đã có Mực mài nước mắt (Lan Khai), Nợ văn (Lãng Tử), nhiều trang tùy bút của Nguyễn Tuân, nhiều vần thơ của Tản Đà, Nguyễn Vĩ, Trần Huyền Trân…, hai câu thơ rất quen thuộc của Xuân Diệu : “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt – Cơm áo không đùa với khách thơ”… Tất cả đều đã nói thấm thía về cảnh nghèo túng đáng thương của người cầm bút.

Đời thừa cũng như một số sáng tác của Nam Cao gần gũi với nó về đề tài, giọng điệu, tư tưởng : Trăng sáng, Nước mắt, Sống mòn… – đã ghi lại chân thực hình ảnh buồn thảm của người trí thức tiểu tư sản nghèo. Tuy không đến nỗi quá đen tối, “tối như mực” lắm khi “đen quánh lại” – chữ dùng của Nguyễn Tuân – như cuộc sống của quần chúng lao động thường xuyên đói rét thê thảm, nhưng cuộc sống của những người “lao động áo trắng”, những “vô sản đeo cổ cồn” đó cũng toàn một màu xám nhức nhối : “không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” (Xuân Diệu). Vì nghèo túng triền miên, vì “chết mòn” về tinh thần.

Trong bức tranh chung về cuộc sống người tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã góp vào những nét bút rất mực chân thực và sắc sảo, làm cho hình ảnh vừa bi vừa hài của lớp người này trở nên đầy ám ảnh.

Trong mảng sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam Cao, Đời thừa có một vị trí đặc biệt. Cũng như tiểu thuyết Sống mòn, Đời thừa là sự tổng hợp của ngòi bút Nam Cao trong đề tài tiểu tư sản, là tác phẩm đã thể hiện khá hoàn chỉnh tư tưởng nghệ thuật cơ bản của nhà văn. Có điều, trong khuôn khổ truyện ngắn, sự tổng hợp ấy không trải ra trên bề rộng mà chủ yếu tập trung đi vào bề sâu.

Giá trị của Đời thừa không phải chỉ ở chỗ đã miêu tả chân thực cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người trí thức tiểu tư sản nghèo, đã viết về người tiểu tư sản không phải với ngòi bút vuốt ve, thi vị hoá mà còn vạch ra cả những thói xấu của họ, v.v…

Cách nói đó dường như xác đáng, song chỉ thấy một lớp ý nghĩa, lớp thứ nhất, lớp bên trên của tác phẩm. Mà với Nam Cao, cách nhìn như vậy thật tai hại, vì nó “bất cập”, vô tình thu hẹp và hạ thấp rất nhiều tầm tư tưởng của truyện. Khác với các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, truyện của Nam Cao thuộc loại có nhiều lớp nghĩa, tư tưởng truyện không phải luôn trùng khít với nội dung cuộc sống được phản ánh trong truyện. Trong khi dựng lại chân thực tình cảnh nhếch nhác của người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của họ, qua đó, đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc.

……………………………………..

Đề đọc hiểu Đời thừa của Nam Cao – Đề số 2

Tấm bi kịch tinh thần của Hộ

Không biết rằng trên cõi đời này, ai đã đọc và tự đặt câu hỏi tác giả của bốn câu trên là ai và họ viết làm gì. Không biết rằng trên cõi đời này, ai hay cái gì đã khiến cho ai đó phải thốt lên não nề như kia. Không biết và không biết. Chắc có lẽ Nam Cao cũng thế

Lời giải

Không biết rằng trên cõi đời này, ai đã đọc và tự đặt câu hỏi tác giả của bốn câu trên là ai và họ viết làm gì. Không biết rằng trên cõi đời này, ai hay cái gì đã khiến cho ai đó phải thốt lên não nề như kia. Không biết và không biết. Chắc có lẽ Nam Cao cũng thế.

Phải chăng ông cũng chẳng hay biết gì đến lời than với thân, than với trời của Từ, bởi khi kết thúc truyện ngắn “Đời thừa”, ông lại bỏ lửng câu hát ru của Từ. Dường như câu hát ra này là dấu chấm hỏi mà Nam Cao vô tình hay cố tình đặt vào cuộc đời Từ. Nhưng không, cái dấu chấm hỏi mà Nam Cao đặt vô tình hay cố tình lại là cái dấu chấm than mà ông, dương như đã có tính trước, đặt vào cuộc đời chồng của Từ – văn sĩ Hộ. Ông chấm than cho cái tài của Hộ, cho cái lương tâm nghề nghiệp, cho cái đẹp trong con mắt Hộ. Dấu chấm than như một cung điệu cao vút đang rung nhịp giữa đời Hộ, giữa cái xã hội thực dân nửa phong kiến này. Không biết rằng trên cõi đời này, có ai đã từng hỏi sao Nam Cao lại chấm dấu chấm than kia đẹp đến thế kia? Không biết và không biết. Phải chăng chỉ còn mỗi Nam Cao mới biết ông đang làm gì. Ông cứ chấm than dài mãi để rồi kết thúc bằng dấu chấm hết cho cuộc đời Hộ. Hộ bế tắc, túng quẫn và cuộc đời của văn sĩ này bắt đầu “khốn nạn”, lắm những đau thương.

Con người Hộ, dưới ngòi bút của Nam Cao, là một người có tài trong việc “ngòi bút thơ”. Quả thế, Hộ “là một nhà văn”. Và anh muốn qua ngòi bút của mình để có thể mang đến tình thương, tình yêu của một con người cho tha nhân. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có bao nhiêu người như Hộ, nhất là vào cái thời mà phong kiến, thực dân chia để trị này? Quá lớn lao, quá cao cả, quá con người! Nhưng Nam Cao lại đẩy anh vào một tình huống mà đến trời cũng có thể khó giải quyết được. Cuộc đời của “gã trẻ tuổi say mê lí tưởng” “vốn nghèo” nãy đã gặp được Từ. Hoàn cảnh đưa đẩy đã khiến cho Hộ và Từ nên vợ nên chồng. Hộ lấy Từ vì Hộ thương cho hoàn cảnh của Từ và anh muốn sống để nuôi Từ. Nhưng có lẽ chính vì lòng thương người của Hộ đã đẩy anh vào cuộc sống “áo cơm ghì sát đất”. Nó đã phản bội anh. Lòng thương người của Hộ đã bắt anh phải hận đời, hận người. Hộ đã nghèo, nay còn khốn khổ hơn. Khi còn một thân một mình, cái nghề viết lách là nguồn thu nhập chủ yếu của Hộ và có thể chỉ nuôi được mỗi mình anh. Thế mà bây giờ đây, cái nghề viết lách kia phải gánh thêm cái nợ vợ con Hộ trên vai. Văn sĩ này phải viết “vội vàng” những tác phẩm “nhạt nhẽo”, “một vài ý rất thông thường quấy loãng trong thứ văn bằng phẩng và quá ư dễ dãi”. Anh là một nhà văn yêu nghề, lương tâm nghề nghiệp đúng đắn mà bây giờ đây lại phải “dối trá”, “bất lương” như một kẻ hèn nhát, “tiểu nhân thị oai”. Quả thế, Hộ quan niệm “sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Không chỉ riêng hộ, mà mỗi người trên thế giới này, nếu là con người thì họ đều sống theo quan niệm của mình. Thế mà cái số phần “áo cơm ghì sát đất” này đã bắt Hộ không được làm người, nếu chưa bàn đến sẽ trở thành một thú vật, khi Hộ không thể sống theo điều anh đã quan niệm. Khốn khổ và khốn nạn thế đấy! Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có ai thấu hiểu được nỗi đau tinh thần này? Không biết và không biết.

Vì Hộ là một văn sĩ có lương tâm và anh muốn qua những tác phẩm của mình, tình thương người sẽ được đưa đến khắp nơi, nên Hộ rất muốn có “một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Ai dám cho rằng đây là sự kênh kịu của Hộ, sự kênh kịu của một kẻ “vốn nghèo”, lại “đê tiện” thế đây? Con người ta cũng có thể nghĩ như thế nhưng quả thật, Hộ đáng thương hơn là đáng ghét. Bởi xét như Hộ là một văn sĩ luôn biết “đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán” thì không lý nào ước mơ kia lại là sư kiêu ngạo. Và anh muốn anh sẽ chỉ có một quyển sách thôi, một tác phẩm do chính ông viết “sẽ ăn giải Nô-ben và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”.

Tưởng chừng như bi kịch về nghề nghiệp của Hộ đã là quá đủ đối với anh nhưng không, cái xã hội này không tha cho anh. Nó vẫn bắt anh phải chịu những bi kịch khác. Và rồi bao nhiêu tài năng lẫn cái đức độ của Hộ lại trở thành cái cớ, cái nền rất chắc cho những bi kịch sau này anh phải chịu. Nếu như chính cái tài năng viết văn của mình, hay thậm chí chỉ là quan niệm “văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” đã khiến cho Hộ phải “lãnh đủ” cái thối tha, cái dối trá, cái bất lương thậm chí là cái đê tiện của một kẻ “ngòi bút thơ” cẩu thả, vội vàng; thì chính cái lòng thương người của anh lại là một trợ lực rất chắc, một hậu phương vững vàng cho cái bi kịch về lòng thương người. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một người nào khác mà cuộc đời của họ giống như Hộ, đầy rẫy những mâu thuẫn trong tâm hồn. Không biết và không biết. Có lẽ Hộ là người duy nhất. Và chắc Nam Cao cũng là người duy nhất ác đến mức phải đẩy hết nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, xem ra thì những nhân vật này có lẽ làm chó sướng hơn. Lật lại những tác phẩm của Nam Cao, Chí Phèo lẫn lão Hạc đều cũng phải sống trong những hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn. Nếu như Hộ phải chịu sự mâu thuẫn về tinh thần thì Chí Phèo lại phải suốt ngày say khướt để rồi om xòm làng xóm cùng bầy chó, cũng như lão Hạc phải kết thúc cuộc đời mình bằng bả chó. Qủa thật làm chó sướng hơn.

Có lẽ Nam Cao là một nhà văn thiếu đi một “lương tâm”, mà cái xã hội thối nát xưa cần có, là giả dối, là đê tiện. Ông đã thương thì phải thương đến cùng. Từ khi mở đầu cho “Đời thừa”, Nam Cao dường như đã vô tình đặt lòng thương người của Hộ vào Từ. Họ lấy nhau và rồi tưởng chừng như Hộ sẽ yêu thương Từ mãi mãi. Nhưng “sông có khúc, con người có lúc”. Quả thế, đã có lúc khi nghĩ về gia đình mình, Hộ “đã đứng phắt dậy, mắt chan chứa nước” và bắt đầu giận ghét Từ. Một cơn “điên người lên” chưa từng thấy ở Hộ đã có thể dường như thay đổi toàn bộ bộ mặt của Hộ, thậm chí là giết chết Hộ. Bởi nếu anh là một con người có lòng thương người tha thiết thì hẳn Hộ đã không có những hành động như thế. Khốn khổ và khốn nạn thế đấy! Nhưng anh không phải là người dễ chiều theo cái thói “điên người lên” của mình. Hộ đã kết thúc nó bằng cách lao vào cơn say mèn của rượu chè. Lại thêm một Chí Phèo nữa. Nhưng lần này Nam Cao lại “nhẹ tay” hơn khi vẫn để cho văn sĩ Hộ còn sống, tỉnh ra và nhận thấy cái dối trá, bất lương, đê tiện của chính mình. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một nhà trí thức nào có một cuộc sống như Hộ. Không biết và không biết.

Và chắc có lẽ rằng Nam Cao không phải là người duy nhất khi khắc họa nên bi kịch của một người trí thức. Người đời còn có thể thấy được bị kịch này trong nỗi niềm của Nguyễn Khuyến.

“Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”

Nguyễn Khuyến như đang vạch trần bộ mặt đê hèn của lối học giả, hư danh xưa. Những người trí thức thật, những “tiến sĩ thật” thì dường như đã bị xã hội vùi dập trong vũng sâu của thời đại. Dù có tài giỏi hay đạo đức đến đâu, khốn khổ cũng như khốn nạn là đây!

Con người đời này khi đọc lại tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, có lẽ dường như tất cả  đều không khỏi ngạc nhiên về cách miêu tả nhân vật rất sắc sảo đến như vậy. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có ai khác có thể nhập vai nhân vật tuyệt vời như Nam Cao? Không biết và không biết. Nam Cao như hóa thân chính mình vào hoàn cảnh đó để rồi từ tâm lí, lời nói, cách xưng hô, hành động, suy nghĩ đều rất phù hợp. Tác phẩm chỉ kéo dài một ngày từ sáng hôm trước đến sáng hôm sau mà tâm lí nhân vật văn sĩ Hộ đã được toát lên cách đặc biệt và Hộ dường như trở thành đại diện cho giới tri thức trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Xuyên suốt quá trình khắc họa vẻ đẹp nhân vật Hộ, Nam Cao đã nhiều lần đưa chính ông, Hộ và cả người đọc quay đi quay về với quá khứ và hiện tại để rồi toát lên cái tài năng, cái đức độ của một con người có hoài bão, lương tâm nghề nghiệp và quan niệm văn chương đúng đắn. Nhưng rồi cũng vì những điều đó đã dẫn Hộ đến cảnh “điên người lên” vì bi kịch nghề nghiệp, bi kịch lương tâm. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có một ai giống như Hộ? Không biết và không biết. Khốn khổ và khốn nạn là đây!

Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao

Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con người.

Lời giải:

II. THÂN BÀI

1. Khái quát: Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cũng từ lòng nhân đạo, nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người và kêu gọi giải phóng cá nhân ra khỏi những khổ đau và bất hạnh. Truyện ngắn “Đời thừa” ra đời năm 1943, là tác phẩm phản ánh sâu sắc và rõ nét về cuộc sống của những người trí thức tiểu tư sản nghèo ở nước ta trong bối cảnh đất nước bị ngoại bang giày xéo. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn và thực sự trở thành “tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nam Cao đã phản ánh một cách rõ nét và chân thực những bi kịch lớn của người trí thức đương thời và cất tiếng kêu cứu thảm thiết đòi quyền sống cho họ.

2. Trong tác phẩm “Đời thừa”, Nam Cao đã xây dựng thành công giá trị nhân đạo sâu sắc ấy.

a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo là nhà văn xót xa thương cảm trước những nỗi khổ đau của nhà văn Hộ khi sụp đổ giấc mộng văn chương và bi kịch tình thương. Nam Cao đã xót thương và đồng cảm trước bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ , một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực. Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel !

Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào ? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Anh dằn vặt ghê gớm, anh lên án chính mình “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn, càng khổ đau. Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó !

Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Và rượu – kẻ “làm đỏ mặt và đen danh dự” đã đưa Hộ thành kẻ vi phạm nguyên tắc tình thương. Anh trở thành kẻ vũ phu, kẻ vô học. Rượu đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ. Viết về nỗi đau này, Nam Cao dường như cũng đang thổn thức cùng nhân vật.

b. Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” là tiếng nói của nhà văn lên án tố cáo thế lực đã gây ra nỗi đau cho nhà văn Hộ, đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa, của bi kịch khủng khiếp. Bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.

c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” đó chính là nhà văn phát hiện và trân trọng nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn Hộ. Hộ là nhà văn chân chính. Anh là nhà văn rất có ý thức về nghề nghiệp. Anh mê văn, say văn và có giấc mộng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết được một tác phẩm mà sẽ “làm mờ hết tất cả các tác phẩm ra cùng thời”. Đó là tác phẩm “ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình. Nó làm người gần người hơn”. Tác phẩm đó phải đạt giải Nobel. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình. Hộ lên án thứ văn chương rẻ tiền, hời hợt, dễ dãi. Thứ văn chương “cẩu thả”, “bất lương”. Hộ yêu cầu văn chương phải sáng tạo, bởi “văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hộ đầy hoài bão về giấc mơ chinh phục đỉnh cao. Anh là nhà văn chân chính.

Không chỉ vậy, Nam Cao còn phát hiện ra Hộ là con người giàu lòng nhân ái. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương – lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp biết dường nào!

d. Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là niềm tin của Nam Cao vào khả năng vươn dậy của nhân vật. Cuối tác phẩm là hình ảnh Hộ ôm từ vào lòng. Bao nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc. Tiếng “khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp mạnh” của Hộ cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của người trí thức tiểu tư sản nghèo có nhân cách. Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá. Chắc chắn đằng sau những giọt nước mắt ấy là sự “trở về” của nhà văn Hộ.

3. Đánh giá chung :Tư tưởng nhân đạo mới mẻ của Nam Cao thể hiện ở việc nhà văn biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ. Những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm. Dường như những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng.

Có thể tự tin mà nói rằng với “Đời thừa”, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với người trí thức… Và viết lên được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao. Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.

III. KẾT BÀI Tóm lại, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.

……………………………….

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button