Giáo dục

Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập

Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tìm hiểu cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập.

Phân tích cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập

Dàn ý phân tích cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập

I. Mở bài:

– Giới thiệu bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh.

II. Thân bài:

– Hồ Chí Minh đã tố cáo những tội ác của thực dân Pháp:

+ Tội ác diệt chủng, giết chết hơn hai triệu đồng bào ta vì nạn đói.

+ Trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật.

+ Phản bội quân đồng minh, dâng Đông Dương hai lần cho Nhật.

+ Khi trốn chạy còn tàn sát các chiến sĩ cách mạng của ta ở trong tù.

– Hồ Chí Minh khẳng định truyền thống đấu tranh của dân tộc:

+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp.

+ Xóa bỏ tất cả hiệp ước Pháp đã ký về Việt Nam.

+ Xóa bỏ đặc quyền của Pháp trên đất nước ta.

+ Người khẳng định tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù.

+ Bác đưa ra những lí lẽ, yêu cầu để các nước trên thế giới phải công nhận nền độc lập của Việt Nam.

– Nghệ thuật: Giọng điệu hùng hồn, đanh thép; lí luận sắc bén, thuyết phục.

III. Kết bài:

– Khẳng định nước ta có quyền được hưởng tự do, độc lập.

Phân tích cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 1

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh khi Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2/ 9/1945 tại quảng trường Ba Đình trước hàng triệu đồng bào. Nếu ở phần đầu tác phẩm Hồ Chí Minh đưa ra bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mĩ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp để làm cơ sở pháp lý thì đến phần hai Người đã nêu lên cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn.

Cơ sở ấy bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tố cáo những tội ác của thực dân Pháp. Người đã liệt kê ra những hành động mà chúng đã thực hiện đối với dân tộc ta. Những việc chúng làm luôn đi ngược lại với chính nghĩa và lòng nhân đạo. Thực dân Pháp đã lợi dụng “lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái” để áp bức nhân dân ta, xâm chiếm lãnh thổ đất nước ta trong suốt hơn tám mươi năm nay. Những chính sách cai trị của chúng vô cùng hà khắc và tàn bạo.

Về chính trị, chúng “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, những nhà tù được chúng lập ra nhiều hơn cả trường học”. Chúng “thẳng tay chém giết” những người con yêu nước của dân tộc. Chúng “thi hành chính sách ngu dân”, làm giống nòi ta suy nhược bằng thuốc phiện và rượu cồn. Thực dân Pháp có dã tâm lớn khi lập ra ba chế độ chính trị khác nhau ở ba miền để ngăn không cho nước ta thống nhất và chia cách sự đoàn kết của nhân dân ta.

Về kinh tế, chúng “bóc lột nhân dân ta đến xương tủy”, “cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu”, đặt ra vô số thứ thuế vô lý khiến dân ta lâm vào tình cảnh khốn đốn, bần cùng. Độc ác nhất là chúng gây ra nạn đói năm 1945 giết chết hơn hai triệu đồng bào ta. Những thủ đoạn của chúng vô cùng tàn nhẫn bộc lộ bản chất vô nhân đạo. Đó là tội ác diệt chủng. Chúng muốn xóa bỏ nước ta trên bản đồ thế giới, muốn tiêu diệt hết nòi giống ta để chúng dễ bề xâm chiếm và cai trị. Chỉ trong vòng năm năm mà “chúng bán nước ta hai lần cho Nhật” vậy mà chúng còn kể công “bảo hộ”, “khai hóa”. Hơn thế nữa, chúng còn khẳng định Đông Dương là thuộc địa của mình trong khi sự thực thì chúng đã đầu hàng Nhật, Đông Dương trở thành thuộc địa của Nhật và nhân dân ta đã giành lại quyền tự do, độc lập từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ tay thực dân Pháp. Chúng thẳng tay khủng bố Việt Minh, “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Thủ đoạn của chúng không chỉ tàn nhẫn mà nhân cách của chúng còn đê tiện, tráo trở. Tuy vậy, bằng lòng nhân đạo của mình, “sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Nhân dân ta luôn dương cao lá cờ chính nghĩa và “vẫn giữ thái độ khoan hồng” với chính kẻ thù của mình. Còn thực dân Pháp thì tàn ác, vô nhân đạo, cuộc chiến tranh mà chúng gây ra cho dân tộc ta là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chúng đã phản bội phe Đồng minh, bắt tay thông đồng với bọn phát xít để chúng mở rộng công cuộc xâm chiếm thuộc địa. Những từ ngữ “tuyệt đối không cho”, “dã man”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”, “bể máu”, “bóc lột đến tận xương tủy”,…đã thể hiện thái độ căm phẫn của tác giả trước những tội ác của chúng.

Qua việc vạch trần bản chất của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định tinh thần chiến đấu và truyền thống đoàn kết của dân tộc. Người tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Chúng ta đã “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải. Như vậy, nước ta không còn mối liên quan nào đến thực dân Pháp nữa. Chúng ta “một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của chúng” và chúng ta cũng một lòng quyết chiến quyết thắng để giành lại nền độc lập, tự do cho dân tộc. Với những dẫn chứng, lý lẽ thuyết phục ấy các nước Đồng minh không thể không công nhận nền độc lập của dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”! Từ cơ sở thực tiễn là những tội ác của thực dân Pháp, Người đã tuyên bố với toàn thể thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vùng quyền tự do, độc lập ấy”.

Với giọng điệu hùng hồn, đanh thép cùng những bằng chứng xác thực và cách lập luận chặt chẽ, cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn nói riêng và toàn bộ bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh nói chung đã khẳng định nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, tự do. Đồng thời tác phẩm này cũng thể hiện phong cách chính luận của Người một cách rõ rệt.

Phân tích cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 2

Trong lịch sử văn học cũng như lịch sử dựng nước, giữ nước, chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) và đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đánh giá về giá trị của tác phẩm, các ý kiến đều thống nhất khi nhận định “Tuyên ngôn độc lập” vừa là một văn kiện lịch sử vô giá, vừa là một mẫu mực của văn chính luận. Phần nêu cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cho bản tuyên ngôn là minh chứng tiêu biểu cho mẫu mực của nghệ thuật lập luận đó.

Ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã nêu những cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Cụ thể, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để làm căn cứ khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sau này bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp” năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Cả hai bản tuyên ngôn này đều khẳng định lẽ phải về quyền con người. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới thế kỉ XVIII – di sản tư tưởng của nhân loại. Từ lẽ phải về quyền con người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Tác giả đã giúp thế giới hiểu rằng các dân tộc dù da đen hay da trắng, da đỏ hay da vàng đều bình đẳng như nhau vì tất cả họ đều là con người. Cách lập luận của Hồ Chí Minh thật khôn khéo vì tác giả đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông” khi dùng lời của Pháp và Mỹ để nói với chính họ. Trong tranh luận không gì thú vị bằng dùng chính lời của đối phương để bác bỏ đối phương khiến họ rơi vào tình trạng “há miệng mắc quai”. Bác đã dùng cây gậy độc lập để đánh vào lưng những kẻ chuyên đi xâm lược, làm đổ máu và nước mắt của đồng loại mà cứ rêu rao về quyền tự do, bình đẳng.

Dẫn lời của Mỹ và Pháp lên đầu bản tuyên ngôn, người viết tỏ ra trân trọng, đề cao những tuyên ngôn thuộc về lẽ phải… vì thế tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trên thế giới, đặc biệt là dư luận tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã gián tiếp đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang tầm nhau nhằm thể hiện niềm tự hào dân tộc. Cách lập luận ấy còn rất kiên quyết bởi mượn lời của Pháp và Mỹ, Bác đã ngầm cảnh cáo với bọn đế quốc thực dân rằng: Nếu chúng tiếp tục xâm lược Việt Nam có nghĩa là chúng đã phản bội lại truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc, vấy bẩn lên lá cờ tự do bình đẳng bác ái mà cha ông họ đã từng giương cao. Hành động phi nghĩa ấy sẽ là nguyên nhân đẩy chúng vào kết cục bi thảm. Cách lập luận ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập thật chặt chẽ, thuyết phục và sáng tạo. Đoạn văn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích: chỉ có hai câu trích dẫn, một lời bình luận suy rộng ra, một lời khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật cơ sở pháp lý vững chắc về quyền sống, quyền tự do dân tộc, tiêu biểu cho vẻ đẹp mẫu mực của văn chính luận Hồ Chí Minh. Nó như phát súng thổi bùng lên phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa trên thế giới.

Phần hai của bản tuyên ngôn lại làm nổi bật những cơ sở thực tiễn cho lời tuyên bố độc lập. Trước hết, Người đã lập ra một bản cáo trạng những tội ác của thực dân Pháp để phủ nhận công lao “khai hóa”, “bảo hộ” của chúng. Pháp nêu chiêu bài có công “khai hóa” ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng để hợp thức hóa việc quay trở lại Đông Dương và Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác về cả chính trị và kinh tế để đập tan luận điệu xảo trá, bịp bợm ấy: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man… làm nòi giống ta suy nhược”. Còn về kinh tế, chúng đã “bóc lột dân ta đến tận xương tủy… bóc lột công nhân một cách vô cùng tàn nhẫn”.

Pháp nêu chiêu bài có công “bảo hộ” Việt Nam, thì Hồ Chí Minh đã tố cáo những tội ác về quân sự để bác bỏ “công lao” đó của chúng: đó là khi phát xít Nhật xâm lăng Đông Dương, thực dân Pháp đã “quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật” và chỉ trong hai năm, Pháp đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Khi thua trận, bị tước khí giới bởi Nhật, chúng còn nhẫn tâm giết hết số đông tù chính trị tại Cao Bằng. Bằng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng thực xác thực, ta có cảm giác Hồ Chí Minh đang lật lại bánh xe lịch sử để quay lại những tư liệu hết sức chân thực mà kẻ thù không thể chối cãi trong suốt 80 năm đô hộ Việt Nam. Tội ác ấy đã khiến cho hai triệu đồng bào ta chết đói, 95% dân số mù chữ,…

Ngôn ngữ và những hình tượng nghệ thuật được Người sử dụng vừa chính xác vừa truyền cảm: “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Câu văn cho thấy tội ác dã man của giặc, hành động đàn áp được diễn đạt bằng động từ “tắm” đã cho thấy bộ mặt thật của bọn thực dân khát máu, tàn bạo, đồng thời diễn tả được nỗi đau thê thảm của người dân mất nước đang quằn quại trong những “bể máu” đau thương. Thủ pháp điệp từ, điệp kiểu câu cũng được sử dụng vô cùng đắc địa. Những câu văn mở đầu bằng từ “chúng” nặng như búa tạ giáng xuống đầu kẻ thù và gợi trong tim ta nỗi đau xót nhức nhối. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với những động từ mạnh đã hệ thống hàng loạt những tội ác chồng chất mà thực dân Pháp đã gây ra cho mọi tầng lớp từ dân cày đến dân buôn, công nhân đến các nhà tư sản. Đó là tội ác mà “Trúc Lam Sơn không ghi hết tội/ Nước Đông Hải không rửa sạch mùi” (Nguyễn Trãi).

Không chỉ có thế, bản tuyên ngôn còn phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập, khẳng định tư thế chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không những có quyền hưởng tự do độc lập mà thực tế đã giành được quyền tự do độc lập. Trước hết, nhân dân Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập. Trong bao nhiêu năm qua, Việt Nam đã là dân tộc chịu nỗi đau xâm lược, còn Pháp là kẻ thù đi xâm lược. Nếu thực dân Pháp đã hèn hạ phản bội lại Đồng Minh, dâng Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã anh dũng đứng về phía Đồng Minh chống phát xít. Nếu thực dân Pháp hèn nhát, phản động, vô nhân đạo thì chúng ta luôn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo: “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Đó là những việc làm cao thượng, những cử chỉ nhân nghĩa xứng đáng với truyền thống cao đẹp của dân tộc:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo”

(Bình Ngô đại cáo).

Không chỉ có vậy, Việt Nam đã thực sự giành được quyền tự do, độc lập. Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ chúng ta cho Nhật. Và sau đó, nhân dân ta trong cuộc Cách mạng tháng tám đã giành chính quyền từ tay Nhật, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh bền bỉ với những hy sinh xương máu. Câu văn “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị…” đã cho thấy ba kẻ thù bị đánh bại: thực dân, phát xít và phong kiến. Chín chữ ngắn gọn đã khái quát được gần một nghìn năm lịch sử với những sự kiện trọng yếu của dân tộc. Pháp hoảng hốt bỏ chạy, Nhật quỳ gối đầu hàng, Bảo Đại thì hai tay run rẩy trao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng, tất cả rác rưởi đã được quét dọn cho một quốc gia mới ra đời. Để khẳng định quyền dân tộc, Người đã sử dụng rất nhiều thủ pháp: điệp ngữ, điệp cấu trúc (những câu văn bắt đầu bằng cấu trúc “sự thật là…”) vang lên một cách dõng dạc vừa khẳng định sự thực, vừa khẳng định chân lý. Hàng loạt các dẫn chứng xác thực không thể chối cãi được như tái hiện trước mắt chúng ta những chặng đường bi thương hào hùng của dân tộc.

Việc nêu những cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn làm cơ sở cho lời tuyên ngôn độc lập là một công việc khó khăn nhất, rất khó để làm được một cách khôn khéo, thuyết phục nhưng Hồ Chí Minh đã xử lý một cách khéo léo bằng những lập luận trí tuệ, sắc sảo, đầy sức thuyết phục. Cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn đã chứng minh “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện được tài năng của người con ưu tú của dân tộc Việt Nam – chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Phân tích cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc. Bản Tuyên ngôn độc lập do Người soạn thảo và công bố trước toàn thể đồng bào và toàn thế giới vào ngày 02/9/1945 là một tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ, có cơ sở thực tế.

Cơ sở thực tế: Xác định thời điểm lịch sử, vạch rõ sự phi nghĩa của thực dân Pháp (chính trị: thâm độc; kinh tế: dã man; bản chất: đè tiện); nêu cao chính nghĩa của dân tộc Việt Nam (chiến đấu dũng cảm, bản chất nhân đạo). Sự thật lịch sử: Kết quả của Cách mạng tháng Tám -1945 là thực tế độc lập của nước Việt Nam khẳng định thực tế độc lập.

(…) Ở thời điểm lịch sử khi bản Tuyên ngôn ra đời, chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam đang bị đe dọa bởi nguy cơ xâm lược của đế quốc Mỹ và thực dân Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là một cuộc chiến đấu vũ trang của toàn dân tộc nhưng cuộc chiến đấu ấy cần có thời gian chuẩn bị lực lượng, cần có sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Do đó chỉ xác lập cơ sở pháp lí chưa đủ, cần phải bằng thực tế hiển nhiên vạch rõ sự phi nghĩa của thực dân và nêu cao sự chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Trước hết qua những chứng cứ cụ thể, xác thực, bản Tuyên ngôn đã vạch trần những việc làm trái hẳn với nhân đạo và trái với chính nghĩa của thực dân Pháp. Chúng đã lợi dụng danh nghĩa của người đi “khai hóa”, “bảo hộ” và núp dưới lá cờ “Tự do – bình đẳng – bác ái” để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Về chính trị, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn thâm độc để tiêu diệt ý chí chiến đấu của người Việt Nam: chúng không cho nhân dân ta được hưởng tự do dân chủ, chúng chia cắt ba miền bằng ba chế độ chính trị khác nhau nhằm phá vỡ tinh thần đoàn kết thống nhất của nhân dân ta, chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc nhân dân ta. về kinh tế, chúng dùng nhiều biện pháp dã man để tiêu diệt sức mạnh chiến đấu của người Việt Nam, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, chúng giữ độc quyền xuất cảng, nhập cảng, độc quyền in giấy bạc, chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí để có thể vơ vét tiền bạc, của cải. Tất cả dẫn đến thảm cảnh 2 triệu đồng bào ta chết đói. về bản chất, thực dân Pháp là những kẻ đê tiện, vô nhân đạo bởi vì chúng đã không “bảo hộ” được nước ta mà trái lại chỉ trong 5 năm (1940 – 1945), chúng đã hai lần dâng nước ta cho Nhật, tồi tệ hơn chúng đã không hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh hợp tác chống Nhật mà chúng còn quay lại khủng bố Việt Minh, giết hại tù chính trị và những người yêu nước của nhân dân ta.

Bằng nghệ thuật so sánh tương phản đầy sức thuyết phục, bản Tuyên ngôn nêu rõ lẽ phải và chính nghĩa hoàn toàn thuộc về dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh và đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật, tiếp tay, tiếp sức để bọn phát xít mở rộng chiến tranh thì dân tộc Việt Nam, đại diện là Việt Minh đã dũng cảm chiến đấu chống phát xít Nhật và cuối cùng giành được chủ quyền độc lập cho dân tộc. Nếu thực dân Pháp tỏ rõ bản chất dã man, vô nhân đạo thì dân tộc Việt Nam đã thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo ngay với kẻ thù đã bị thất thế “Sau cuộc biến động ngày 9-3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.

Từ tất cả những điều đó, bản Tuyên ngôn đi tới những sự thật lịch sử quan trọng. Trước hết, có thể thấy từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp; khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta đã giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Điều đó có ý nghĩa bác bỏ chủ quyền của Pháp với Việt Nam đồng thời cho thay dân tộc ta đã khẳng định chủ quyền độc lập không chỉ bằng cơ sở pháp lí vững chắc mà còn bằng hành động cụ thể trong Cách mạng tháng Tám. Một sự thật hiển nhiên nữa là bọn thực dân, phát xít, phong kiến đều hết thời, độc lập đã là một thực tế ở Việt Nam, dân tộc ta đã có một chính thể mới để bảo vệ nền độc lập của mình: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiểng xích gần 100 năm nay dễ gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ trong mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. (…)

Tuyên ngôn độc lập đã thực tỉnh, lay động, cỗ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, tinh thần đoàn kết của dân tộc tạo nên sức mạnh vô địch bảo vệ vững chắc nền độc lập dân dân tộc, quyền tự do của nhân dân.

Phân tích cơ sở pháp lý của văn bản tuyên ngôn độc lập

Độc lập, tự do, tự chủ là giá trị lớn nhất của một quốc gia, dân tộc. Ở đó, chúng ta –  những người dân đang sinh sống trên mảnh đất quê hương phải có tiếng nói riêng, bảo vệ độc lập, tự do đó. Lịch sử dựng nước, giữ nước của Việt Nam đã gây dựng nên 03 bản “Tuyên ngôn độc lập” sống mãi với thời đại: Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Trong đó, Tuyên ngôn độc lập được đánh giá là bản tuyên ngôn mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc. Cùng phân tích cơ sở pháp lý của bản “Tuyên ngôn độc lập” – Hồ Chí Minh qua bài viết dưới đây của THPT Ngô Thì Nhậm.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm, bố cục và cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn độc lập

Chủ tịch Hồ Chí Minh:

– Một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dân tộc, “danh nhân văn hóa lớn của nhân loại”.

– Người đã góp nhiều công sức trong hành trình giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập, tự do và tự chủ.

Tuyên ngôn độc lập:

– Tác phẩm vừa là một văn kiện lịch sử vừa là áng văn chương chính luận mẫu mực với hệ thống luận cứ, luận điểm rõ ràng, cách lập luận chặt chẽ, sắc bén.

– Bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh viết và đọc trên quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945, đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử nước nhà.

Về cơ sở pháp lý:

– Hồ Chí Minh dựa vào bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp về nhân quyền, dân quyền,…

-> Dùng lời của Pháp, Mĩ để khẳng định lại cho Pháp, Mỹ về dân quyền, nhân quyền của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Bài văn phân tích cơ sở pháp lý của văn bản Tuyên ngôn độc lập

Bàn về văn chính luận, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là chuẩn mực, đại diện điểm sáng trong lập luận, dẫn chứng và tận dụng các thủ pháp nghệ thuật. Ở phần mở đầu của Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã đưa ra cơ sở pháp lý vô cùng vững chắc, làm cho những luận điệu của thực dân Pháp, Mỹ và các nước đế quốc trên thế giới trở thành luận điệu vô nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để làm căn cứ, nền tảng của lời tuyên bố sau này.

Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề nhân quyền của con người, đó vốn dĩ là những nhu cầu vô cùng cần thiết và vốn có mà không ai có thể xâm phạm, tước bỏ.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Quyền tự do, bình đẳng là nhân quyền cũng là dân quyền, ngay từ khi mới ra đời, con người đã có sẵn những quyền lợi đó.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa tuyên ngôn của Pháp, Mỹ làm cơ sở pháp lý bởi đây là hai bản tuyên ngôn  là những áng văn chương vô cùng nổi tiếng, có giá trị pháp lý, lịch sử vô cùng vững chắc. Hơn nữa, cả Pháp và Mỹ thời bấy giờ là những quốc gia phát triển vượt bậc, hiện đại văn minh và đề cao con người; lấy Pháp, Mỹ là điểm soi chiếu thì sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập sẽ tăng thêm.

Đây còn là thủ pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc của tác giả, lấy “gậy ông đập lưng ông”. Người dùng những luận điệu, lời lẽ và lập luận của Pháp, Mỹ để nhấn mạnh và khẳng định lại với hai cường quốc này về những vấn đề tương tự đối với Việt Nam.

Không chỉ thể, việc đưa ra cơ sở pháp lý như vậy một mặt thể hiện sự tôn trọng đối với những tư tưởng tiến bộ trong tuyên ngôn của Pháp, Mỹ, mặt khác giành thế chủ động về cho dân tộc ta, khiến Pháp, Mỹ rơi vào tình thế bị động, không thể phản bác lại. Bởi lẽ, những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sắp bàn đến là dựa theo hai bản tuyên ngôn của họ. Pháp, Mỹ tiếp tục xâm lược Việt Nam chính là đang truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc, vấy bẩn lên lá cờ tự do bình đẳng bác ái mà cha ông họ đã từng giương cao.

Bằng các dẫn chứng về nhân quyền, Hồ Chí Minh mở rộng ra vấn đề về dân quyền: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Lời khẳng định vô cùng mạnh mẽ của tác giả về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo. Dù là nam hay nữ, người da trắng, da vàng hay da đen, người giàu hay người nghèo,…thì đều được hưởng các quyền lợi như nhau.

Đó gọi là công bằng, bình đẳng. Những quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do là quyền cơ bản nhất mà ai cũng có quyền được hưởng, không một ai hoặc bất cứ thế lực nào được quyền chà đạp. Người khẳng định: “Đó là lẽ phải, không ai chối cãi được”.

Bên cạnh cơ sở pháp lý được đưa ra, Hồ Chí Minh còn cho thấy tài năng của mình qua cách lập luận vô cùng sắc bén, lúc nhu, lúc cương vô cùng linh hoạt. Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là chuẩn mực của văn học chính luận, tuy mang tính chính trị cao nhưng không hề nhàm chán, mực thước; ngược lại còn khiến nhiều người không khỏi kinh ngạc, trầm trồ khen ngợi trước áng văn chương bất hủ này.

Đã hơn 75 năm kể từ ngày cả đất nước hướng về quảng trường Ba Đình cờ hoa rực lửa, nghe Hồ , Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Giây phút thiêng liêng, hào hùng ấy không khỏi làm cho nhiều người xúc động mà rơi lệ. Dường như cho đến giờ đây, mỗi lần đọc bản Tuyên ngôn độc lập, ta lại nghe được giọng nói trầm ấm, thân mật, chân thành xen lẫn niềm tự hào vô bờ.

Phân tích cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ giúp ta hiểu hơn về tài năng, con người của vị lãnh đạo xuất chúng Hồ Chí Minh mà còn khơi dậy lòng tự hào dân tộc bao đời nay vẫn thế.

Trên đây là gợi ý cách phân tích Cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn của văn bản Tuyên ngôn độc lập. Các em học sinh có thể truy cập website THPT Ngô Thì Nhậm để tìm đọc những bài viết hữu ích, phục vụ cho quá trình thi cử và học tập.

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button