Văn mẫu 11

Bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của Tố Hữu

Văn mẫu 11 bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của Tố Hữu, bài văn mẫu bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của nhà thơ Tố Hữu..

Bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của Tố Hữu để thấy được nỗi nhớ đồng, tình yêu quê hương đất nước cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ tù đầy. Tât cả được thể hiện như thế nào qua những câu thơ đầu tiên của bài thơ. Cùng THPT Ngô Thì Nhậm đi sâu hơn vào từng câu thơ nhé.

Gợi ý thêm

cho các em bài văn
phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu
để các em nắm được bố cục cả bài thơ, hiểu được hết nỗi nhớ nhà của người chiến sĩ qua đó có thể phân tích một cách chọn vẹn, sâu sắc cho từng câu thơ.

Đề bài: Em hãy bình giảng đoạn  thơ trong bài Nhớ đồng của Tố Hữu

————

Bài văn được đánh giá cao bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của Tố Hữu

“Từ ấy” là tiếng reo vui của một tâm hồn trẻ bắt gặp được lí tưởng cộng sản. Với trái tim rạo rực trào sôi, với một khát vọng sống và cống hiến, người thanh niên Nguyễn Kim Thành đã hăng hái hoạt động, làm mọi việc cho lí tưởng cộng sản. Nhưng rồi ông bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (1939). Hồn thơ Tố Hữu đã trở nên sâu lắng trong một nỗi nhớ da diết cuộc sống và con người. Những ngày bị giam cầm đau khổ ông đã viết những bài thơ thể hiện tâm trạng, tình cảm của mình. “Nhớ đồng” là một bài thơ mà mỗi câu thơ như muốn khắc hoạ nỗi nhớ cảnh, nhớ người, đồng quê. Đoạn thơ sau đã ghi lại chân thực tâm trạng đó của nhà thơ:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi”

Câu thơ mở đầu đã dựng lên thời gian của nỗi nhớ. Một buổi trưa hè trong song sắt của nhà lao. Người tù đang trong một tâm trạng buồn, tiếng hò vọng lại càng làm cho nỗi nhớ trở nên da diết hơn. Đặt trong hoàn cảnh của nhà thơ, câu thơ trở nên xúc động lòng người. Khi mới bắt gặp ánh sáng của lí tưởng, Tố Hữu đã say mê, đã rạo rực:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Tâm hồn ấy khi xưa sôi nổi háo hức bao nhiêu thì nay buồn thương da diết bấy nhiêu. Người thanh niên đang say mê hoạt động cùng đồng chí, bạn bè, nay bị tách biệt với tất cả thì sao tránh khỏi buồn đau! Những buổi trưa dài trong xà lim, tiếng hò quê hương vọng lại như đánh thức một nỗi niềm. Cuộc đời nhà thơ vốn gắn bó với những câu ca, những giọng hò trong trẻo của xứ Huế mộng và mơ. Nay xa quê còn gì để nhớ đầu tiên nếu như không phải là giọng hò quê mẹ?

Nhà thơ đã nghe thấy âm thanh của giọng hò quen thuộc, nhưng không chỉ nghe bằng thính giác mà nghe bằng cả con tim đang rạo rực một nỗi niềm. Tiếng hò không còn trong trẻo như thường nữa, tiếng hò trở nên hiu quạnh. Dường như, Tố Hữu đã nghe thấy cả âm thanh và cả nỗi niềm của con người sau giọng hò. Phải chăng đó là nỗi buồn của một quê hương trong vòng nô lệ? Phải yêu quê lắm, yêu Huế lắm, gắn bó tha thiết từ tấm bé mới có thể nghe thấy cả hơi thở, cả nỗi niềm của giọng hò trong trưa vắng bên song sắt của nhà giam.

Giọng hò đã đánh thức những tình cảm vồn từ lâu ấp ủ trong một con tim khao khát sống giữa cộng đồng. Giọng hò gắn với đồng quê, với cuộc sống tự do bên ngoài song sắt đã đánh thức nỗi niềm quê hương trong lòng tác giả:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Hàng loạt những điệp từ “đâu” đặt ở mỗi câu thơ tạo nên dạng thức hỏi. Những câu hỏi dồn dập, liên tiếp như những nỗi niềm nhớ thương đang cuồn cuộn trào dâng không thể kìm nén được. Bốn câu thơ gợi lên một khung cảnh rộng về đồng quê có “cồn thơm”, có những ruộng tre mát xanh rợp bóng, có những ô mạ xanh non tràn đầy sức sống, có những nương khoai, nương sắn. Cảnh làng quê hiện lên thật gần gũi và thân thương. Dường như nhà thơ hỏi để mà sống lại với ruộng đồng. Nỗi niềm quê hương đã ăn sâu trong tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi ấy. Những câu thơ như khắc khoải một nỗi nhớ chồng chất. Cảnh vật hiện về trong tâm trí càng làm cho những khát khao ấy trở nên sôi sục hơn. Dường như nhà thơ đang sống với quê hương, đồng ruộng mình.

Câu thơ đầu gây một ấn tượng thật lạ. Sao đọc đến đấy vẫn thấy như thoang thoảng đâu đây có mùi đất của quê mình, thấm thía nỗi nhớ quê của một người đi xa. Còn nhà thơ, dù ông đang sống giữa quê mình nhưng lại bị song cửa nhà tù ngăn cách. Nỗi nhớ niềm thương như trào dâng lên đầu ngọn bút. Đó không chỉ là đồng ruộng thân yêu nơi xứ Huế, đó còn là khung cảnh của mọi miền quê trên đất nước Việt Nam. Nó gợi lên cho ta bao nhiêu xúc động, bao nhiêu yêu thương về những miền đất thanh bình, nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Phải chăng đó là tấm lòng của một người con “của vạn nhà” và của “vạn quê hương”?
Mỗi cảnh được gợi lên đều gắn liền với những đặc tính vô cùng quen thuộc: mùi thơm của đất, màu xanh mơn mởn của mạ non, cái yên vui mỗi rặng tre làng, cái ngọt bùi của khoai, của sắn… Thân thương thế, gần gũi thế, khi xa sao lại không nhớ, không thương cho được? Song, nhớ thương ngập lòng mà hiện tại quá cô đơn, tâm hồn nào cũng thấy buồn, thấy nhớ.

Những câu thơ trên gợi cảm giác về sự yên bình, một cuộc sống vui vẻ, thì những câu sau hồn thơ chuyển sang một cung bậc khác, giọng điệu trở nên trầm lắng hơn:

“Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi”

Cảm giác buồn thương da diết lan toả trong sự hồi tưởng về những con đường nhỏ bé, quạnh hiu, muôn đời vẫn thế, cái không khí hiu hắt của làng quê nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, những xóm làng tranh im hơi, hiu hắt. Cuộc đời dường như chìm đắm trong tối tăm nô lệ. Cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng là thế, không một sinh khí, một sức sống, tất cả đều trôi đi trong cái lặng im đáng sợ. Có một cái gì như nổi trôi không xác định như thân phận của con người trong cuộc đời nô lệ. Cuộc sống không đổi thay, cứ lặng lẽ trôi. Một cảm giác buồn thương tê tái tràn ngập trong lòng nhà thơ và trong lòng độc giả. Cho đến hôm nay, cái không khí nông thôn Việt Nam của một quá vãng xa xăm vẫn chưa thể xoá nhoà đi được. Câu thơ của Tố Hữu chìm đi trong cảm giác buồn thương tê tái!
Mỗi con người có một vùng quê, Tố Hữu cũng có một vùng quê – xứ quê – vốn đẹp mộng mơ nhưng cũng bị chìm đắm trong đêm đen nô lệ như bao vùng quê khác. Trước cảnh ấy, con người đang sống và hoạt động để giải phóng quê hương không khỏi cảm giác buồn. Nỗi buồn như lan toả trong một không gian nhà lao quạnh vắng, một thời gian của buổi trưa hè gợi nhớ, gợi thương.

Đoạn thơ đã sử dụng những từ ngữ đầy ám ảnh: “vạn đời”, “ngủ im hơi”, “âm u”, “trôi cứ trôi” gợi cảm giác buồn thương tê tái trong lòng.

Vậy là tất cả đã xa, giờ chỉ còn trong hoài niệm, trong nỗi nhớ tràn ngập cõi lòng. Ta cảm thông và trân trọng biết bao nỗi buồn ấy, nỗi nhớ ấy! Đoạn thơ đã đánh thức trong ta những nỗi niềm sâu thẳm.

Những câu thơ tưởng chừng không có gì là nghệ thuật ấy đã lay động tâm hồn người đọc. Nếu như ta trân trọng, nâng niu bài thơ “Nhớ đồng” thì trước hết là trân trọng một tấm lòng rất chân thật của người con đối với quê hương mình. Những giọng hò xứ Huế như còn vương vấn đâu đây!

Bài văn mẫu hay bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của tác giả Tố Hữu

Nỗi nhớ đồng, tình yêu thương quê hương cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ trong những năm tháng tù đày. Những đường nét, màu sắc, âm thanh được nhà thơ sử dụng đã làm hiện lên thấp thoáng bóng hình quê hương với bao nỗi nhớ, tình thương, nỗi buồn day dứt, triền miên khôn nguôi.

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…”

Phần “Xiềng xích” trong tập thơ “Từ ấy” gồm 29 bài thơ. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1939, Tố Hữu đã viết một chùm thơ 9 bài. “Nhớ đồng” là bài số 7 được viết vào tháng 7 năm 1939. Nhan đề hài thơ là “’Nhớ đồng” và đó cũng là cảm xúc chủ đạo của Tố Hữu trong chốn ngục tù. Bài thơ gồm có 44 câu thơ nói lên 4 nỗi nhớ. 10 câu đầu là nỗi nhớ đồng quê. 10 câu tiếp theo nói lên nỗi nhớ những người dân cày lam lũ. 10 câu nối tiếp diễn tả lòng thương nhớ mợ già và “những hồn thân tự thuở xưa”. 14 câu còn lại là tâm trạng “tôi nhớ tôi”, và thể hiện lòng khao khát tự do.

Bài thơ có cấu trúc “phức điệu”, đoạn 1 và 3 xuất hiện điệp khúc:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quanh bên trong một tiếng hò!”.

Điệp khúc ấy được biến tấu thành:

“Gì sâu bằng những trưa hiu quanh,

Ôi ruộng đồng hương nhớ ơi!”.

đặt vào đầu đoạn 2 và cuối đoạn 4.

Câu trúc “phức điệu” ấy rất độc đáo nhằm tạo nên những vòng xoáy đầy da diết về nỗi nhớ đồng trong lòng người chiến sĩ trẻ đang bị đầy đọa trong chốn ngục tù. Đây là đoạn một bài thơ “Nhớ đồng”

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

…………………………..

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi”.

Từ ngày bị mật thám bắt, bị tù đày giữa “lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ”, nỗi nhớ đồng cứ diễn ra triền miên, nhất là những buổi trưa trong nhà tù. Nỗi nhớ ấy day dứt và thiết tha vô cùng, không thể nào nguôi. Tự đáy lòng thốt lên so sánh: “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ”. Thế giới nhà tù, trong và ngoài song sắt đều “hiu quạnh”, rất vắng vẻ và buồn. “Hiu quạnh” đâu chỉ là ngoại cảnh nhà tù mà còn là tâm cảnh của “thân tù”. Trong khoảnh khắc “hiu quạnh ấy nhớ buổi trưa, nhà thơ nhớ “một tiếng hò” nơi làng quê, thổn thức cả nỗi lòng:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”

Nhớ một tiếng hò”, nhớ một khúc dân ca, nhớ một giọng hò “Mái nhì”, “Mái đẩy”, một giọng hò “đĩa gạo” của quê hương mà nhà thơ từng ôm ấp trong lòng:

“Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước,

Một giọng hò đưa hố não nùng”.

(đoạn 2)

“Một tiếng hò” là hồn quê. Nhớ “một giọng hò” là nhớ đồng, là nhớ quê hương , “nghĩa nặng tình sâu” đã bao ngày li biệt. Bốn câu thơ tiếp theo, chữ “đâu” được điệp lại, các câu hỏi tu lừ liên tiếp xuất hiện, nỗi “nhớ đồng” day dứt khôn nguôi:

”Đâu nhớ cồn thơm đất nhả mùi,

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Vần thơ làm hiện lên một không gian nghệ thuật bức tranh đồng quê: diễn tả một tâm trạng nghệ thuật ấy là nỗi nhớ đồng da diết. Nhớ hương vị quê hương, nhớ cồn thơm đất nhả mùi”, nhớ luống cày, nhớ hương lúa. Nhở lũy tre, ruồng tre xanh trùm bóng mát rượi “thở yên vui”. Chữ  thở trong câu thơ “đâu ruồng tre mát thở yên vui” được sử dụng tài tình, gợi tả âm thanh rì rào, lao xao của lá tre, khúc nhạc yên vui, êm đềm của làng quê ta bao đời nay. Một sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Nhớ đồng là nhớ “từng ô mạ xanh mơn mởn” – tươi đẹp và xanh non. Nhớ đồng là nhớ vị “bùi” của sắn, vị “ngọt” của khoai. Các tính từ – bổ ngữ: “thơm”, “mát”, “yên vui”, “xanh mơm mởm” “ngột”, “bùi”… đã tô đậm vẻ đẹp của đồng quê. Bức tranh quê trong hoài niệm hiện lên thân thuộc, bình dị, xinh đẹp và đáng yêu biết bao! Bị tù đày mà xa cách quê hương. Cảnh sắc quê hương giờ đây chỉ hiện lên trong hoài niệm, trong nỗi nhớ vơi đầy. Chữ ”đâu” bốn lần xuất hiện diễn tả một cách xúc động, đầy ám ảnh nỗi nhớ đồng gắn liền với nỗi đau buồn cô đơn của nhà thơ đang bị đày đọa trong chốn ngục tù.

Hơn một nghìn ngày bị tù đày (1939 – 1942), Tố Hữu có biết bao nỗi nhớ day dứt và triền miên trong lòng. Chợt nghe một tiếng chim tu tú gọi bầy mà nhớ “Vườn râm dậy tiếng ve ngân – Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào” (Khi con tu hú). Một màu xanh của đồng lúa, một tiếng hát “bơ vơ” một ánh nắng chiều bên nương gợi lên bao nỗi nhớ quê, nhớ nhà vô cùng da diết:

“Đồng xanh gợn nhơ quê hương

Bơ vơ tiếng hát bên nương nắng chiều”.

( tiếng hát đi cày).

“Nhớ đồng” là nhớ mãi nhớ hoài “Những hồn chất phác hiền như đất – Khoai sắn tình quê rất thiệt thà. “Nhớ đồng” là nhớ mẹ già thương yêu:

“Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Tiếng thơ cất lên nghe thật bồn chồn, tha thiết. Nhớ đồng, nhớ quê, nhớ mẹ già… là những nét rất đẹp trong hồn thơ Tố Hữu.

Đoạn thơ tiếp theo nói lên nỗi nhớ những cảnh đời lầm than, là đọng sau luỹ tre xanh:

“Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…”.

Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật về nỗi “nhớ đồng” được mở rộng và khơi sầu thêm “những trưa thương nhớ…”, “những trưa hiu quạnh…” Tiếng thơ cất lên tự hỏi: “Đâu những đường con bước vạn đời?”. Xa cách đã bao ngày hình bóng quê hương. Còn đâu nữa, ở đâu rồi những con đường quê gập ghềnh xuôi ngược của bao kiếp người lam lũ, của mẹ ta, chị ta “Đòn gánh tre chín dạn hai vai” (Nguyễn Du),..? Còn đâu nữa, ở đâu rồi hình ảnh bình dị, thân thuộc đáng yêu: “Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi”. Một câu thơ có hình ảnh sáng tạo, gợi cảm. Sáng tạo và gợi cảm ở nghệ thuật dùng từ “thấp”, ở hình ảnh nhân hóa “…ngủ im hơi”. Đó là hình ảnh làng quê Việt Nam tăm tối, nghèo nàn, liêu điều, xác xơ… dưới thời Pháp thuộc. Ở đâu cũng thế, khắp Bắc, Trung, Nam, đều thế: “Năm gian nhà cỏ thấp le te…”, “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ… (Nguyễn Khuyến).

Với Tố Hữu thì nỗi nhớ luôn luôn gắn liền với tình thương, thương quê hương đất nước, thương đồng chí đồng bào, thương nhân dân lao động nghèo khổ đang rên xiết dưới ách thống trị của ngoại bang, đang bị ”Đọa đày trong những hố thẳm không cùng (Tâm tư trong tù). Cuộc sống của nhân dân ta thuở ấy cứ lặng lẽ, âm thầm trôi đi trong những tháng ngày đen tối “âm u”. Đó là cái “Ao đời” tù đọng như thi sĩ Xuân Diệu đã nói tới trong “Tỏa nhị Kiều”. Cuộc đời “không đổi”, thân phận ”không đổi”, nhưng mà “trôi cứ trôi”. Ba chữ “trôi cứ trôi” thấm thía bao nỗi buồn. Câu thơ không chỉ nói lên một nỗi buồn “nhớ đồng” thấm thía và còn mang ý nghĩa lay gọi, thức tỉnh về nô lệ và tự do:

“Giữa dòng ngày tháng âm u đó,

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi”.

Điệp ngữ “trôi cứ trôi” liên kết với hình ảnh ẩn dụ “dòng ngày tháng âm u tạo nên tính hệ thống ngôn ngữ văn chương giàu sắc thái biểu cảm nói về cái vô nghĩa, cái đáng chán của những thân phận, những kiếp người bị tước đoạt mất tự do!

Tố Hữu đã có lần thổ lộ: “Thơ là một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu”, cho nên “Thơ là chuyện tri âm tri kỉ” ở đời. Đọc thơ Tố Hữu, đặc biệt đọc những bài như “Tâm tư trong tù”, “Nhớ đồng”, “Tiếng hát đi đày”,… chúng ta tìm thấy và hòa nhập với “điệu hồn” thi sĩ.

Đoạn thơ trên đây hội tụ bao nét đẹp của hồn thơ Tố Hữu. Nỗi nhớ đồng, tình yêu thương quê hương cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ trong những năm tháng tù đày. Những đường nét, màu sắc, âm thanh được nhà thơ sử dụng đã làm hiện lên thấp thoáng bóng hình quê hương với bao nỗi nhớ, tình thương, nỗi buồn day dứt, triền miên khôn nguôi. Giọng thơ bồi hồi xao xuyến, thấm thía một nỗi buồn thương. Chất trữ tình và cảm xúc về cái đẹp, về nỗi buồn thương nhớ đồng quê đã tạo nên một cảm hứng đồng hành với tư tưởng cách mạng. Đó là khao khát tự do:

“…Tôi mơ qua cửa khám bao ngày

Tôi thu tất cả trong thầm lặng

Như cánh chim buồn nhớ gió mây”.

(Nhớ đồng)

——–

Trên đây là một số bài văn mẫu 11 bình giảng đoạn thơ trong bài Nhớ đồng của nhà thơ Tố Hữu. Hy vọng với những chia sẻ này sẽ giúp các em có cái nhìn sâu sắc hơn về tình yêu quê hương đất nước qua đó viết cho mình được những bài văn hay. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 11

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button