Văn mẫu 11

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ được THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp các nội dung liên quan: dàn ý, các bài văn mẫu về cảm thụ bài Chiều xuân

   Cảm nhận bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ là một trong những đề bài phổ biến của bài đọc thêm trong SGK Ngữ văn 11. Tuyển tập Văn mẫu 11 của THPT Ngô Thì Nhậm đã tổng hợp đầy đủ các nội dung quan trọng, hữu ích nhất để học sinh có thể làm được bài văn cảm nhận đầy đủ và cảm xúc hơn.

Cùng tham khảo…

Hướng dẫn làm bài văn cảm nhận bài thơ Chiều xuân

Một số luận điểm chính cần có trong bài cảm nhận Chiều xuân

Luận điểm 1: Cảm nhận khung cảnh bến vắng chiều xuân

Luận điểm 2: Cảm nhận đường đê chiều xuân

– Luận điểm 2: Cảm nhận cuộc sống con người chiều xuân.

Dàn ý ngắn gọn cảm nhận bài Chiều xuân

– Mở bài:

+ Khái quát chung về tác giả Anh Thơ và bài thơ Chiều xuân

+ Nêu khái quát cảm nhận chung về nội dung, nghệ thuật của bài thơ Chiều xuân.

– Thân bài: Triển khai hệ thống các luận điểm đã xây dựng.

+ Cảm nhận khung cảnh bến vắng chiều xuân: mưa lạnh, tiêu điều, vắng vẻ, thiếu sắc màu và ánh sáng

+ Cảm nhận đường đê chiều xuân: có sự chuyển đổi từ tĩnh sang động, từ gam màu buồn sang gam màu xanh “biếc” của cỏ, của sự sống. Cảnh vật vô cùng thân thương và bình yên, độc đáo, nên thơ, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.

+ Cảm nhận cuộc sống con người chiều xuân: Nhịp sống nơi đồng quê khoan thai; niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.

– Kết bài: Nêu đánh giá, cảm nhận riêng của em về bài thơ.

Tham khảo: Soạn bài Chiều xuân – Anh Thơ

Top 3 bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Chiều xuân hay nhất

Cảm nhận bài thơ Chiều xuân mẫu 1

Mùa xuân là mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng là mùa của biết bao nhiêu thế hệ thi sĩ đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số những nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng bình mình xây xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào buổi chiều. Và bài thơ Chiều xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những nét đẹp của mùa xuân vào buổi chiều – vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê hương dịu ngọt.

Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều, bức tranh ấy cũng bắt đầu bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Không gian mở ra trên bến đò xưa cũ và bức tranh mùa xuân hiên lên có sự có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa xuân lan toả trong từng hình ảnh từng chi tiết, từng lời thơ. Đó là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm, chùm hoa xoan tím rụng trên quán nhỏ… Hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ nhẹ êm êm.

Chiều xuân cũng vắng như những buổi chiều, con đò được nhân hóa như biết lười biếng để mặc cho nước trôi lững lờ còn mình thì nằm im lìm trên bến vắng đó. Trước mắt ta là một cảnh tượng hữu tình sông nước bến vắng với con đò. Anh Thơ không phải tìm đâu xa mà những hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơ ấy đã như phô trước mắt chỉ cần một tâm hồn biết cảm nhận là toát lên những lời thơ tuyệt vời. Quán nước cũng lim lìm trong sự vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều vốn tàn tạ nhưng mùa xuân thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh Thơ đã cho ta biết thêm một vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ của mùa xuân nữa. Mọi thứ đều hoạt động một cách nhẹ nhàng phảng phất buồn trong sự vắng lặng của con người.

Sang khổ thơ thứ hai lại là một phiên cảnh khác, không phải là cảnh bến vắng con đò lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những triền đê:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm sao, sắc cỏ dịu dàng tràm biếc cỏ. Sắc màu ấy không rực rỡ không chói chang không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn Mặc Tử, cũng không bàng bạc thời gian như trong thơ Quách Tấn, mà sắc màu ấy là gam màu của cuộc sống được khúc xạ qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu vơ của thi sĩ. Những con sáo đen sà xuống mổ vu vơ, mấy cánh bướm thì chập chờn trong gió, những đàn trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân.

Ở đây ta cảm thấy được nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ quả thật rất hay. Những con số như “đàn”, “mấy”, “những” thể hiện sự nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá đông của những con vật làm đẹp cho bức tranh chiều mùa xuân ấy. Và đặc biệt là hình ảnh cánh bướm thì trôi trước gió, đàn trâu thì ăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi theo nước, ăn cỏ hay uống mưa chứ không ai nói như thi sĩ cả. Những cái vô lý ấy lại trở thành cái có lý thành những hình ảnh nghệ thuật vô cùng đẹp. Nó nhằm thể hiện lên sự dập dìu của thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như đang trôi theo những làn gió nhẹ nhàng ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm những hạt mưa xuân như đang ăn mưa vậy.

Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ chúng ta đến với cảnh xuân trên trong ruộng lúa nước thân quen:

Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những cây lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những con cò chân đứng chân co rồi lại chốc chốc bay vút lên bầu trời kia. Cánh cò cứ bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc chốc bay ra ấy khiến cho những cô gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình ấy thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh những người con gái xưa duyên dáng vơi chiếc yếm trên thân mình gợi cho ta bao niềm liên tưởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu thơ cuối với bốn từ liền nhau đều mang âm đầu là “c”: “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự nhịp nhàng trùng điệp. Những cô gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong trang phục của người xưa mà còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt tươi, cuốc những cây cỏ đang ra hoa kia đi.

Như vậy có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ. Có thể nói ta cảm nhận được sau bức tranh ấy là một tâm hồn thuần phát trong sáng của nhà thơ.

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Xem thêm:

  • Bình giảng bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ
  • Phân tích bài thơ Chiều xuân của tác giả Anh Thơ

Cảm nghĩ của em về bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ mẫu 2

Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Tuy chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên bà rất thích đọc sách và làm thơ. Bút danh AnhThơ xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi nhớ những ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương trong tâm thức của mỗi con người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hoà, gợi nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Nữ sĩ Anh Thơ được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.

Chiều xuân được in trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng, thanh bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.

Buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm nảy sinh cảm xúc và thi hứng của thi nhân. Nhà thơ đã quan sát và lựa chọn những hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để phác họa nên ba bức tranh chiều xuân êm ả, thanh bình.

Bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi với hình ảnh bến sông vắng khách, con đò nằm gần như bất động, quán tranh xơ xác bên chòm xoan rụng đầy hoa tím:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”

Nữ sĩ quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm tưởng nên đã cảm nhận được cái hồn của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối của không gian vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ đến mức như có như không: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Còn quán tranh cũng như thu mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra với tiếng cười, tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng tơi bời trước ngọn gió xuân còn vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín khó nói thành lời.

Bức tranh thứ hai:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.”

Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ sĩ thật thân thương và bình yên. So với cảnh bến vắng đìu hiu ở trên thì cảnh đường đê vui hơn và nhiều sức sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ có một liên tưởng bất ngờ và thú vị: Đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm xuyết vài nét chấm phá của Đàn sáo đen và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác giả có tài quan sát và có sự rung động tinh tế nên nhận thấy cảnh vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.

Thế nhưng bức tránh quê dù đẹp đẽ, thanh bình đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Khung cảnh thực mà giống như trong một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn nổi bật lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh đáng yêu ấy thể hiện chất trữ tình lãng mạn đậm đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất ngờ của Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra khiến cô gái giật mình ngơ ngác là một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô thôn nữ với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm việc giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như thế quả đã làm xúc động lòng người, vẻ đẹp của cô thôn nữ bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho cảnh sắc bình thường, thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Thủ pháp lấy động tả tĩnh đã làm nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.

Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh Thơ tìm cảm hứng từ những khung cảnh binh dị, quen thuộc xung quanh và tỏ ra có thế mạnh ở lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu tóm được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên. Mặc khác, Anh Thơ còn đóng góp cho Thơ mới ở cách dùng từ độc đáo, mới lạ chưa từng có trong thi ca. Đó là những cụm từ mưa đổ bụi, đò biếng lười; rụng tơi bời, mổ vu vơ; Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa… Những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể hiện qua sự duyên dáng, mềm mại của các câu thơ càng làm nổi bật phong cách lãng mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên ả, thanh bình vừa hoà hợp với tâm hồn nữ sĩ vừa gợi nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.

Cảm nhận bài thơ đọc thêm Chiều xuân mẫu 3

Nữ sĩ Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1918, quê ở Bắc Giang. Trong suốt chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mạng bà luôn dành nhiều tình cảm cho quê hương và đã có nhiều bài thơ viết về Bắc Giang. Tôi biết đến nữ sĩ Anh Thơ và bài thơ “Chiều xuân” của bà vào những năm đầu của thập kỷ tám mươi, thếkỷ XX. Làng tôi ở ven sông và cũng có một con đò. Con đường từ bến sông vào làng, cuối mùa xuân rụng đầy hoa xoan tím. Vốn là một cô bé thích học văn từ nhỏ, tình cờ một lần đọc được bài thơ, cho dù chẳng hiểu nhiều lắm, nhưng có lẽ những hình ảnh trong bài thơ đã cuốn hút tôi:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”

(Chiều xuân – Anh Thơ)

Thích thơ của bà, nhưng là thế hệ hậu sinh, sau bà hàng nửa thế kỷ và ở một miền quê cách xa Bắc Giang hàng trăm cây số, tôi không nghĩ có một ngày tôi đã đến quê hương của bà; đã đi trên con đê bà đã từng đi và nghĩ về bà trong một chiều xuân sông Thương “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”. Và nhất là tôi không thể ngờ có một ngày tôi đã được gặp và phỏng vấn bà trong lần bà trở lại thăm Bắc Giang.

Ngay từ những năm 1941 tác phẩm “Bức tranh quê” của nữ sĩ Anh Thơ đã được giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn và tên tuổi của người con gái trẻ làm thơ ở bến sông Thương cũng đã gây xôn xao trên văn đàn từ ngày ấy. Với bài thơ “Chiều xuân”, chỉ bằng một vài nét chấm phá, bà đã tạo được cả một không gian xuân đằm thắm, trữ tình của vùng quê trung du đẹp mà buồn. Sau năm 1945, Anh Thơ đã trở thành một nhà thơ cách mạng. Không chỉ làm thơ cổ vũ, động viên tinh thần cách mạng, bà còn trực tiếp tham gia làm “chị nuôi”, đi quyên góp tiền gạo nuôi quân, từng mặc áo dài lụa vân trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu đoàn quân tiến vào trại phỉ, cảm hoá chúng đi theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ Kể chuyện Vũ Lăng của bà được tặng thưởng của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam. Năm 2001, bà vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Với quê hương Bắc Giang, nữ sĩ Anh Thơ luôn có một tình cảm đặc biệt. Trong các tác phẩm của bà, giống như những cuốn nhật ký phản ánh chặng đường sống, làm thơ và hoạt động cách mạng với những con người bà đã gặp, những con đường bà đã đi qua…, hầu như đều ẩn hiện dáng hình mảnh đất bên dòng sông Thương, nhất là các tác phẩm “Chiều xuân”, “Tiếng chim tu hú”, “Từ bến sông Thương”… Tôi nhớ không rõ lắm, khoảng năm 1993 – 1994. Hôm đó là chủ nhật, được biết hôm ấy vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ sẽ về thăm gia đình bác Phương Minh Nam – lão thành cách mạng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Bắc, là bạn công tác cùng bà từ thời kháng chiến, tôi được cơ quan phân công đến gặp để thực hiện cuộc phỏng vấn đối với bà.

Bản thân tôi cũng thấy xúc động và hồi hộp về cuộc gặp gỡ sắp diễn ra. Với một túi xách nhỏ và một chiếc máy ghi âm khá to khổ khoác trên vai, tôi tìm đến nhà bác Phương Minh Nam ở phố Nghĩa Long – phường Lê Lợi. Cả gia đình bác đang tất bật sửa soạn để đón vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ, bởi đó là lần đầu tiên bà đưa người bạn đời của mình là bác sĩ Bùi Viên Dinh, quê ở Đồng Nai “ra mắt” những người bạn ở Bắc Giang. Nghe ý định của tôi, cả bác Nam và bác gái Nguyễn Thị Uyên đều rất vui và ủng hộ. Khoảng gần 10h trưa thì vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ về tới nơi. Nữ sĩ Anh Thơ với dáng mảnh, cao gầy, tóc chải rẽ ngôi lệch, búi cao, dáng đi nhanh nhẹn, phong cách rất giản dị mà vẫn toát lên vẻ đài các, thanh lịch của trí thức thời xưa. Cho đến bây giờ tôi vẫn cho mình là người may mắn khi được chứng kiến cuộc hội ngộ ấy. Những cái nắm tay thật chặt, những câu hỏi dồn dập về những người bạn cũ, những câu chuyện về ký ức xa xôi, những nụ cười và những giọt nước mắt… cả những câu chuyện tếu đùa vui, cứ như họ còn rất trẻ, cho dù ai cũng đã qua cái tuổi “thất thập cổ lai hy”.

Sợ tôi đợi lâu, bác Nam nói với nữ sĩ Anh Thơ có cô nhà báo muốn được phỏng vấn bà. Có lẽ nữ sĩ cũng hơi bất ngờ vì bà hoàn toàn muốn dành chuyến đi này cho bạn bè nhưng bà vẫn vui vẻ nhận lời. Bà tỏ ra rất vui khi thấy tôi khá thuộc thơ của bà. Qua câu chuyện, nữ sĩ Anh Thơ đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Chiều xuân”, về cảm giác của bà khi biết tác phẩm “Bức tranh quê” được giải thưởng; những thay đổi trong nhận thức của bà khi đi theo cách mạng; nỗi xúc động về những em bé, những người phụ nữ trong kháng chiến mà bà đã gặp…

Đang dở câu chuyện, như chợt nhớ ra, bà gọi bác Uyên hỏi thăm về bà Nguyễn Thị Mùi (nguyên là Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh), rồi bà quay sang tôi, lau nước mắt, xúc động: “Một trong những người tôi luôn kính trọng, cảm phục và thương mến là chị Mùi. Tôi có may mắn hơn chị là ít nhiều còn được học hành, biết chữ. Chị Mùi điển hình là người phụ nữ nông dân giàu nghị lực, luôn nhẫn nại, hy sinh vì cách mạng. Mỗi lần đọc câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Việt Nam – rũ bùn đứng dậy sáng loà !” là tôi lại nghĩ đến chị Mùi”.

Khi tôi hỏi cảm xúc của bà khi trở lại thăm quê hương Bắc Giang. Bà nói: “Tôi đã ở Bắc Giang từ những ngày còn trẻ và có rất nhiều kỷ niệm. Bắc Giang giờ đây đã thay đổi nhiều. Mừng nhất là phụ nữ Bắc Giang ngày càng được tôn trọng, bình đẳng với nam giới”.

Chiều hôm ấy, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã mời vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ giao lưu với các anh chị em văn nghệ sĩ của địa phương. Ban tổ chức đã dành cho nữ sĩ một sự bất ngờ đó là đón cụ Mùi tới cuộc giao lưu. Đang say sưa chuyện văn chương, nhìn thấy cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ ôm chầm lấy cụ òa khóc, khiến ai cũng xúc động. Bà cứ nắm vai, nắm tay cụ Mùi và nói: “Chị Mùi của tôi, người phụ nữ Việt Nam “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” của tôi đây !”.

Cuộc gặp gỡ ấy đến nay đã gần 20 năm. Cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ, bác Phương Minh Nam cũng đã không còn nữa… nhưng mỗi lần nhớ lại, trong lòng tôi vẫn thấy rưng rưng. Chiều nay đi trên đê sông Thương, ngắm cây cầu mới vắt ngang qua sông và tấp nập dòng người đi sắm Tết, tôi vẫn như thấy thấp thoáng bóng bà đi trong chiều xuân có mưa đổ bụi êm êm và đầy hoa xoan tím… Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã hiểu ra rằng chính nữ sĩ với tình yêu thiết tha trong “Chiều xuân” đã nói với thế hệ hậu sinh hãy biết yêu quê hương từ những gì quen thuộc, bình thường nhất như con đò, bến nước, dòng sông… Hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Và phải chăng – đó cũng chính là điều mùa xuân luôn mong chờ!

—–

Trên đây là những gợi ý cơ bản cùng một số bài văn mẫu hay nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ được THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp, hi vọng sẽ giúp cho các em có những bài văn cảm nhận bài thơ Chiều xuân thật hay và ý nghĩa, thấm được những tâm trạng của tác giả trong bài thơ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button