Văn mẫu 11

Phân tích tiếng khóc của ông Phán mọc sừng trong Hạnh phúc của một tang gia

[Văn mẫu 11] Phân tích tiếng khóc của ông Phán mọc sừng trong Hạnh phúc của một tang gia trích Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Phân tích tiếng khóc của ông Phán mọc sừng trong Hạnh phúc của một tang gia để thấy được sự châm biếm sâu cay cái bi hài trong một gia đình đại quý tộc danh giá.

Dàn ý phân tích tiếng khóc của ông Phán mọc sừng trong Hạnh phúc của một tang gia

1. Mở bài

Giới thiệu tác phẩm: “Hạnh phúc của một tang gia” được coi là trích đoạn đặc sắc nhất thể hiện được tiếng cười trào phúng và nhiều tư tưởng nhân sinh sâu sắc trong Số đỏ. Một chi tiết nhỏ nhưng lại mang đến những ấn tượng vô cùng độc đáo trong đoạn trích này, đó chính là tiếng khóc của Phán Mọc Sừng “hứt, hứt, hứt”.

2. Thân bài

– Phán Mọc Sừng xuất thân là một trí thức, làm rể trong gia đình đại tư sản của cụ cố Tổ nhưng cuộc sống hôn nhân của Phán Mọc Sừng với vợ lại không hề hạnh phúc.

-> Vợ ngoại tình

– Phán Mọc Sừng biết toàn bộ sự thật về người vợ không đoan chính nhưng lại không lấy làm xấu hổ mà nhu nhược, vô liêm xỉ đến mức tự mang danh dự của mình ra để kiếm trác trong gia đình nhà vợ.

– Phán Mọc Sừng đã dùng năm đồng để mua chuộc Xuân Tóc Đỏ để trước mặt toàn bộ mọi người trong gia đình, Xuân sẽ chỉ tay vào mặt hắn và nói “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng”.

– Để hoàn thành “giao dịch” với Xuân Tóc Đỏ, Phán Mọc Sừng đã phải tự xây dựng một kịch bản, trong đó hắn vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên chính.

-> Tiếng khóc “hứt hứt hứt” cũng là một phần trong kịch bản ấy.

– Phán mọc sừng khóc là để hoàn thành nốt những thỏa thuận với Xuân Tóc đỏ trước đó.

– Nhận được món hời lớn từ gia đình cụ cố Hồng để bưng bít sự thật về việc ngoại tình, Phán Mọc Sừng sung sướng, hạnh phúc vì nhận được :thêm vài ba nghìn bạc”.

– Hắn cũng vô cùng sốt sắng muốn trả nốt năm đồng để giữ chữ tín cho bản thân. Khi hạ huyệt là cơ hội tốt nhất để Phán Mọc Sừng hoàn thành giao dịch.

3. Kết bài

Tiếng khóc của Phán Mọc Sừng cũng nằm trong chuỗi tiếng cười trong tác phẩm. Qua tiếng khóc này người đọc đã phần nào thấy được thực trạng xã hội mà Vũ Trọng Phụng lên án, thể hiện sâu cay cái bi hài trong một gia đình đại quý tộc danh giá.

>> Xem thêm: Sơ đồ tư duy Hạnh phúc của một tang gia

Bài văn mẫu phân tích tiếng khóc của Phán mọc sừng

Bài văn mẫu 1

Tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm “vô tiền khoáng hậu” có thể làm vinh dự cho bất cứ nền văn học nào có nó. Xuyên suốt 20 chương truyện, trong đó Hạnh phúc của một tang gia được coi là trích đoạn đặc sắc nhất thể hiện được tiếng cười trào phúng và nhiều tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Một chi tiết nhỏ nhưng lại mang đến những ấn tượng vô cùng độc đáo trong đoạn trích này, đó chính là tiếng khóc của Phán Mọc Sừng “hức, hức, hức”.

Phán Mọc Sừng xuất thân là một trí thức, làm rể trong gia đình đại tư sản của cụ cố Tổ nhưng cuộc sống hôn nhân của Phán Mọc Sừng với vợ lại không hề hạnh phúc. Ngay cái tên gọi Phán Mọc Sừng cũng được bắt đầu từ việc vợ ông Phán có tư tình bên ngoài. Điều đáng nói là Phán Mọc Sừng biết toàn bộ sự thật về người vợ không đoan chính nhưng lại không lấy làm xấu hổ mà nhu nhược, vô liêm xỉ đến mức tự mang danh dự của mình ra để kiếm trác trong gia đình nhà vợ.

Phán Mọc Sừng đã dùng năm đồng để mua chuộc Xuân Tóc Đỏ để trước mặt toàn bộ mọi người trong gia đình, Xuân sẽ chỉ tay vào mặt hắn và nói “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng”. Và đây cũng chính là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của cụ cố Tổ. Là người trọng danh dự của gia đình, khi nghe lời nói của Xuân Tóc Đỏ cụ cố Tổ đã tăng xông mà chết.

Trong đám ma của cụ cố Tổ, để hoàn thành “giao dịch” với Xuân Tóc Đỏ, Phán Mọc Sừng đã phải tự xây dựng một kịch bản, trong đó hắn vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên chính. Tiếng khóc “hứt hứt hứt” cũng là một phần trong kịch bản ấy.

Trước khi hạ huyệt, Phán Mọc Sừng vẫn chưa thể trả năm đồng bạc cho Xuân Tóc Đỏ, trước khi tiếng khóc xuất hiện, ta thấy trong tác phẩm có hai chi tiết Xuân Tóc Đỏ xuất hiện bên Phán Mọc Sừng “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông Phán mọc sừng” và “lúc cụ cố Hồng mếu máo và ngất đi”. Cả hai chi tiết đều là cơ sở để tiếng khóc có một không hai của Phán Mọc Sừng xuất hiện.

Trong đám ma của cụ cố Tổ chỉ xuất hiện hai tiếng khóc, đó là tiếng khóc của cố Hồng “mếu máo và ngấy đi” và “hứt hứt hứt” của Phán Mọc Sừng. Tuy nhiên cả tiếng khóc đều không xuất phát từ sự thương cảm, xót xa với người đã mất mà chỉ là sự giả tạo đến vô tình. Nếu như cụ cố Hồng khóc để cho thiên hạ biết mình là người con có hiếu thì Phán mọc sừng khóc là để hoàn thành nốt những thỏa thuận với Xuân Tóc đỏ trước đó.

Nhận được món hời lớn từ gia đình cụ cố Hồng để bưng bít sự thật về việc ngoại tình, Phán Mọc Sừng sung sướng, hạnh phúc vì nhận được :thêm vài ba nghìn bạc”, do đó hắn cũng vô cùng sốt sắng muốn trả nốt năm đồng để giữ chữ tín cho bản thân. Khi hạ huyệt là cơ hội tốt nhất để Phán Mọc Sừng hoàn thành giao dịch, cũng là đoạn cao trào nhất của vở kịch mà Phán Mọc Sừng  dựng lên. Hắn khóc “hứt hứt hứt”, khóc to đến lả người đi, nhân cơ hội này hắn ngả vào người Xuân và chính lúc ấy hắn đã dúi thành công năm đồng vào tay của Xuân Tóc Đỏ.

Tiếng khóc của Phán Mọc Sừng cũng nằm trong chuỗi tiếng cười trong tác phẩm. Qua tiếng khóc này người đọc đã phần nào thấy được thực trạng xã hội mà Vũ Trọng Phụng lên án, thể hiện sâu cay cái bi hài trong một gia đình đại quý tộc danh giá.

>> Tuyển tập những bài Phân tích giá trị hiện thực và giá trị tố cáo của Hạnh phúc của một tang gia hay nhất

Bài văn mẫu 2

Đọc đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, nếu chú ý kỹ, chúng ta sẽ thấy trong tiếng khóc của phán mọc sừng có sự tăng cấp, ông ta chỉ khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”, sau đó “muốn lặng đi, thì may có Xuân đỡ khỏi ngã”, lúc này anh phán mới “khóc mãi không thôi”. Không cần nói nhiều, ta cũng biết đó là một màn kịch, bởi lẽ “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Nhưng, điều quan tâm ở đây là tại sao phán mọc sừng lại khóc? Tại sao tiếng khóc ấy lại “Hứt! Hứt! Hứt!”? Và đặt trong chỉnh thể tác phẩm thì tiếng khóc ấy có giá trị gì?

Cái chết của cụ cố tổ là kết quả trực tiếp câu nói ngớ ngẩn của Xuân tóc đỏ “thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng”. Sở dĩ có câu nói đó của Xuân, là vì trước đó phán mọc sừng đã mở lời nhờ Xuân nói cho điều đó, với cái giá năm đồng bạc. Cho đến khi hạ huyệt, năm đồng bạc đó phán mọc sừng vẫn chưa trả cho Xuân tóc đỏ. Trước khi phán mọc sừng cất tiếng khóc, ta thấy trong tác phẩm xuất hiện hai chi tiết: “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông Phán mọc sừng” và “lúc cụ cố Hồng mếu máo và ngất đi”. Chi tiết thứ nhất đứng tách riêng một câu, chi tiết thứ hai là thành phần trạng ngữ chỉ thời gian. Hai chi tiết này trở thành cơ sở cho tiếng khóc của phán mọc sừng. Cái chết của cụ tổ, đã bộc lộ bản chất đểu giả của đám con cháu, trước đó tác phẩm đã đề cập.

Đến đây, cụ Hồng đã đóng giả rất khéo léo. Chi tiết này có liên quan chặt chẽ đến phán mọc sừng. Cụ thể hiện nỗi đau xót, tiếc thương vô hạn đối với người quá cố, thì phán mọc sừng cũng phải thế. Cụ đã “mếu máo và ngất đi” thì ông này cũng phải khóc to lên mà bày tỏ nỗi lòng. Đây chính là nét độc đáo  của ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Ông đã khéo léo sắp đặt tình tiết một cách logic chặt chẽ, khiến cho sợi dây liên tưởng như phán mọc sừng khóc chỉ là muốn cùng cụ Hồng thể hiện nỗi đau một cách thảm thiết nhất. Điều này có nghĩa là chi tiết “cụ Hồng mếu máo và ngất đi” trở thành nguyên nhân trực tiếp làm cho phán mọc sừng khóc. Nói rõ hơn, Vũ Trọng Phụng đã để cho cụ Hồng làm trò, có tính chất “nêu gương” để từ đó phán mọc sừng làm trò theo. Thế nhưng, xem kỹ lại, ta thấy, phán mọc sừng  không phải chỉ vì cụ Hồng khóc mà vì nguyên nhân khác sâu xa hơn, đó chính là món nợ năm đồng của Xuân. Do đó chi tiết Xuân “đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ” hết sức quan trọng. Khi sự việc đã thành công rồi, cụ tổ đã chết, phán mọc sừng rất sung sướng vì được “thêm vài ba nghìn bạc”.

Phán mọc sừng rất biết ơn Xuân, do đó ông này rất nôn nóng muốn “gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng” và “theo ông trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu” (3). (NMH nhấn mạnh). Lúc này cơ hội trả món nợ đã đến. Trong hoàn cảnh này (cảnh hạ huyệt), tức là người ta thể hiện nỗi đau mất mát lớn nhất, phán mọc sừng không còn sự lựa chọn nào khác, ngoài việc “khóc lên”, để được Xuân chú ý, được Xuân an ủi, từ đó mảy may cơ hội tiếp cận với Xuân sẽ đến với phán mọc sừng. Do đó, cố nhiên, ông ta phải khóc làm sao cho thật “xúc động”, là sao cho thật sự đau khổ. Cho nên, ban đầu ông ta phải khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”. Kết quả đã thành công. Xuân đỡ lấy ông, ông đã trả được món nợ một cách kịp thời, giải toả được điều mình áy náy. Rõ ràng ở đây phán mọc sừng đã rất chủ động. Ông đã đánh vào tâm lí của Xuân, đã gồng mình lên để thể hiện, thế nhưng về mặt biểu hiện, ta lại tưởng phán mọc sừng bị động, ta tưởng như phán mọc sừng không hề hay biết việc Xuân đỡ lấy mình. Việc cắt nghĩa nguyên nhân của tiếng khóc như thế, còn lí giải tại sao chi tiết thứ nhất lại làm thành một câu, còn chi tiết thứ hai chỉ là một bộ phận câu.

Xét về mặt cấu âm, tiếng khóc của phán mọc sừng chỉ có thể là “Hứt! Hứt! Hứt!” mà thôi. Âm thanh này được cấu thành bởi luồng hơi đi ra, miệng hơi hé mở, bụng phải thóp lại, âm thanh bật ra từ trong cổ họng, đó là thứ âm thanh bị tắc (do kết thúc bằng phụ âm t – tắc vô thanh). Tiếng khóc này không thể to được. Vì thế phán mọc sừng khóc to (cốt là để Xuân chú ý), nhưng tiếng khóc ấy không thể kéo dài được, nó là âm thanh bị khiên cưỡng, gượng ép. Do đó, vì “khóc to quá” nên phán mọc sừng “muốn lặng đi”. Lúc đó, bắt buộc (về mặt nghệ thuật) Xuân phải đỡ lấy ông. Khi Xuân đỡ lấy ông, thì Xuân “không làm sao cho ông đứng hẳn lên được”, ông phải cứ “oặt người đi” như thế mới “Hứt! Hứt! Hứt!… mãi mà không thôi” được. Tất nhiên là cái “oặt người đi” này của phán mọc sừng thể hiện nỗi đau khổ giả tạo tài tình, và có “oặt người” như thế mới dúi vào tay Xuân một cái giấy bạc gấp tư mà không ai hay biết được.

Chúng ta hãy hình dung màn kịch rất độc đáo này, khi mà Xuân cố giữ lấy phán thì phán càng “oặt người đi”. Dù trong tác phẩm không nói, nhưng ta cũng biết cụ Hồng, Xuân tóc đỏ và phán mọc sừng phải đứng bên miệng huyệt, vì đó là giây phút cuối cùng vĩnh biệt người chết, con cháu không thể đứng nơi khác được, càng không thể “ngất đi” hay “oặt người” ở một nơi khác được, nó sẽ trở nên lố bịch. Cái “oặt người” này vẽ ra trước mắt ta cảnh tượng, một con người rất đau đớn như muốn níu giữ lấy quan tài, muốn nhào xuống huyệt, còn một người thì cố giữ cho được. Một sự giằng co, níu giữ. Do đó, tiếng nấc của phán mọc sừng càng nghẹn ngào thì lực neo của Xuân càng tăng, vì thế Xuân “muốn bỏ quách tay ra” (thể hiện bản chất Xuân). Khi lên đến đỉnh điểm, phán mọc sừng vội hạ ngay xuống bằng một tờ giấy bạc, và hai nhân vật kết thúc việc làm trò. Như vậy nhân vật càng cố tạo thảm cảnh bao nhiêu thì tiếng cười càng sâu sắc, chua chát bấy nhiêu.

Tiếng khóc của phán mọc sừng là chi tiết nằm trong chuỗi cười của tác phẩm và tất nhiên, đi tìm tư tưởng của tác giả phải đi tìm từ sau chuỗi cười ấy, chứ không phải sau một biểu hiện của tiếng cười. Tiếng cười ấy ở đây phải đặt trong chỉnh thể của tác phẩm. Trước đó, nhà văn viết “Đám cứ đi…”, tức là các nhân vật sẽ không được diễn trò nữa, chỉ có thể tiếng khóc cuối cùng mới làm được mà thôi. Do đó, không thể nói “Hứt! Hứt! Hứt!” là “Hất, hất, hất… xuống đất, hất mau xuống; lấp, lấp, lấp mau đi, chôn cái thây ma mà cả nhà mong mỏi” như Vũ Dương Quỹ nói được(4).

Việc quan tâm của phán mọc sừng không phải là chôn mau hay không chôn mau vì sự đã rồi, nó sung sướng lắm rồi, mà cái quan tâm của nó là làm sao trả được Xuân năm đồng bạc mới đành lòng và làm sao để thể hiện được nỗi đau mất mát giả tạo nhất. Và càng không thể nói “Nhân vật nói, hay chính ý tưởng, thông điệp của nhà văn… hất, hất, hãy hất tất cả tất cả bọn xuống mồ! Lấp, lấp, hãy lấp tất cả những gì là giả dối, rợm hợm, vô luân thường đạo lí(4)”. Nói thế, vô hình trung đã “lấy tư tưởng để cắt nghĩa tư tưởng” (C. Mác) và xem nhân vật là cái loa phát ngôn tư tưởng của nhà văn. Thiết nghĩ nhà văn sẽ không vụng về đến mức phải gửi gắm thông điệp qua một sự biến âm (hất thành hứt). Nếu nói “hất” dù tồn tại trong tư tưởng, ý nghĩ thì thường thể hiện kèm theo hành động (thường bằng tay), và nó không thể tạo thành tiếng khóc nghẹn ngào, do đó không thể làm nên sự giả tạo tuyệt vời của nó được.

Nói về ứng xử nghệ thuật, thì nhà văn không thể cứ quanh quẩn mãi việc lật nhào cái xã hội ấy bằng cách như thế. Nếu tư tưởng của nhà văn muốn nói “lấp đi” cái xã hội còn đâu một xã hội thì tiếp tục diễn trò ở phần còn lại của tác phẩm (5 chương). Điều này có nghĩa là nhà văn không thể lật nhào xã hội, rồi dựng nó lên để đánh tiếp những đòn khác. Làm  như vậy mạch phát triển của truyện sẽ bị trùng lại, không được phát triển theo chiều tăng cấp. Theo chúng tôi, đám tang này (là “hạnh phúc” của nhiều người) chỉ là chôn đi cái thây ma bằng xương bằng thịt, chôn cái thây ma để mở ra những trận cười khác, làm cho bản chất xã hội càng bộc lộ rõ mà thôi. Nghĩa là tính chất lên án, tố cáo xã hội của tác phẩm ngày càng lên cao, nó không dừng lại ở “một sân quần” hay “một đám tang”… Cái chết của cụ tổ là “hạnh phúc” của bao người. Cụ tổ chết đi, đám con cháu sẽ tha hồ mà vui sướng, xã hội còn tha hồ mà diễn trò đểu giả bịp bợm. Cái đáng lật đổ ở đây rõ ràng là “xã hội cho đểu”.

Nhưng, thông qua hệ thống sự kiện toàn tác phẩm. Bởi thế, nhà văn sẽ không thông qua nhân vật, một tiếng cười để “chôn mau đi” xã hội rởm hợm, mà tự thân chuỗi sự kiện trong tác phẩm sẽ nói lên cần phải “chôn đi mau”. Đây chính là nghệ thuật “đánh địch” mà Xuân Diệu đã chỉ ra, đánh “là dựng kẻ thù lên thành hình tượng sinh động, thành những tấm bia thịt cho độc giả phải bật lên tiếng chửi cùng một lúc với tiếng cười”(5). GS. Nguyễn Đăng Mạnh rất tâm đắc nghệ thuật này và đã cho rằng “Vũ Trọng Phụng chủ yếu dùng lối đánh này”. Đây chính là nghệ thuật rất cao tay của Vũ Trọng Phụng. Nói điều này để thấy rằng, tiếng khóc của phán mọc sừng thực chất là điểm nhấn “làm nổi bật thảm kịch thực sự của con người giữa những sự giả dối buồn cười” (Emin Zôla), nó chỉ là một chi tiết góp phần cấu thành tiếng cười trào phúng trong tác phẩm trào phúng đích thực, trước hết phải thể hiện được bản chất tiếng cười, và tiếng cười kết thúc là đỉnh điểm, là lúc tiễn về quá khứ một cách vui vẻ (ý của C. Mác), lúc đó cũng là lúc cái xấu xa của đối tượng được bộc lộ đầy đủ nhất, rõ nét nhất, tất nhiên lúc đó bản chất tiếng cười là rõ nhất.

Trong tác phẩm này, cảnh kết thúc là cảnh: Xuân tóc đỏ được mệnh danh là anh hùng cứu quốc, là vĩ nhân, được cụ Hồng hứa gả con gái, lời lẽ được ghi vào từ điển; bà Phó Đoan sẽ được tấm biển “Tiết hạnh khả phong”. Rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã để nhân vật đi từ một thằng “ma cà bông” đến một “anh hùng… vĩ nhân”, từ một mụ me Tây dâm đãng đến một người phụ nữ “tiết trinh”… Sức tố cáo của tác phẩm lên đến đỉnh điểm, cả xã hội lật nhào dưới bàn tay khéo léo của người nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng.

Trên đây là cách hiểu của chúng tôi về tiếng khóc của phán mọc sừng. Tiếng khóc này đã làm người đọc thấy được phần nào xã hội mà Vũ Trọng Phụng lên án. Qua tiếng khóc của phán mọc sừng, Vũ Trọng Phụng đã làm rõ mâu thuẫn trào phúng giữa “tang gia” và “hạnh phúc”, giữa bi và hài, giữa bên trong và bên ngoài.

>> Tham khảo:

  • Phân tích tâm trạng các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia
  • Phân tích cảnh hạ huyệt trong Hạnh phúc của một tang gia

******

Hy vọng rằng dàn ý chi tiết cùng bài văn mẫu phân tích tiếng khóc của ông Phán mọc sừng trong Hạnh phúc của một tang gia trên đây sẽ giúp các em hoàn thành bài làm của mình một cách hoàn thiện và thuận lợi nhất. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 11 khác được cập nhật thường xuyên tại doctailieu.com. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button