Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Hướng dẫn phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, lập dàn ý chi tiết và mẫu bài văn tham khảo phân tích tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở là một trong những tình tiết hấp dẫn nhất của tác phẩm Chí Phèo. Tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa.
Hướng dẫn phân tíchdiễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
1. Phân tích đề
– Yêu cầu: phân tích tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
– Phương pháp lập luận chính: Phân tích.
2. Luận điểm chính diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
– Luận điểm 1: Hoàn cảnh Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở
– Luận điểm 2: Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
– Luận điểm 3: Tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
3. Sơ đồ tư duy phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo
Sơ đồ tư duy diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Dàn ý phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán thời kỳ 1940 – 1945, một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954.
+ Chí Phèo là một truyện ngắn xuất sắc của ông viết về số phận người nông dân bị xã hội thực dân phong kiến đàn áp, biến dạng từ bần cùng hóa đến lưu manh hóa.
– Giới thiệu vấn đề cần phân tích: diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
2. Thân bài
* Luận điểm 1: Hoàn cảnh Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở
– Từng là một người nông dân lương thiện
– Vì ghen tuông, Bá Kiến đã hãm hại và tống Chí vào tù
– Nhà tù thực dân đã biến Chí từ một người nông dân 20 tuổi lương thiện trở thành một người thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính.
– Ra tù, Chí mắc mưu và làm tay sai cho Bá Kiến.
=> Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bị coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
* Luận điểm 2: Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
– Hoàn cảnh gặp Thị Nở
+ Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên “hắn” rẽ vào nhà Tư Lãng uống rượu
+ Khi về Chí Phèo không về thẳng mà ra sông tắm.
+ Khi ra sông Chí Phèo gặp Thị Nở đang ngủ hớ hênh dưới trăng.
=> Đây là cuộc gặp định mệnh của hai người.
– Chi tiết hành động xảy ra
+ Trong cơn say, Chí Phèo ăn nằm với Thị Nở và ngủ say dưới trăng
+ Sáng hôm sau Chí bị trúng gió và được Thị Nở đưa về lều.
+ Khi tỉnh dậy đây là lần duy nhất hắn tỉnh từ khi ở tù về.
+ Hắn nhìn thấy tô cháo hành Thị Nở mang cho.
* Luận điểm 3: Tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
– Thức tỉnh
+ Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
- Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”
- Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
- Cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”
- Thấy “sợ rượu” -> dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất
- Cảm nhận được những âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
- Nhận thức được hoàn cảnh của mình, thấy mình cô độc.
=> Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã làm Chí thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên.
– Niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về
+ Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
+ Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt” -> xúc động vì lần đầu tiên được bàn tay đàn bà chăm sóc.
+ Thấy Thị Nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn
+ Muốn làm nũng với Thị, thấy lòng thành trẻ con
+ Thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về
+ Hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.
=> Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy.
– Thất vọng, đau đớn
+ Bà cô Thị Nở ngăn cấm, không cho Chí đến với thị.
+ Bị Thị Nở từ chối, Chí thất vọng và đau đớn:
- “Ngẩn người”, “ngẩn mặt”: thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình cảnh của mình -> đáng thương
- Thoáng thấy hương cháo hành: hồi tưởng về tình yêu đã trải qua
- Nắm lấy tay Thị -> mong muốn níu kéo hạnh phúc
- Tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”.
=> Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng.
– Phẫn uất
+ Mong muốn quay trở lại làm người lương thiện không thể thực hiện được, niềm phẫn uất trong Chí đẩy lên cao
+ Chí quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”.
+ Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà xách dao thẳng đường đến nhà Bá Kiến” -> niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình.
=> Hành động tự kết liễu thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng.
* Đặc sắc nghệ thuật miêu tả tâm trạng
– Xây dựng nhân vật điển hình tiêu biểu vừa sống động, vừa có cá tính độc đáo
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo
– Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
– Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên
– Giọng điệu đan xen biến hóa, trần thuật linh hoạt.
3. Kết bài
– Khái quát lại tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
– Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân: Đây là bi kịch của con người sinh ra là người mà không được làm người.
Tham khảo thêm
:
Dàn ý chi tiết phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
7+ bài văn mẫu hay phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở Bài số 1
Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, Nam Cao nổi lên như một nhà văn hiện thực xuất sắc. Các tác phẩm của ông tập trung phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, với những mảng tối u ám và bi thương. Nổi bật trong số đó là “Chí Phèo” – kiệt tác để lại tên tuổi của Nam Cao. Tác phẩm đã vẽ nên bức tranh chân thực về cuộc sống bần cùng, cơ cực của người nông dân trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người. Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm đã trở thành một biểu tượng cho số phận bi thảm của người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa. Sau khi gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi, tưởng chừng như Chí đã tìm được ánh sáng hy vọng, có cơ hội hồi sinh trở lại làm người lương thiện. Tuy nhiên, do định kiến xã hội và sự tước đoạt quyền làm người, Chí lại chìm trong tuyệt vọng và kết thúc cuộc đời bằng hành động tự sát đầy bi kịch.
Diễn biến tâm trạng của Chí sau khi gặp Thị Nở là một quãng thời gian ngắn ngủi nhưng vô cùng giá trị. Nó cho thấy khát vọng được sống lương thiện, được yêu thương và hòa nhập cộng đồng vẫn luôn tiềm tàng trong sâu thẳm tâm hồn Chí. Đây cũng là minh chứng cho giá trị nhân đạo sâu sắc mà nhà văn Nam Cao dành cho nhân vật của mình.
Chí Phèo bản chất vốn là một người hiền lành, chất phác nhưng vô tình bị xã hội đẩy đến mức đường cùng, đại diện cho cường quyền ấy là Bá Kiến vì ghen với Chí được bà Ba “quý mến” mà tìm mọi cách cho hắn đi ở tù. Bảy tám năm đi biệt khi quay trở về làng Vũ Đại Chí là một kẻ mất nhân hình lẫn nhân tính để cho thế lực hắc ám như cụ Bá hoàn thành nốt công đoạn biến thành con quỷ dữ mà mọi người đều ghê sợ và xa lánh, Chí trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến kể từ đó hắn chỉ chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Cuộc đời hắn chìm trong men say hết ngày này qua ngày khác chưa bao giờ hắn tỉnh để biết mình còn tồn tại có mặt ở trên đời.
Nam Cao không nhẫn tâm để nhân vật của mình sống mãi là kiếp thú vật nên đã cho thị Nở xuất hiện cùng bát cháo hành tình người và tình cảm chân thành đánh thức lương tri Chí sau những ngày bị vùi lấp. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp thị Nở chứng tỏ tài năng khám phá và phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Hôm ấy, sau trận nôn mửa lúc nửa đêm khi đã ngủ cùng Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy sau một cơn say rất dài “hắn thấy miệng đắng, lòng buồn mơ hồ”. Lần đầu tiên kể từ ngày trở về hắn nghĩ đến rượu mới cảm thấy rùng mình “hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm”. Hắn cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Những âm thanh ấy ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí tỉnh để nghe thấy và cảm nhận tiếng gọi tha thiết của sự sống.
Chí nhận thức được bản thân mình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiếng bàn tán của người bán hàng gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của Chí từng ước mơ về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là ước mơ, là khao khát của anh canh điền hiền lành chất phác. Nhưng éo le thay điều đó không thành hiện thực để rồi giờ đây trong hiện tại “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của đời”, cơ thể đã hư hỏng ít nhiều. Chí phèo cũng đã nghĩ về tương lai và “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Sau những ngày sống như vô thức qua một trận ốm Chí đã tỉnh dậy và suy nghĩ về cuộc đời mình. Như vậy với khả năng nhận thức về ngoại cảnh và nhận thức về chính mình Chí đã tỉnh dậy và hồi sinh trở về với kiếp người.
Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành và tình thương yêu dành cho Chí khiến hắn vô cùng ngạc nhiên, xúc động và trỗi dậy mong muốn được làm người lương thiện. Đây là đoạn văn mang nhiều giá trị nhân đạo nhất mà nhà văn dành cho nhân vật của mình. Trưa hôm ấy Chí được săn sóc bởi đôi bàn tay của thị. “Hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho.” Bởi xưa nay hắn toàn phải cướp giật hoặc dọa nạt chứ nào ai cho không hắn cái gì ấy vậy mà thị lại giàu tình thương, sự cảm thông chia sẻ và quan tâm để làm điều đó cho hắn. Hắn cảm động vô cùng. Giọt nước mắt hạnh phúc được trở lại làm người đã chảy ra, hắn đã thực sự cảm nhận được mùi vị của tình người. Thị chính là hiện thân của tình người với bát cháo hành là liều thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn bị sứt mẻ, bị bóp méo bấy lâu của Chí.
Hắn đối với thị hiền lành biết bao “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?” Giờ đây hắn khao khát được làm người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” Nhà văn đã cho ta thấy khao khát hoàn lương một cách khẩn thiết và rõ rệt trong con người Chí, hắn đã đặt tất cả hy vọng và niềm tin vào thị Nở. Thị chính là cầu nối để Chí hòa nhập với mọi người và trở về với xã hội của những tấm lòng lương thiện. Chí muốn quay lại làm một người bình thường sống cuộc sống bình dị như trước đây chấm dứt những tháng ngày đen tối và tội lỗi.
Cũng như bao người khác khi nhận thức được giá trị của bản thân Chí khao khát có một hạnh phúc gia đình “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” Đây là một lời gợi ý cho một cuộc sống mới cũng là một lời tỏ tình rất bình dị với sự bẽn lẽn của một anh canh điền hiền lành chất phác. Trong con mắt của kẻ say tình những điều xấu xí nhất của người đàn bà xấu xí như thị đối với Chí lại trở nên đáng yêu và có duyên “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”. Nam Cao để cho con mắt của một kẻ lưu manh tha hóa biến thành con quỷ dữ nay trở lại làm người lại nhìn thấy vẻ đẹp tiềm ẩn trong thị bị xã hội vùi lấp không nhìn thấy. Người đàn bà ấy tuy vẻ bên ngoài “Xấu ma chê quỷ hờn” bởi dòng giống con nhà mả hủi lại có tấm lòng nhân hậu và tình thương ngập tràn dành cho Chí. Năm ngày bên nhau của đôi lứa ngắn ngủi trôi qua trong những phút giây hạnh phúc, Chí trong khoảng thời gian ấy được sống là chính mình. “Hắn không còn kinh rượu nhưng cố uống thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo để yêu nhau.” Chí đã ý thức được rằng mình có gia đình và cần phải chăm lo cho điều ấy. Đáng tiếc thay thị lại là một người dở hơi đem câu chuyện tình về hỏi ý kiến của bà cô già gây ra bi kịch bị cự tuyệt làm người cho Chí bởi định kiến xã hội.
Như vậy tâm trạng nhân vật chí Phèo sau khi gặp Thị Nở đã được nhà văn miêu tả chi tiết tỉ mỉ đi sâu vào ngóc ngách trong tâm hồn để khám phá ra những điều mới mẻ trong nhân vật. Nhưng giá trị nổi bật nhất của Nam Cao làm nên thành công của tác phẩm là ở chỗ: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay trong khi họ đã bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.
Bằng tài năng miêu tả nội tâm nhân vật tài ba, Nam Cao đã đưa người đọc bước vào thế giới tâm hồn phức tạp của Chí Phèo trong những ngày “hồi sinh” ngắn ngủi sau khi gặp Thị Nở. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống thường ngày của người nông dân được nhà văn sử dụng một cách khéo léo, góp phần làm nổi bật giá trị nhân đạo cao đẹp của tác phẩm. Qua đó, Nam Cao khẳng định bản chất lương thiện và khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Dù bị tha hóa bởi xã hội, Chí vẫn luôn khao khát được sống lương thiện, được yêu thương. Chỉ cần được “thắp sáng” bởi ngọn lửa tình người, dù chỉ là le lói, Chí đã bừng tỉnh và khao khát được sống mãnh liệt. Tác phẩm còn mang đến bài học sâu sắc về sức mạnh cảm hóa của tình thương. Chỉ có tình thương mới có thể xoa dịu những trái tim chai sạn, cô đơn. Qua đó, nhà văn kêu gọi mỗi người hãy biết yêu thương, chia sẻ, cảm thông cho nhau để cuộc sống thêm ấm áp và hạnh phúc. Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương.
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở bài số 2
Trong vườn văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, Nam Cao là đóa hoa nở muộn. Trước Nam Cao, ta đã có những Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,… Tuy là cây bút đến sau, nhưng Nam Cao vẫn kịp có cho mình những tác phẩm xuất sắc, phản ánh rõ hiện thực xã hội đương thời, lên án, vạch trần những cái xấu xa, những cái lầm than trong những kiếp người. Tiêu biểu có thể kể đến truyện ngắn “Chí Phèo” – tác phẩm làm nên tên tuổi nhà văn. Tác phẩm viết về bi kịch của người nông dân Việt Nam và đánh dấu một bước phát triển đáng kể của văn xuôi Việt Nam. Trong đó, chi tiết để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng người đọc có lẽ là diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở.
Người nông dân Việt Nam với bi kịch tha hóa bước vào trang sách Nam Cao, trở thành Chí Phèo, rồi Chí Phèo lại từ trang văn Nam Cao bước ra, phản ánh biết bao số phận lầm than ngoài đời thực. Với bút pháp xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao khiến cho nhân vật sống động tới nỗi chỉ cần nghe tới tên Chí Phèo, trong đầu ta lập tức hiện ra hình ảnh anh nông dân lương thiện bị áp bức, dồn ép thành một thằng lưu manh và sau cùng chết trong tức tưởi. Lũ chúa đất và nhà tù thực dân biến Chí từ một chàng thanh niên mồ côi ngờ nghệch phải đi làm thuê ở đợ kiếm cái ăn thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại.
Trông thấy Chí trong hình hài xăm trổ, gương mặt dọc ngang đầy sẹo trong những lần rạch mặt ăn vạ, không tiếc làm chuyện ác, ta ngỡ như Chí Phèo đã tha hóa hoàn toàn, đã biến đổi, dị dạng cả nhân hình lẫn nhân tính, bản chất lương thiện dường như đã bị che lấp hoàn toàn. Thế rồi Nam Cao để Thị Nở đến bên Chí, mở ra cánh cửa lương tri đã bị tội ác của lũ cường hào ác bá đóng vào bấy lâu. Tình cảm chân thành, hành động ngờ nghệch của Thị thức tỉnh Chí, thức tỉnh con người vốn ngủ sâu trong hình hài “con quỷ dữ”. Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình lặng yên chìm trong bóng tối mà luôn vùng vẫy, đấu tranh cho những điều tốt đẹp.
Thị Nở – người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại ngờ nghệch như đứa trẻ, ấy vậy mà sống tình cảm. Bởi vì ngờ nghệch, Thị chẳng sợ Chí như người dân làng này vốn sợ. Thị nhìn hắn với cái nhìn dành cho con người, chứ không phải nhìn một con quỷ như người ta vẫn hay nhìn hắn. Nam Cao đã đặt vào trong hình hài xấu xí của thị một vẻ đẹp tâm hồn sâu kín. Hình ảnh của thị với bát cháo hành nghi ngút khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… hình ảnh ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá!
Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người.
Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa: “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.
Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là Thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho tình cảm mộc mạc của Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một con người. Bát cháo hành chan chứa tình người, thứ tình cảm rất thật, hồn nhiên, không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghỉ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.
Bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành là tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.
Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ “con quỷ dữ” trở lại là người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người”. Mà đã là người, ai chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ. Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự mong muốn xây dựng gia đình với Thị Nở: “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” Chí Phèo và Thị Nở, hai mảnh đời bất hạnh gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, “làm ơn” và “chịu ơn” lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng. Nhưng chỉ được năm ngày. Năm ngày ấy có lẽ là năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí. Sau năm ngày ấy, Thị Nở nhớ ra mình còn một người cô ở đời. Thị phải “đừng yêu để hỏi cô thị đã”.
Nghiệt ngã thay! Chí đã thức tỉnh lương tri, đã trở lại là người, khao khát sống cuộc đời lương thiện, nhưng điều ấy không ai biết. Bà cô Thị Nở lại càng không biết. Bà nghe cháu gái nhắc đến Chí Phèo thì xỉa xói ngay vào mặt cháu gái rằng lấy ai không lấy lại đi lấy thằng Chí Phèo, một thằng “không cha, suốt ngày chỉ có một việc là rạch mặt ăn vạ”. Thị Nở uất lắm. Bao nhiêu uất giận ấy Thị trút cả vào Chí, từ chối sự níu kéo của Chí, rồi vùng vằng bỏ về. Những lời nói và hành động của Thị Nở như cái tát vào mặt Chí Phèo, khiến hắn nhận ra bi kịch đời mình. Hắn không còn cái cơ hội được trở lại làm con người nữa. Người ta xem hắn là “con quỷ”, hắn mãi mãi là thằng Chí Phèo gieo rắc bất hạnh lên cuộc sống của bao nhiêu con người ở làng Vũ Đại. Người duy nhất xem hắn là người, gần gũi với hắn, cũng quyết tuyệt từ chối hắn.
Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Lương tri và lương tâm đã thức tỉnh không cho phép hắn trở lại làm một con quỷ. Hắn tìm say để lại sống cuộc đời khi trước, nhưng “hơi cháo hành”, hay tiếng gọi của tình người, của lương tri cứ ám ảnh lấy hắn, không cho phép hắn bỏ quên con người đã thức tỉnh. Hắn đi đòi lương thiện. Nhưng chao ôi, còn ai trả lại cho hắn được sự lương thiện ngày xưa nữa? Nhân dạng hắn đã đánh mất từ lâu rồi: những vết sẹo trên mặt đã khiến gương mặt hắn không rõ hình hài là mặt người hay mặt thú. Người ta ghê sợ hắn. Câu hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vang lên trong tức tưởi, phản ánh bước đường cùng của cuộc đời một người nông dân bị tha hóa. Sự bế tắc và bi kịch tột cùng ấy đưa hắn đến nhà Bá Kiến, và sau cùng, đưa hắn đến cái chết đầy đau đớn.
Truyện ngắn khép lại bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thấp thoáng hiện ra cái lò gạch cũ. Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội đã được phơi bày trọn vẹn trong tác phẩm. Thông qua diễn biến tâm lý của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, ta thấy được khả năng xây dựng tâm lý nhân vật tài tình của Nam Cao. Nhà văn thể hiện lòng nhân ái, lòng tin vào trái tim lương thiện của con người trước hiện thực éo le.
Qua Chí Phèo, Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển hình cho người nông dân trước Cách mạng bị bần cùng hóa, lưu manh hóa đến tha hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm – cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở Bài số 3
Số phận khốn khổ của người nông dân là đề tài quen thuộc của văn học hiện thực (1930 – 1945). Là một cây bút, sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, Nam Cao có những tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Không dừng lại ở nỗi khổ sưu cao thuế nặng như các tác phẩm cùng thời “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”, Nam Cao đi sâu vào hiện tượng người nông dân bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân bị tha hóa. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh từ nhân vật Chí Phèo. Đặc biệt là trong những trang văn diễn tả tâm trạng Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở.
Có thể nói, dấu mốc quan trọng nhất tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc đời Chí Phèo đó là cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, từ cố nông lương thiện, Chí bị đẩy xuống và nhấn chìm trong vũng bùn tha hóa. Sau khi gặp Thị, Chí đã vực dậy rũ bùn tha hóa, thức tỉnh hoàn lương. Vậy Thị Nở là ai? Là người như thế nào mà lại có tác động lớn lao đến cuộc đời Chí Phèo như vậy? Theo ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở là người xấu ma chê quỷ hờn, ngẩn ngơ như người đần trong truyện cổ tích. Lại sinh ra trong gia đình nghèo truyền kiếp, có mả hủi. Thị chẳng khác gì con vật lạ. Nhưng Thị lại là người duy nhất trong làng Vũ Đại vô tình, vô cảm ấy đã tự nguyện kết thân yêu thương Chí chân thành. Dĩ nhiên, không phải ngay từ khi gặp Thị, tâm hồn Chí đã thức tỉnh, cái lốt quỷ dữ được lột bỏ. Là một nhà văn am tường sâu sắc tâm lí nhân vật, Nam Cao đã khám phá, miêu tả, phân tích diễn biến nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở một các chân thực, sống động và đầy xúc cảm.
Ban đầu, cuộc chung chạm với Thị Nở chỉ đánh thức bản năng gã đàn ông cho Chí Phèo. Nhưng sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm bản chất lương thiện trong con người Chí thức dậy. Tâm hồn Chí Phèo dần thức tỉnh rồi hồi sinh mãnh liệt. Nhưng ngay sau đó, Chí Phèo lại lâm vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời mình, là bi kịch bị từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm ái ân với Thị Nở, Chí Phèo tỉnh dậy muộn, hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Sau bao nhiêu năm sống trong u mê dằng dặc, lần đầu tiên những cảnh vật, âm thanh của cuộc sống bỗng dội vào tâm hồn Chí tạo nên những vang động sâu xa. Chí thấy nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chèo đuổi cá. Lòng chí bâng khuâng, mơ hồ buồn.
Tỉnh rượu rồi Chí tỉnh ngộ, từ chỗ tê liệt ý thức, Chí bỗng ngộ ra bao điều về đời mình. Chí đã có cái nhìn chính xác về cuộc đời dằng dặc của mình từ quá khứ, hiện tại, tương lai. Nghĩ về những ngày xa xôi, Chí nao nao buồn. Hình như có một thời, Chí ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải… Nhưng ước mơ nhỏ bé giản dị ấy đã tuột khỏi tay Chí từ lúc nào, về phương trời xa xăm nào. Ngẫm về hiện tại, Chí thấy buồn thay cho đời. Chí đã già, đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô độc, trắng tay. Chí không nhà, không cửa, không vợ, không con. Đời chí đâu chỉ là con số 0 tròn trĩnh mà còn là con số âm khủng khiếp, đời Chí chồng chất biết bao nhiêu là tội ác. Tương lai phía trước còn đáng buồn hơn. Chỉ có tuổi già đói rét, ốm đau và cô độc. Và Chí sợ nhất là sự cô độc, mà sợ cô độc nghĩa là Chí thèm khát tình người. Thèm khát tình người đồng nghĩa với việc là tính người đang trở lại trong Chí.
Có thể nói đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí sau đêm gặp gỡ với Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao. Không chỉ dừng lại ở đó, những diễn biến tâm trạng vô cùng phức tạp tinh vi của Chí Phèo đã được nhà văn diễn tả chân thực, chính xác, tài tình đến cảm động. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được bộc lộ sâu sắc mới mẻ và lớn lao.
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở Bài số 4
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm là sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao.
Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng. Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.
Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát… Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say.
Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm… hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau. Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành.
Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí Phèo vừa húp vừa khóc: “thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt”. Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc. Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người. Thế nhưng đối với Chí Phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm.
Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy “thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung…”. Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cũng thị Nở. Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều đó.
Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí Phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ – cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội – lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc.
Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan. Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí “ngẩn người”, “sửng sốt”, “gọi thị lại, nắm lấy tay” nhưng không được.
Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra” và “tỉnh ra, chao ôi, buồn”. Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này”. Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó.
Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù: “Ai cho tao lương thiện ?”,tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân: “Tao muốn làm người lương thiện !” và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn.
Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này. Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đẩy người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết.
Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người. Qua đó, nhà văn gởi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: Hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu “Chí Phèo” trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam.
Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở Bài số 5
Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỷ dữ khi trở về làng. Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng lâng hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này còn nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí.
“Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời.
Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận.
Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình. Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hờn.
Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp. Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nữa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình.
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh – tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở – bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai con người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo – Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.
Phân tích tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở Bài số 6
Nam Cao viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX nhưng đến năm 1941 ông mới khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.
Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh, nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run. Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
Ở một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 7- 8 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ… Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn cảnh khá đặc biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả tâm lí lẫn sinh lí.
Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi trời đã sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo.
Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo…
Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí.
Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát, tuyệt vọng của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì Thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng nguyên vào. Việc làm này của Thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được.
Còn đối với Thị Nở, đây là bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy ân tình và yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo.
Bát cháo hành của Thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon. Hương vị cháo hành hay hương vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo?
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở thành những người lương thiện.
Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có ai nhận ra?
Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Cái hy vọng được sống với Thị Nở, sâu xa hơn là hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt, không chấp nhận, dứt khoát không coi hắn là một con người.
Mùi cháo hành vẫn thoang thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với Thị Nở, đến với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra làm người nhưng không được làm người. Chí vật vã, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về, lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành, càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyết liệt khiến Chí đi đến một hành động đâm chết cả nhà nó. Nhưng nó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là Bá Kiến. Trước đó, Chí không định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà Thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà Thị Nở mà đến nhà bá Kiến.
Khi đến nhà bá Kiến, Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương thiện, đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làn day dứt người đọc: làm thế nào để con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù.
Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu xa đâu phải vì Thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là Bá Kiến. Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi được thì phải trả thù. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người Chí Phèo.
Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này, Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện thực 1930 – 1945.
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở Bài số 7
Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên khai sinh là Trần Hữu Tri sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc, vừa mới mẻ vừa độc đáo. Các sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Nổi bật lên là tác phẩm “Chí Phèo”, tác phẩm là sự kết tinh tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Đặc biệt với biệt tài phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, Nam Cao đã cho mọi người thấy được diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở cho đến hết tác phẩm.
Ngay từ thuở nhỏ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh đáng thương. Vốn là đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, nhờ chén cơm của người làng Chí lớn lên trở thành anh thanh niên tốt bụng, giàu lòng tự trọng. Năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho Lý Kiến rồi bị Lý Kiến hãm hại đẩy vào tù. Ở tù ra, Chí bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, từng bước biến thành tay sai cho Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tưởng rằng Chí Phèo sẽ vẫn tiếp tục với cuộc sống của một con quỷ dữ nhưng không, trong một lần tình cờ gặp Thị Nở, Thị đã đánh thức bản chất lương thiện sâu trong con người Chí.
Trong một lần say, Chí gặp Thị họ đã ăn nằm với nhau rồi cùng say ngủ dưới ánh trăng. Đến nửa đêm Chí đau bụng, Thị dìu hắn vào trong lều đắp chăn cho hắn rồi ra về. Đến sáng hôm sau, cũng như nhiều người say tỉnh dậy, Chí cảm thấy miệng đắng, toàn thân uể oải, chân tay thì bủn rủn. Hay là đói rượu? Nhắc đến rượu hắn thấy rùng mình, người nao nao khó chịu “Hắn sợ rượu giống như những người ốm sợ cơm, tiếng chim hót ngoài kia vui tai quá! Tiếng cười nói của người đi chợ… Những tiếng quen thuộc này ngày nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, chao ôi là buồn!”.
Rồi hắn nghe thấy cuộc đối thoại của mấy bà đi chợ, hắn nao nao buồn bởi chúng nhắc cho Chí một cái gì đó xa xôi. Hình như đã có thời hắn ước mơ một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, một cuộc sống hạnh phúc giản dị được xây dựng bằng chính bàn tay lao động của mình. Tỉnh dậy hắn thấy mình già mà vẫn còn cô độc, buồn thay cho đời! Có lẽ nào? Hắn già rồi ư? Hình như Chí Phèo nhìn thấy trước được cuộc sống sau này của mình ốm đau, đói rét, cô độc, cái này còn đáng sợ hơn tuổi già, ốm đau, đói rét.
Một cách tự nhiên mọi suy nghĩ của Chí lại hướng về thị Nở. Khi thị bước vào với bát cháo hành hắn “ngạc nhiên”, “mắt hình như ươn ướt”. Bởi vì, đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Ăn bát cháo hành được trao từ bàn tay ấm lòng đày tình thương của Thị Nở, hắn cảm động và phục sinh linh hồn. Hương vị bát cháo hành hay hương vị của tình thương và cảm động, hạnh phúc giản dị Chí Phèo được hưởng đã đánh thức bản chất lương thiện vùi dập bấy lâu của mình. Trời ơi! Hắn muốn làm người lương thiện, hắn thèm được lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, mọi người sẽ nhận lại hắn vào cuộc sống lương thiện này. Hắn đặt niềm tin hi vọng vào thị Nở.
Nhưng hi vọng vừa mới hé mở đã đóng lại ngay bởi sự trở lại của lương tri đã đẩy Chí đến đỉnh điểm bi kịch. Chí đã tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của quỷ dữ. Thủ phạm chính là Bá Kiến, nhưng tham gia còn có định kiến xã hội lực lượng không kém phần tàn nhẫn đẩy Chí đến cùng quẫn bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy là bà cô của thị Nở, bà kiên quyết ngăn cản mối tình này làm cho con đường trở lại làm người lương thiện của Chí bị chặn đứng. Chí bị thị Nở cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Đau đớn đến tột cùng Chí mang rượu ra uống nhưng “càng uống lại càng tỉnh”, “tỉnh ra chao ôi buồn”. Chí đã cố níu kéo Thị lại nhưng Thị đã đi, đã đi.
Chí ngồi “ôm mặt khóc rưng rức” và rồi hắn quyết định đi trả thù kẻ mà gây cho hắn ra nông nỗi này. Ban đầu Chí định đi giết chết cả nhà thị Nở, giết con khọm già đã ngăn cản hắn. Nhưng trong tiềm thức Chí nhận ra rằng kẻ đã cướp đi quyền làm người, bộ mặt lẫn linh hồn mình là Bá Kiến chứ không phải ai khác. Thế rồi trong cơn say Chí xách dao đi tìm Bá Kiến, rồi đâm chết Bá Kiến. Chí hỏi đời “Ai cho tao lương thiện”? Trả thù rồi thì sao, sự thật không thay đổi được nữa rồi Chí tự sát, tuy chết mà vẫn uất ức vẫn muốn nói gì đó mà không thốt thành lời.
Qua cái chết bi kịch của Chí chứng tỏ ý thức, nhân phẩm của Chí đã trở lại. Nó thể hiện sự khát khao được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến thực dân tàn bạo không những dồn người nông dân vào đường cùng mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ biến thành thú dữ. Đồng thời, tác giả đã đưa ra lời cầu cứu khẩn thiết: hãy bảo vệ con người, bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân trước những thế lực xấu xa của cuộc sống.
Góp phần tạo nên thành công của tác phẩm, tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Phân tích và miêu tả diễn biến tâm trạng, nội tâm nhân vật tinh tế. Ngôn ngữ tự nhiên, sử dụng khẩu ngữ, giọng điệu đan xen, cách trần thuật linh hoạt. Kết cấu truyện linh hoạt, giàu kịch tính, hấp dẫn.
Tác phẩm “Chí Phèo” là kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại, nó thể hiện trình độ bậc thầy về truyện ngắn Nam Cao. Qua tâm trạng nhân vật Chí Phèo tác giả cho ta thấy rõ bi kịch: “Sinh ra là người mà không được làm người” đồng thời thể hiện rõ khát khao lương thiện của con người và bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.
Diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở bài phân tích số 8
Nhắc đến Nam Cao, ta không thể không nhắc đến một cây bút phê phán hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Với con đường nghệ thuật “vị nhân sinh”, Nam Cao đã mang đến cho đời nhiều tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Chí Phèo”, một kiệt tác khắc họa cuộc sống tối tăm, chật hẹp của người nông dân và bi kịch tha hóa của một kiếp người. Chí Phèo – nhân vật chính của tác phẩm – là một hình tượng điển hình, với cuộc sống đặc biệt và nội tâm phức tạp. Tâm trạng của Chí được miêu tả một cách linh hoạt, và có lẽ nó dâng trào mãnh liệt nhất khi tình yêu thương nhen nhóm giữa Chí và Thị Nở – “tình yêu thiên sử” giữa hai con người cùng khổ.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều tác phẩm văn học viết về tình yêu thiên sử, đó là một tình cảm trong sáng, cao đẹp, nó luôn ẩn náu trong tâm hồn của mỗi con người. Ở nước Anh có vở kịch nổi tiếng về tình yêu Romeo và Juliet, ở Trung Quốc có chuyện tình Quách Tĩnh – Hoàng Dung. Còn ở Việt Nam khi nhắc đến tình yêu thiên sử phải nhắc đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo, tình yêu giữa hai con người không tưởng trong một hoàn cảnh không tưởng.
Những ai đã đọc tác phẩm “Chí Phèo” thì không thể nào quên nhân vật Chí. Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, không cha, không mẹ, bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ bỏ không. Nhờ chén cơm của người làng, Chí lớn lên và trở thành một con người lương thiện với những ước mơ nhỏ bé, bình dị. Năm 20 tuổi, Chí làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến. Vì một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến, Chí bị đẩy vào tù. Sự độc ác của một tên địa chủ khét tiếng với sự dã man của nhà tù thực dân đã làm thay đổi con người Chí. Bảy, tám năm sau Chí ra tù và bị tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Chí trở nên con người quỷ dữ của làng Vũ Đại, Chí uống rượu say, tìm đến nhà Bá Kiến trả thù với sự xảo quyệt của mình Bá Kiến đã biến Chí thành tay sai đắc lực của mình. Từ đây, Chí chỉ uống rượu say rồi chửi cả làng cả xóm, Chí đi cướp bóc, rạch mặt ăn vạ và quẩy phá tất cả mọi người.
Tưởng Chí cứ sống mãi kiếp như thế rồi sẽ chôn thây ở một cái bụi nào đó. Nhưng không, Chí đã thấy được tia sáng dẫn lối của cuộc đời mình. Dưới màn đêm thanh vắng, vầng trăng sáng tỏ làm chứng, Chí Phèo đã gặp Thị Nở – tình yêu thiên sử của cuộc đời mình. Trong buổi đêm ấy, Chí Phèo gặp Thị Nở không chỉ đơn giản là sự va chạm về xác thịt mà nó đã khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng của con người. Một con quỷ của làng Vũ đại cộng với một người phụ nữ xấu nhất làng đã thành một tình yêu kỳ diệu. Kỳ diệu ở chỗ, một con người lưu manh hóa, bị cả làng xa lánh lại có tình yêu. Kỳ diệu ở chỗ, một người phụ nữ ngẩn ngơ, xấu ma chê quỷ hờn lại có tình yêu. Đó là điều kỳ diệu, điều kỳ diệu có thể thay đổi cả một con người.
Quỷ dữ say ngàn năm đã tỉnh dậy sau một đêm, một con người lưu manh đã cảm nhận được cuộc sống. Trước đây, vây quanh Chí chỉ có rượu cay, rượu thơm, rượu nồng. Nhưng giờ đây, Chí tỉnh rượu sau bao nhiêu năm say triền miên. Trận thổ nữa đêm đã loại bỏ hết men rượu trong người Chí, Chí cảm thấy mình tỉnh hơn bao giờ hết. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí nghe thấy những âm thanh của cuộc sống. “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ, lúc nghe tiếng chim bên ngoài đã đủ biết… chim hót ngoài kia vui tai quá! Có cả tiếng cười nói của người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuôi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chẳng có, nhưng hôm nay hẳn mới nghe thấy”. Một người như Chí chỉ có rượu làm bạn mà đã nghe thấy tiếng gọi cuộc sống, đó là một điều kỳ diệu.
Điều kỳ diệu không chỉ có thế, đây cũng là lần đầu tiên Chí biết chiêm nghiệm về cuộc đời mình, “Tỉnh dậy hắn thấy mình đã già mà vẫn còn cô độc”, Chí đã sang con dốc bên kia của cuộc đời rồi mà vẫn còn lẻ bóng. Những người bằng tuổi Chí thì đã có gia đình sum vầy hạnh phúc, cha con quây quần. Nhìn lại cuộc đời, Chí thấy mình đã yêu nhiều, lắm chỗ hư hỏng nặng nề. Chí nhớ rằng, trước kia Chí cũng từng có một ước mơ, có một gia đình nhỏ bé, chồng cuốc mướn cấy thuê, vợ dệt vải. Nhưng vì cái xã hội này mà Chí đã quên đi cái cuộc đời này. Mọi người mới sinh ra không ai là độc ác cả mà chỉ tại cái xã hội tàn bạo này đã biến họ thành một con người khác, bị lưu manh hóa, bị xã hội coi thường, khinh bỉ, xa lánh. Và rồi, thị Nở cũng xuất hiện, thị sang mang cho Chí bát cháo hành nóng hổi, bát cháo hành không chỉ để cho Chí giải cảm mà còn là sự quan tâm bởi tay một người đàn bà. Thị quan tâm, chăm sóc Chí thật tốt, tình cảm của thị gửi đến cho Chí quá đột ngột khiến Chí quá ngạc nhiên “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”.
Cầm bát cháo trên tay hít một hơi dài, húp một mạch đến cạn bát. Chí thấy cháo hành mới ngon làm sao, “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết cháo hành ăn rất ngon”. Giờ đây, Chí tin tưởng rằng thị sẽ làm cầu nối đưa Chí về thế giới bằng phẳng kia, Chí muốn làm người lương thiện. Thế mới biết, sự lương thiện của một con người luôn ẩn náu trong một góc khuất nào đó ngay cả khi họ bị biến thành quỷ dữ. Đương lúc niềm tin dâng trào thì chí Phèo lại rơi vào một bi kịch đau đớn hơn bi kịch lúc đau gấp trăm ngàn lần, Thị Nở cự tuyệt Chí Phèo. Đang lúc tình yêu say đắm, thị Nở thương Chí Phèo, Chí Phèo mến thị Nở mà bà cô thị rắp tâm chia cắt mối tình đẹp. Thái độ của bà cô thị đại diện cho thái độ của những người dân trong làng, họ không thể tiếp nhận lại Chí Phèo, ước mơ của Chí Phèo đã bị dập tắt, rồi cuộc đời Chí sẽ trôi về đâu?
Theo bản tính sẵn có, cứ buồn là Chí tìm đến rượu, uống cho say để quên đi cuộc đời. Lần này cũng thế, Chí lại uống rượu. Rượu luôn trung thành với Chí nhưng giờ Chí càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng buồn. Chí thấy thoang thoảng mùi cháo hành. Trước lúc uống, Chí định bụng sẽ đến nhà Thị Nở giết cả nhà con mụ đàn bà xấu xí ấy nhưng khi có rượu trong người, Chí lại xách dao đến nhà Bá Kiến. Chí đòi sự lương thiện: “Ai cho tao lương thiện”? Chí giết chết Ba Kiến rồi tự sát, Chí chết giãy đành đạch giữa vũng máu, Chí chết bởi Chí không muốn trở lại kiếp quỷ dữ. Cái chết của Chí là sự giải thoát cho mọi đau khổ, cuộc đời Chí đặt dấu chấm hết.
Tâm trạng của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở đã được nhà văn Nam Cao miêu tả rất sâu sắc. Bằng việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như: Miêu tả và phân tích tinh tế diễn biến tâm lí nhân vật, xây dựng được nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, kết cấu truyện linh hoạt , mới mẻ, phóng túng và cả sử dụng ngôn ngữ tự nhiên, giản dị sử dụng khẩu ngữ đan xen cách trần thuật linh hoạt, đã tạo nên một tình yêu thiên sứ giữa thị Nở và Chí Phèo.
Khép lại truyện ngắn “Chí Phèo”, tác phẩm đã thể hiện cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ. Hiện thực ở chỗ đã phản ánh số phận bi thảm của những người nông dân bị áp bức bóc lột trước cách mạng, đồng thời tố cáo chế độ thực dân nửa phong kiến tàn bạo. Còn nhân đạo ở chỗ đã phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của con người ngay cả khi họ biến thành quỷ dữ. “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn học Việt Nam.
-/-
Trên đây là dàn ý và văn mẫu phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở lớp 11 do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp và biên soạn cho các em tham khảo, hi vọng sẽ giúp các em có được một bài văn hay và đạt kết quả cao.
Đừng quên tham khảo trọn bộ văn mẫu lớp 11 hay nhất do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp được nữa em nhé!