Phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc
Tham khảo những bài văn mẫu lớp 11 hay nhất phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc, các em tham khảo để có thêm gợi ý làm bài.
Phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc – Tuyển chọn những bài văn hay nhất phân tích nghệ thuật châm biếm sâu cay của Nguyễn Ái Quốc trong bài Vi hành, qua đó tố cáo bọn thực dân Pháp đê hèn, lừa bịp, đồng thời bộc lộ một cách kín đáo nỗi tủi nhục của người dân bản xứ.
Đề bài
Phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích sâu cay trong bài Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc
Bài văn mẫu phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc
Bài văn mẫu 1
“Vi hành” là một truyện ngắn trào phúng phản phong, phản đế thuộc loại sớm nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn được sáng tác vì mục đích tố cáo chân tướng tên vua bù nhìn Khải Định khi y sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mác xây năm 1922 đồng thời nhằm phơi bày bộ mặt xấu xa của thực dân Pháp. “Vi hành” là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật châm biếm, đả kích của Nguyễn Ái Quốc.
“Vi hành” được sáng tác vì mục đích Cách mạng, vì tinh thần chiến đấu. Nó nằm trong hệ thống những bài văn, bài báo mà Nguyễn Ái Quốc viết để tố cáo chân tướng của tên vua bù nhìn Khải Định. Tên vua ấy không khác gì một tên hề lố lăng, vi hành lén lút mà mờ ám. Qua truyện, Nguyễn Ái Quốc cũng muốn tố cáo bọn thực dân Pháp đê hèn, lừa bịp, đồng thời bộc lộ một cách kín đáo nỗi tủi nhục của người dân bản xứ. Tên vua bù nhìn Khải Định và bọn thực dân Pháp hiện lên dưới ngòi bút châm biếm, đả kích của Nguyễn Ái Quốc vừa nực cười, vừa xấu xa.
Nghệ thuật châm biếm cũng đã có trong văn học Việt Nam, như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… thế nhưng, tiếng cười mỉa mai ở Nguyễn Ái Quốc lại có sắc điệu riêng với niềm tin, niềm lạc quan của một người chiến sĩ cộng sản. “Vi hành” là biểu hiện của một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn và hóm hỉnh.
Nếu Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng “tình huống truyện như một tứ thơ. Nó giống như một thứ nước rửa sạch sẽ làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm nổi bật vấn đề, tư tưởng tác giả” thì ở Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo ra những tình huống oái oăm, vui nhưng lại tạo được nhưng hiệu quả châm biếm sâu cay. Đó là tình huống nhầm lẫn đơn giản mà vô cùng hợp lý, lung linh nhiều ánh sáng bất ngờ, tác động mạnh vào ấn tượng người đọc. Từ sự nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp đến sự nhầm lẫn của cả quần chúng nhân dân, chính phủ Pháp tưởng người da vàng nào cùng là Khải Định. Tên vua bù nhìn Khải Định tuy không xuất hiện trực tiếp trong truyện nhưng chân tướng vẫn hiện lên rất rõ ràng thông qua câu chuyện và cái nhìn của đôi trai gái người Pháp.
Trong con mắt người Pháp, Khải Định có một trang phục nực cười như một thằng hề, “cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn” với những thứ trang sức màu mè vô cùng lố bịch “Đeo lên người đủ bộ hạt cườm” và có giá trị rẻ tiền hơn cả những trò giải trí rẻ tiền nhất. Khải Định bị coi như một hiện tượng lạ. Một “anh vua” mũi tẹt, mắt xếch, nước da vàng bưng như vỏ chanh, đeo lên người những bộ lụa là, hạt cườm, các ngón tay đeo đầy những nhẫn lúng ta lúng túng đi giữa Pa-ri hoa lệ. Vậy mà hắn đã đi đến những đâu? Nào trường đua, các tụ điểm ăn chơi phóng túng nhất Pa-ri. Cái dáng vẽ nhút nhát, lúng túng của Khải Định trông thật thảm hại. Phải chăng ” ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alếchxang đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc phiện bằng dân nước Nam, dưới quyền ngự trị của ngày hay không?… Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?”. Ngài vi hành lén lút hay để thực hiện một hành vi ám muội? Khải Định đã tự lột mặt nạ của mình, hoá ra hắn chỉ là một kẻ chơi bời vô độ, hắn không có phong thái đàng hoàng, sang trọng của một bậc quân vương.
Phụ hoạ thêm những lời lẽ mỉa mai khinh miệt ấy là thái độ đà phả trực tiếp của tác giả trong những lời nghi vấn giả thiết, so sánh, liên hệ Khải Định khi hiện lên trong sự đối lập, tương phản với vua Thuấn, vua Pie càng trở nên đáng khinh, càng tầm thường và hèn mạt. Tác phẩm liên tục xuất hiện những câu hỏi đặt ra những giả thiết về mục đích vi hành “không cao thượng” của Khải Định. Các từ ngữ “phải chăng”, “hay là”, “hay không”… luyến láy, nối tiếp nhau như thể Nguyễn Ái Quốc đang đảo trộn, soi xét, lật đủ mặt này mặt kia để phơi bày trần trụi mọi cái xấu của Khải Định.
Không chỉ có vậy, trong mắt người Pháp, hắn không chi là một kẻ ăn chơi lố bịch, không chỉ giống một mụ đàn bà “đeo lên người đủ thứ lụa là, hạt cườm” mà còn như một trò vui không mất tiên, một thằng hề. Qua câu chuyện của đôi trai gái trên chuyến xe: “Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Phải trả nhũng nghìn rưỡi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò nhào lộn của sứ thánh Công-gô. Hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh. Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có định kí giao kèo thuê đấy”. Thật không còn lời lẽ nào hơn dành cho tên vua bù nhìn ấy. Thế mà tác giả, người đang bị tưởng lầm là Hoàng đế đã phải chịu đựng tất cả sự mỉa mai, khinh bỉ qua cái nhìn cua đôi trai gái Pháp.
Nhưng đâu chỉ đôi trai gái ấy lầm tưởng “tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành Hoàng Đế ở Pháp” mà đến chính phủ Pháp, quần chúng Pháp đều lầm. Để rồi mỉa mai thay, “quần chúng cứ là tự phát biểu nhiệt tình khi vừa thoáng thấy đồng bào ta” với những lời chào mừng kín đáo “Hắn đấy! Xem hắn kìa”. Ông vua nước Nam được gọi là “hắn”, được nhìn với những cái nhìn ngấu nghiến, tò mò như vật lạ, một trò hề. Ý nghĩa phê phán của tác phẩm càng lúc càng mạnh mẽ. Qua câu chuyện được tác giả kể lại trong bức thư viết cho cô em họ chân dung độc đáo, đầy ấn tượng mang sức tố cáo mạnh mẽ được thể hiện qua hình thức tâm tình riêng tư – một sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc. Tác giả đã liên hệ, so sánh tạt ngang, chuyển giọng, chuyển cảnh một cách linh hoạt. Sự mỉa mai nhưng thực ra lại thật chua chát, Khải Định ăn chơi xa xỉ trên mồ hôi nước mắt của nhân dân. Bằng sự tài tình của mình, Nguyễn Ái Quốc đã khắc hoạ chân dung tên vua bù nhìn thật sự sinh động, ấn tượng với vẻ ngoài lố bịch và những hành động lúng túng. Bên ngoài câu chuyện có vẻ bông đùa nhưng bên trong tác giả lại ngầm thể hiện thái độ khinh bỉ, đau xót – đau xót cho đất nước khi có một ông vua như Khải Định.
Sự sắc sảo của nghệ thuật châm biếm không chỉ được thể hiện ở cách miêu tả chân dung và hành động của tên vua bù nhìn – Khải Định mà còn được bộc lộ ở cách miêu tả bọn thực dân Pháp, đặc biệt là bọn mật thám và chính phủ Pháp. Ngay đến chính phủ Pháp còn không thể nhận ra được khách thật của mình thế nên “bèn đối đãi tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt”. Cái cười của Nguyễn Ái Quốc ở đây chính là cái cười mỉa mai, bóng gió, là lối nói cứ thấp thoáng ý xa, ý gần, nghĩa đen nghĩa bóng với hệ thống ngôn ngữ vô cùng phong phú: “Đón tiếp tốt đẹp”, “dành cho”, “nhiệt tình”, “tận tuỵ”, “âu yếm”,:”tự hào”… bên cạnh những câu văn đậm vẻ mỉa mai và cả lối ví von so sánh sắc nét: “Các vị chẳng nề hà chút công sức nào bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác nào bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được vì nỗi âu yếm của các vị đối với tôi”.
Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo sự xảo trá, bịp bợm của bọn thực dân Pháp đối với Đông Dương đồng thời đả kích chế độ mật thám Pháp xâm hại quyền tự do cá nhân của người dân thuộc địa. Bên cạnh đó, Người còn sử dụng biện pháp song hành “tất cả những ai có màu da vàng đều là Hoàng đế – tất cả những ai ở Đông Dương đều là bậc khai hoá” và biện pháp liên hệ nhằm phê phán chính sách ngu dân, đầu độc dân thuộc địa của bọn thực dân Pháp. Tiếng cười của Bác là một tiếng cười trí tuệ, đó không phải là một tiếng cười giòn giả ngay trên bề mặt, mà là tiếng cười thâm trầm ở bề sâu. Cái cười chỉ hiện ra chua chát, mỉa mai như kết quả cuối cùng của một quá trình suy nghĩ để nhận ra cái trái tự nhiên của bản thân sự vật, sự việc.
Ông vua – một danh nghĩa sang trọng nhưng thực ra lại đáng khinh, chính sách bảo hộ – cái tên thì nhân nghĩa nhưng thực ra lại là sự bóc lột vô cùng tàn ác, ngòi bút châm biếm sâu sắc của tác giả đã chú ý khai thác những điều trái ngược trong một sự thống nhất bên cạnh việc phát hiện sự thống nhất trong những hiện tượng trái ngược nhau. Tiếng cười với nhiều sắc điệu, có cả sự khinh bỉ của một người cách mạng lẫn nỗi đau của một người dân mất nước, có cả chất thâm thuý của người thông thuộc lịch sử lẫn vẻ tinh nghịch, trẻ trung của tuổi thanh niên.
Đi vào thế giới nghệ thuật của “Vi hành” ta bắt gặp sự phong phú của nhiều yếu tố giọng điệu, hình ảnh… Tác phẩm còn lôi cuốn người đọc bởi lối dẫn chuyện vô cùng độc đáo lạ thường. “Vi hành” là sự luân chuyển, đan xen của nhiều giọng nói, nhiều giọng kể. Mở đầu câu chuyện là giọng bông đùa bỡn cợt, của người ngoài cuộc, tiếp theo là giọng tâm tình thân mật giữa tác giả và cô em họ, tiếp theo nữa là giọng hồi tưởng của các vị vua vĩ đại để mỉa mai Khải Định vi hành với những lí do không cao thượng. Và đặc biệt, khi tác giả cất tiếng hỏi “Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp dưới quyền ngự trị của bạn ngài liệu có được sung sướng?”… thì giọng điệu lại càng châm chọc trực diện tên vua bán nước.
Truyện ngắn “Vi hành” không chỉ là tiếng cười châm biếm mà còn là tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Tâm trạng ấy không chỉ xuôi chiều trong sự đùa vui, mỉa mai, giễu cợt mà còn có cả lòng căm ghét kẻ thù và nỗi đau mất nước. Lòng yêu nước đôi khi còn được bộc lộ một cách chua chát trong giọng văn như là một nghịch lý” Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không hiểu sao che dấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế”.
Sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Ái Quốc đã được kết tinh trong một nghệ thuật châm biếm bậc thầy – nghệ thuật quen thuộc để đả kích những đối tượng đáng phê phán. Nhưng với “Vi hành” Nguyễn Ái Quốc đã mang đến một tiếng cười mới mẻ mang chiều sâu trí tuệ. Tiếng cười thâm thuý được bật ra từ cách sử dụng câu chữ, xây dựng tình huống, xây dựng chân dung nhân vật. Tiếng cười đó là tiếng cười trí tuệ – càng nghĩ càng thấm, càng thấm càng đau.
Tham khảo: Dàn ý phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc
Bài văn mẫu 2
“Vi hành” không chỉ là tác phẩm có nội dung phản đế, phản phong sâu sắc mà còn là một sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời thể hiện một bút pháp văn xuôi hiện đại giàu tính châm biếm, đả kích sâu sắc của nhà văn bậc thầy Nguyễn Ái Quốc.
Sáng tạo trước hết ở cách đặt nhan đề của tác phẩm: “Vi hành”. Nhan đề này đã vạch ra được mâu thuẫn trào phúng giữa địa vị tôn nghiêm của ông vua trong chuyến Tây du 1922 với bộ dạng của một tên hề, con rối của vua bù nhìn Khải Định. “Vi hành” vốn có nghĩa gốc tốt đẹp, nhằm chỉ hành động của các bậc hoàng đế vĩ đại cải trang làm người dân thường đi sâu vào nhân dân tìm hiểu xem họ sống ra sao, suy nghĩ như thế nào, để từ đó có đường lối cai trị đúng đắn, nhằm đem lại hạnh phúc thực sự cho dân. Còn nay Khải Định cũng cải trang đi “Vi hành”, nhưng là để làm những điều xấu xa, nhằm thoả mãn những dục vọng thấp hèn. Như thế là Bác đã biến đổi nghĩa gốc sang nghĩa mới có tính chất châm biếm sâu cay. Nguyễn Ái Quốc đã dùng chữ của Hoàng Đế để đánh vào đầu Hoàng Đế. Trong nghệ thuật đánh địch, người ta gọi đó là thủ pháp: lấy gậy ông để đập lưng ông. Ngòi bút của Bác quả là hóm hỉnh và rất giàu trí tuệ.
Sáng tạo nghệ thuật độc đáo của truyện ngắn “Vi hành”còn thể hiện ở chỗ bịa ra tình huống “nhầm lẫn”để khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc. Nội dung truyện “Vi hành” đề cập đến một vấn đề hoàn toàn nghiêm túc và có thật. Đó là sự thực về tội lỗi xấu xa, nhân cách hèn hạ của tên vua bù nhìn bán nước Khải Định và về tội ác tày trời của thực dân Pháp. Ấy thế mà hình thức nghệ thuật lại như là chuyện “bịa”. Trong văn học, người ta gọi đó là “bịa nghệ thuật”. Tác giả “bịa” ra hàng loạt cuộc nhầm lẫn do Khải Định “vi hành gây nên”. Ớ đây tác giả đã sử dụng thủ pháp cường điệu trong nghệ thuật trào phúng. Trước hết là đôi nhân tình người Pháp nhầm Nguyễn Ái Quốc là Khải Định, và. sự nhầm lẫn ấy cứ “loang” ra mãi: Nhân dân Pháp “nhầm” và ngay đến Chính phủ Pháp đích thân mời Khải Định sang làm thượng khách lắm lúc cũng nhầm nốt.
Phải có sự nhầm lẫn này mới có cơ hội để lắng nghe một cách khách quan cuộc đối thoại của đôi trai gái để qua đó biết được dư luận của người Pháp đối với Khải Định. Và như thế là không phải tác giả quan sát Khải Định bằng con mắt châm biếm, căm ghét nó, mà bằng con mắt của người dân Pháp, đặc biệt là những thanh niên Pari đang háo hức những trò giải trí mới lạ. Bộ dạng của tên vua bù nhìn vốn đã lố bịch, càng trở nên hài hước, lố bịch hơn (chẳng hạn người Việt Nam nhìn cái nón thì chẳng có gì lạ, nhưng người Pháp nhìn cái nón trên đầu Khải Định thì tưởng đó là chụp đèn; da thì bủng như vỏ chanh; thái độ thì nhút nha nhút nhát – đúng là một anh chàng Hoàng Đế nhưng đi lén lút; trang phục ăn mặc thì rất “lò'” có gì phô ra hết, đủ cả lụa là, gấm vóc, hạt cườm như một thằng người, như một cái giá áo không hơn (Ớ Pháp, đàn ông mà ăn mặc như vậy là rất “ngố” và vô văn hoá). Vả chăng, cách bình luận của người Pháp đổì với Khải Định cũng tự do, thoải mái hơn. Vì họ là dân của một nước dân chủ, vua chúa đối với họ chỉ là một thứ đồ cổ.
Qua cách nhìn và lời bình luận của người Pháp thì Khải Định chỉ đáng làm trò giả trí cho họ. Nhưng là trò giải trí không đáng giá nửa xu. Lời bình luận ấy nếu đặt vào miệng người Việt Nam yêu nước thì e sẽ biến thành lời thoá mạ, hằn học thiếu tự nhiên.
Trong nghệ thuật, người ta gọi đó là thủ pháp “gợi” chứ không phải “tả”. Tả thì cần nhiều chi tiết và thường trực tiếp hơn. Gợi thì chỉ cần một số chi tiết ít ỏi. Nhưng thông qua trí tưởng tượng và sự suy đoán của người đọc vẫn có thể hình dung được một Khải Định như nó vốn có trong thực tế chuyến “Tây du” năm 1922. Bằng cách này, tác giả đã mô tả được chân dung Khải Định một cách đầy đủ trong mọi trường hợp khác nhau (ở trường đua, hiệu cầm đồ, và lén lút ăn chơi bừa bãi) mà không cần phải cho hắn xuất hiện.
Xét về nghệ thuật viết truyện ngắn, tạo ra được những tình huống đặc sắc để làm nổi bật chủ đề và tính cách nhân vật là cực kỳ quan trọng. Tác giả tạo ra được tình huống “nhầm lẫn” nói trên là một thủ pháp nghệ thuật cơ bản nhất của truyện “Vi hành”. Nó góp phần quan trong làm cho câu chuyên trở nên trớ trêu, éo le, có kịch tính và do đó cũng hẫp dẫn hơn.
Dùng hình thức viết thư cũng là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc đưa lại cho “vi hành” những hiệu quả thẩm mỹ độc đáo. Dùng cách viết thư, một thể văn hết sức tự do phóng túng và rất chủ quan, cứ phóng bút theo dòng cảm nghĩ chủ quan độc đoán của mình, Nguyễn Ái Quốc có thể đổi giọng, chuyển cảnh, liên hệ, so sánh một cách thoải mái tự nhiên, (chẳng hạn từ giọng trần thuật chuyện khách quan mắt thấy tai nghe trên tàu điện ngầm, đến giọng trữ tình khi nói về kỷ niệm thuở thiếu thời thân thiết với cô em họ; từ cảnh Pari chuyển thẳng đến cảnh ở quê nhà; rồi liên hệ từ chuyện nọ sang chuyện kia; đối tượng này sang đối tượng khác như chuyện vua Thuấn bên Tàu đến chuyện vua Pie ở bên Tây; từ chỗ châm biếm Khải Định đến chỗ châm biếm bọn thực dân và mật thám Pháp đối với những người Việt Nam yêu nước).
Ngoài những thủ pháp trào phúng quen thuộc mà ta thường gặp như khai thác mâu thuẫn trào phúng, phóng đại, dùng hình ảnh, từ ngữ châm biếm (“ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi nhà thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh có được một vị Hoàng Đế”), ba thủ pháp độc đáo nói trên làm cho ngòi bút của Bác trở nên sinh động, biến hoá, hấp dẫn: khi thân tình, khi dí dỏm; nói một điều mà toả ra bao nhiêu chuyên. Qua đó, tác giả không chỉ dựng lên được chân tướng xấu xa lố bịch của Khải Định mà còn phơi bày được trước dư luận công chúng tất cả trò hề bịp bợm, những thủ đoạn nham hiểm, độc ác của thực dân Pháp (nào là chính sách “khai hoá” lừa bịp, sự đầu độc người bản xứ bằng thuốc phiện, rượu cồn, nào là chuyện quan thầy o bế tên bù nhìn – Khải Định ra sao; nào là chuyện các nhà “khai hoá” truy nã bủa vây người Việt Nam yêu nước nhất là Nguyễn Ái Quốc, trong dịp hắn sang ngao du ở Pari). Quả là ngòi bút của Bác rất hàm súc, giàu trí tuệ và rất hiện đại, tạo ra được một thứ ngôn ngữ đa nghĩa một lời mà nhiều nghĩa, đa thanh – một lời mà nhiều giọng. Bắn một mũi tên mà nhằm trúng 2 kẻ thù: phong kiến tay sai và thực dân xâm lược với biết bao điều xấu xa và tội ác tày trời của chúng.
Cùng với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ái Quốc, nghệ thuật châm biếm đã góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn ‘Vi hành”. Đây xứng đáng là một kiệt tác của nền văn học nước nhà.
Bài văn mẫu 3
Hồ Chí Minh không những là một vị lãnh tụ của nhân loại mà còn là một nhà thơ đầy bản lĩnh và lòng nhân ái. Chúng ta không thể không khâm phục Người khi đã để lại một khối lượng thơ văn khá đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn. Vi Hành là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Ái Quốc được trích trong tập truyện và kí viết bằng tiếng Pháp. Truyện được viết vào đầu năm 1923 nằm trong loạt tác phẩm châm biếm đả kích chuyến thăm Pháp của Khải Định vào tháng 6 năm 1922.
Truyện kể về chuyến xe điện ngầm đôi trai gái người Pháp nhìn thấy nhân vật tôi là người kể chuyện là một người An Nam nên tưởng đó là vua Khải Định và coi hắn như một trò giải trí rẻ tiền. Đôi trai gái xuống tàu người kể chuyện nhớ về ngày ấu thơ, với câu chuyện của các ông vua rồi liên hệ về cuộc vi hành mờ ám vì mục đích riêng của vua Khải Định. Tác giả cũng kể về sự nhầm lẫn của người Pháp của chính quyền thực dân. Tác phẩm đã châm biếm và đả kích sâu sắc chuyến vi hành này của tác giả. Đó chính là nội dung chủ yếu của cốt truyện Vi hành
Nghệ thuật châm biếm đả kích được thể hiện ngay từ đầu tác phẩm khi tác giả tạo tình huống gây nhầm lẫn. Đó là một đôi nam nữ Pháp trên tàu điện ngầm ở Pari tưởng tác giả hay chính là nhân vật tôi trong truyện là vua Khải Định. Đôi trai gái nhầm bác là vua Khải Định, tất cả người Pháp tưởng tất cả những người da vàng trên đất nước Pháp đều là vua Khải Định và một điều nực cười hơn nữa đó chính là mời vua Khải Định sang nhưng cũng không biết đâu là vua Khải Định nữa. Cái sự nhầm lẫn mà tác giả nói đến trong truyện cũng không thể nói là không có cơ sở của nó được khi mà họ khó mà phân biệt được những khuôn mặt khác nhau của chúng ta.
Vẫn cái nước da vàng, vẫn cái mũi tẹt, vẫn cái mắt sếch, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy thì để nhận diện một người nước Nam thật khó cho họ. Nhưng có điều cái sự nhầm lẫn của đôi trai gái ấy khiến cho Bác thấy thú vị khi được nghe câu chuyện của đôi trai gái ấy và câu chuyện nói đến vua Khải Định khiến cho hình tượng nhân vật Khải Định không trực tiếp xuất hiện nhưng cũng khiến cho người đọc thấy được chân dung con người hắn. Tình huống nhầm lẫn ở đây như muốn nói lên rằng: đấy là người Pháp họ nói và nghĩ về Khải Định đấy chứ! Nhưng hình thức viết thư cũng lại muốn khẳng định rằng họ đã nói đúng và “tôi” còn thấy tên vua kia tồi tệ hơn, đáng khinh hơn thế nữa. Ở đây ta thấy được tạo tình huống gây nhầm lẫn đó chính là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất của truyện.
Tình huống tuyện như vật thật độc đáo đẩy câu chuyện lên mức hài hước giàu kịch tính và tạo được hiệu quả châm biếm đả kích sâu sắc. Không cần cho nhân vật Khải Định xuất hiện, tác giả chỉ ghi lại cuộc trò truyện của đôi nam nữ Pháp nhưng chân dung Khải Định hiện lên rất rõ nét: một ông vua bù nhìn, một kẻ lố bịch , một con rối, một kẻ rẻ tiền. Bên cạnh đó, tác giả cũng châm biếm một cách nhẹ nhàng và hóm hỉnh thói tò mò, hiếu kì của thị dân Pari. Nhìn bề ngoài, câu chữ có vẻ cười cợt nhẹ nhàng nhưng ẩn đằng sau nó là những đòn đả kích sâu cay mãnh liệt, là thái độ xem thường, khinh bỉ đối với kẻ thù “đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta” hoặc “ thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Phải trả gần rưỡi phrăng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên…”, “hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh. Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối đang định kí gieo kèo thuê đấy…”. Những câu văn nói về sự lố bịch, nực cười của Khải Định, không chỉ nhằm mục đích vạch trần sự ngu dốt mông muội của hắn mà còn thể hiện sức khái quát sắc sảo trong nghệ thuật châm biếm của Nguyễn Ái Quốc.
Nghệ thuật châm biếm đả kích sâu sắc cũng được thể hiện rất rõ nét khi tác giả sử dụng hình thức thư tín. Vi hành được Người viết dưới hình thức một bức thư gửi cô em họ ở quê nhà. Viết truyện ngắn dưới hình thức một bức thư không có gì độc đáo, mới mẻ nhưng đặt trong hoàn cảnh cụ thể này thì bức thư vi hành đạt được hiệu quả nghệ thuật đặc biệt. Thư là một lối văn tự do phóng túng có thể chuyển cảnh, chuyển đổi giọng điệu một cách linh hoạt. Trong thư người ta có thể trao đổi thông tin, cũng có thể bộc lộ tư tưởng tình cảm, tâm tư suy nghĩ của người viết. Đó là một hình thức tương đối tự do khi viết thư có thể liên hệ tạt ngang một cách phóng túng có điều kiện để phát huy sự phán đoán trí tưởng tượng. Thấy được đặc điểm tích cực của thư từ cho nên cùng một lúc tác giả đã phán đoán suy luận về thực chất chuyến vi hành của Khải Định, thái độ của chính quyền thực dân để đả kích chính phủ Pháp và ông vua bù nhìn Khải Định.
Dưới hình thức viết thư thì một lần nữa tính cách của Khải Định lại được khắc họa tô nét đó là một ông vua ăn chơi chác tán. Nhà văn mỉa mai châm biếm bản chất tính cách này của vị hoàng đế An Nam: ngoài vi hành phải chăng vì đã chán cuộc đời ông vua muốn nếm thử cuộc đời công tử bé, ngài để hết hành lí ở hiệu cầm đồ không mang theo tùy tùng để xuất hiện những nơi không laays gì làm cao thượng. Bản chất làm tay sai bán nước của ông bù nhìn này được gợi qua những câu hỏi phán đoán suy luận: ngài vi hành phải chăng ngài muốn được xem người dân Pháp có uống nhiều rượu cồn và thuốc phiện như người dân An Nam dưới quyền cai trị của ngài.
Ngôn ngữ của tác phẩm mang ý nghĩa châm biếm sắc sảo, giọng mỉa mai châm biếm bất ngờ. Vi hành có đủ lợi điểm nhằm chế giễu phê phán tính chất bù nhìn của vua Khải Định. Mặt khác qua hình thức một bức thư riêng gửi cô em họ, tác giả đả kích tố cáo chính sách thuộc địa giả dối của Pháp chế độ ngu dân nặng nề, chế độ thuế khóa nặng nề và ngay cả kế mật thám ở ngay trên chính quốc
Nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi hành là sự kết hợp hài hòa hình thức trào phúng của văn học Châu Âu hiện đại với lối đùa vui thâm trầm hóm hỉnh kiểu Á Đông. Vi hành là truyện ngắn tiêu biểu cho hình thức viết truyện kí nhiều sáng tác của Bác nhiều sáng tạo lời ít ý nhiều giàu chất trí tuệ và nghệ thuật châm biếm sâu sắc.
——————-
Với hướng dẫn chi tiết trên đây của THPT Ngô Thì Nhậm, hy vọng các em đã nắm được cách làm bài phân tích nghệ thuật châm biếm đả kích trong Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra, rất nhiều bài Văn mẫu lớp 11 hay nhất cũng được chúng tôi chọn lọc và thường xuyên cập nhật để phục vụ việc học tập cho các em. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!