Cảm nhận bài thơ Tương tư – Nguyễn Bính
[Văn mẫu 11] Cảm nhận bài thơ Tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính, những bài văn hay cảm nhận về bài thơ Tương tư ngữ văn lớp 11
Tương tư là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ bình dị của nhà thơ Nguyễn Bính. Bài thơ là xúc cảm nhớ nhung, tha thiết của chàng trai chân quê với nhiều cung bậc cảm xúc chân thực. Để có thể hiểu hết được nội dung sâu sắc trong từng câu thơ trước khi đặt bút viết một bài văn cảm nhận, hãy cùng THPT Ngô Thì Nhậm tham khảo qua một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Tương tư để cảm nhận rõ nét hơn nhé.
Hướng dẫn lập dàn ýcảm nhận bài thơ Tương tư
Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
Luận điểm 2: Khao khát hạnh phúc lúa đôi trọn vẹn
1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Bính và bài thơ Tương tư
– Nêu cảm nhận chung về bài thơ Tương tư
2. Thân bài: Triển khai các luận điểm đã nêu phía trên
Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
– Nỗi tương tư của tác giả:
+ Mượn hình ảnh “thôn Đoài”, “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ của mình.
+ Mượn chuyện nắng mưa của giời để trải lòng mình
+ Coi “tương tư” là một căn bệnh tiềm ẩn trong chính con người mình
-> Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu.
– Sự hờn trách của chàng trai:
+ Mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cớ sao cô gái lại hững hờ.
+ “Cớ sao”: lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu.
=> Chàng trai mang trong mình mối tương tư chẳng biết ngỏ cùng ai, trằn trọc suốt bao đêm, nỗi băn khoăn cứ chồng chất, đợi chờ dai dẳng.
Luận điểm 2: Khao khát hạnh phúc lúa đôi trọn vẹn
– Mượn hình ảnh “cau”, “giầu” thân quen, mộc mạc để diễn tả tình yêu, một đám cưới, một cuộc sống gia đình
– Cách xưng hô cũng thay đổi từ “tôi – em” sang thành “anh – em”
-> Cách xưng hô chỉ sự thân mật, có thể nói là dấu hiệu chứng tỏ mối tình đã quá lớn, sâu đậm và chàng trai muốn trực tiếp giãi bày với cô gái.
3. Kết bài:
– Khái quát lại đánh giá, cảm nhận của em về nội dung bài thơ Tương tư.
Các em cũng có thể tham khảo thêm nội dung soạn bài Tương tư đã học để bổ sung thêm luận cứ chi tiết cho các luận điểm có trong bài.
3 bài văn mẫu cảm nhận bài thơ Tương tư tuyển chọn
Cùng với việc đưa ra những gợi ý cơ bản để các em có thể xây dựng được dàn ý bài cảm nhận chi tiết cho riêng mình, THPT Ngô Thì Nhậm cũng đã sưu tầm và gửi tới các em tham khảo một số bài văn mẫu cảm nhận bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính sau đây:
Bài văn đạt điểm cao cảm nhận bài thơ Tương tư
Kề vai bên những áng thơ mới tuyệt tác từ Xuân Diệu, Thế Lữ hay Huy Cận,… người ta vẫn chẳng thể nào quên được những bài thơ mộc mạc, “Hương đồng gió nội” của Nguyễn Bính. Tình yêu trong thơ của ông luôn đỗi ngọt ngào, trầm lắng tựa như chính tâm hồn tác giả. Bài thơ “Tương tư
” trong tập “
Lỡ bước sang ngang
” đã phần nào thể hiện nên những dòng chảy tâm sự của một kẻ đang yêu đơn phương với biết bao cảm giác nhớ thương, mong mỏi.
Người đời đã nói, người đau khổ nhất trong tình yêu chính là kẻ yêu đơn phương. Khi yêu, con người ta cầu mong luôn được ở cạnh người thương, được kề vai gần gũi, tâm sự. Những người đang yêu nhau mà không được gặp nhau thì sinh ra “bệnh tương tư”. Chàng trai trong bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính đang ngày đêm nhớ thương một người mà chưa được hồi âm. Bởi thế bốn câu đầu tiên trong bài đã bộc lộ ngay những cảm xúc khắc khoải đang chất đứa đầy trong lòng chàng trai:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…”
Giữa những chốn không gian bình dị, hiền hòa và yên bình, tác giả mượn “thôn Đoài” với “thôn Đông” tựa như giữa ta với nàng, để giãi bày những cảm xúc từ tận sâu đáy tim mình. Phải chăng người thương của tác giả đang ở tận chốn thôn Đông, còn ta ngồi đây nhớ mong đến nàng. Đôi chốn thôn quê yên ả đang ấp ủ, vun vén cho một tình cảm đẹp nảy nở trong lòng nhà thơ.
Thủ pháp nhân hóa tiếp tục được sử dụng trong hai hình ảnh “mưa”, “nắng”. Sau cơn mưa trời sẽ hửng nắng, cũng như bệnh tương tư thường khó tránh khỏi trong tình yêu. Tác giả mượn chính những công việc của tạo hóa để giải thích cho bệnh tương tư của mình. Căn bệnh ấy là rất đỗi bình thường tựa như quy luật của đất trời khi người ta đang muốn đắm chìm trong nhớ thương. Đặc biệt, trong cả hai dòng thơ thứ ba và thứ tư đều có hệ từ “là”. Nó tạo nên một phép so sánh hoàn toàn có cơ sở giữa căn bệnh tương tự với tự nhiên.
Cái “tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với “nàng”. Không còn chút e ấp ngại ngùng che giấu tình cảm, cũng chẳng cần gọi “nắng” gọi “mưa” để ví von tình cảm, nhân vật tôi hiện lên một cách rõ rệt cùng với những cảm xúc tưởng chừng muốn bùng nổ, để cho “nàng” biết rõ được tình cảm của mình vậy. Yêu nhau chẳng thể tránh những cảm xúc giận hờn, băn khoăn:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Đôi ta tuy hai thôn nghe chừng xa xôi, ấy nhưng lại chỉ chung một làng. Khi lòng ta muốn hướng về nhau thì dù xa xôi cách trở cũng sẽ sẽ hòa chung lại làm một. Hai con người nhưng nếu chung một tấm lòng yêu thương, sẽ muốn hướng tới một mái ấm gia đình. Và ngôi làng ấy sẽ là nơi chúng ta vun vén cho ngôi nhà chung của đôi trai gái. “Cớ sao” được thốt nên mang hơi hướng hờn dỗi, băn khoăn. Hiển nhiên, bên này rất muốn được “chung” với bên ấy nhưng bên kia lại quá hờ hững. Việc tưởng chừng như rất thực tế, giản đơn lại chứa muôn trùng xa cách bởi lòng người.
Những lời than thở tương tư lại tiếp tục tuôn trào qua những câu thơ tiếp theo:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Đây có thể nói là đôi dòng thơ thành công nhất trong bài thơ Tương tư để miêu tả chân thực nhất quy luật bất biến của tình yêu đơn phương. “Ngày qua ngày” lặp lại tựa như những cảm xúc đợi chờ đến vô vọng. Thời gian trôi đi càng khiến người ta sốt ruột, khó chịu vì đợi chờ hồi âm.ở câu thơ bát tiếp theo cũng có sự ngắt nhịp bất thường, nhịp ngắt ba “lá xanh nhuộm” cùng năm từ “đã thành cây lá vàng” càng khắc sâu cảm giác đợi chờ mòn mỏi. Tự thuở nào lá cây còn xanh non mơn mởn giống như những tình cảm chớm nở lúc mới yêu thế mà giờ đây, theo tháng năm đã phai tàn thành cây “lá vàng”. Bệnh tương tư còn nhuộm cả màu của tình yêu. Như Nguyễn Du đã từng viết:
“Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”
hay
“Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
Tâm hồn của con người cũng luôn đồng điệu với thiên nhiên vậy. Lòng đã không vui thì cảnh có đẹp đến nhường nào cũng hóa làm vô vị.
Trạng thái tâm lý tiếp theo mang chút hờn trách xa xôi:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!“
Khi yêu đơn phương là chỉ dám ngắm nhìn người thương từ xa, nào có dám bộc lộ cho hết nỗi tâm tình trực tiếp với cô gái ấy. Nối thầm cho vơi bớt nỗi lòng nhưng lại cứ ngỡ cô gái mình yêu sẽ có thể hiểu thấu. Thôn Đoài cùng với thôn Đông chung một bến nước cây đa, cùng gọi tên chung một làng. Nào có cách trở xa xôi như “cách trở đò giang”, ấy vậy mà ta cũng chẳng thể nào gặp nhau cho trọn vẹn để nói hết tâm tình. Chẳng qua cái tình còn xa, đối phương còn chưa biết được tình cảm của ta nên khiến cho mình vẫn phải cách trở, tương tư nhau. Đã thao thức biết bao đêm, đã khiến cho lá cũng úa màu, cho lòng mình bạc thương nhưng hỡi ai biết cho ngoài lòng mình.
Câu hỏi “biết cho ai hỏi ai người biết cho” chỉ góp vào một lời than thở hờn mát như để xoa dịu lòng người đôi chút. Vậy nên chàng trai sẽ vẫn luôn hy vọng mộng mơ về một tương lai không xa rằng:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
“Bến” – “đò”, “hoa khuê các” – “bướm giang hồ” đều là những hình ảnh thường được mượn để nói đến quan hệ lứa đôi. Trong thơ Xuân Quỳnh, bà đã dùng hình ảnh của “thuyền“ và “biển” để nói lên nỗi nhớ thương của các cặp đôi, thì với Nguyễn Bính, đò cập bến, bướm tìm đến hoa thơm là những điều tự nhiên, chẳng bao giờ đổi thay. Chỉ tiếc là thời điểm cho những việc ý biết bao giờ cho đến, quả là một mơ tưởng, hẹn ước xa vời.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
Người ta thường nói ”Miếng trầu là đầu câu chuyện” khi có dịp thưa gửi, cưới xin. Vậy nên, tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi – nàng” thành “anh – em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.
”
Tương tư
” của Nguyễn Bính đã diễn tả gần gũi nhất những cung bậc cảm xúc của chàng trai đang rơi vào tình đơn phương. Những tâm sự, nhớ nhung, biết vô vàn những lời muốn nói đều được Nguyễn Bính sắp đặt rất tuần tự, tự nhiên và hợp lý. Chẳng ai có thể ngăn cản được tình yêu đến, dù là những cảm xúc hờn dỗi, than thở hay trách than cũng đều thật đáng nhớ trong cuộc đời.
Có thể bạn quan tâm:
- Bài văn cảm nhận 4 câu thơ đầu bài thơ Tương tư
- Cảm nhận vẻ đẹp dân gian được thể hiện trong bài Tương tư của Nguyễn Bính
Những bài văn hay và cảm xúc nói lên cảm nhận bài thơ Tương tư – Nguyễn Bính
Cảm nhận bài thơ Tương tư mẫu số 1:
Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ – thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945… cái tình say đắm, cái tình thoảng qua; cái tình gần gũi, cái tình xa xôi…, cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.
Con người lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã thao thức chín nhớ mười mong người thương ròng rã suốt mấy đêm rồi, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng… Theo đạo lí quân tử tu, tề, trị, bình Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá… Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính trong bài Tương tư
chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm chín nhớ mười mong hay do sự cải lí cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu thương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước – Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi – Huy Cận) hoặc não lòng hơn: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ – Lạc giữa niềm êm chẳng bến bà – Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá – Hai người nhưng chẳng bơ va (Trăng – Xuân Diệu); mà sức cuốn hút chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu – giọng) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.
Chúng ta đều rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển: thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt… và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyển đậu Thám hoa – Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể…
Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này – như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu Âu thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm đến dân ca mới thấy được thơ chân chính.
Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muôn cạn tàu ráo máng… Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định… Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy – cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc – đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:
Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có trong tình huống:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt không khô.
Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em? Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng.. trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc:
Tiếc công anh đắp đập be bờ.
Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm,
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan…,
Hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài…,
Quá nữa là:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa…,
Và trạng thái thông thường của họ là:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ…
sầu nhớ quá, nhưng… còn nhiều việc phải làm.
Tình yêu không thể là cứu cánh duy nhất!
Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò. với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?… và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo – linh hồn anh thất thểu dõi hồn em… như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh- ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị – Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính.
Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng… đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu – Tình em lẳng lặng kia như buồng tằm (Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày – Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền – Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người – Anh còn trồng cải nữa hay thôi? – Đêm qua mơ thấy hai con bướm – Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi – Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng – Hồn trinh còn ở trần gian – Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)… và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Chả trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi…
Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn (thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn…) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.
Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho…).
Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu…
Trong bài
Tương tư
, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau… ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn… là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lụa sồi, áo đồng lầm, quần lĩnh tía… nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương đồng gió nội và dưới bầu “Giời cao gió cả giăng như ban ngày”…
Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước: Nếu các thi nhân ta đủ sức chân thành để kể thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.
Cảm nhận bài thơ Tương tư mẫu số 2:
Nguyễn Bính là thi sĩ của đồng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới tạo ra được từng chữ, từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỉ đề thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để bàn luận đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất thôn quê của Nguyễn Bính, chúng ta không thể nào không nhắc đến Tương tư.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn đương thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu. Nhưng cách biểu hiện thì theo một lối riêng của chính ông. Trong khi các nhà thơ lãng mạn hướng về phương Tây, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thì Nguyễn Bính hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính bắt đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người”
Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư
cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.
Nỗi nhớ ấy chính là tương tư, chính là biểu hiện của tình yêu! Đến hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định đó chính là tình yêu! Vì yêu nên mới “chín nhớ mười mong”, vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:
“Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Đến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hóa cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
“Một người chín nhớ mười mong một người
”
“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Có lẽ đây chính là hai câu thơ được nhiều người nhớ nhất, nhiều người nhắc tới nhất của Tương tư. Bởi nó không chỉ là tâm trạng của chàng trai thôn quê trong riêng Tương tư mà còn là nỗi niềm chung của biết bao chàng trai đang yêu khác, câu thơ như nói thay tâm tư của họ.
Thương thầm nhớ trộm, đơn phương vẫn biết “quyền được yêu” của con người, nhưng đã đơn phương thì lấy quyền gì trách móc? Tình yêu đôi khi phi lí như vậy:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Đọc câu thơ, ta thấy tội nghiệp cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng là nàng “Thôn Đông” đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài mười mong chín nhớ đến độ tự hờn giận vu vơ lại thấy thật tội nghiệp, đáng thương. Đáng thương nhất không phải tình cảm không được đáp lại mà là ngay cả mình thích người ta cũng không để người ta biết, không dám để người ta biết, chỉ biết lặng lẽ nhớ mong rồi chờ đợi vào hai chữ “vô tình”.
Rõ là chung làng, không gian gần thế mà sao cái “chung” đã không chung được thì thời gian càng đằng đẵng, nỗi chờ mong càng vò võ:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Cách sử dụng láy chữ “ngày qua ngày lại…” như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết “mùa qua mùa lại…” mà phải viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đến vàng vọt cả “lá xanh” hay là héo úa cả tuổi xanh?
Trong tình yêu, sợ nhất là chờ đợi, mà lại còn là không biết sẽ chờ đợi bao lâu. Bởi thế mới càng nhớ nhung, càng nhớ càng sinh ra bứt rứt, vu vơ hờn giận:
“Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho”
Hết trách móc lại chuyển sang kể lể, than thầm. Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có “ai” biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Những từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ “ai” gợi nhớ những từ “ai” trong ca dao:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”.
Than thầm, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương vốn xưa nay chẳng mấy ai vui. Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng, sự chờ đợi khiến trái tim tình si thêm khao khát, lại nhuốm thê lương:
“Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng bến và đò, hoa và bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái, biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại “Bao giờ bến mới gặp đò”? Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch? Cho nên cứ trách “cớ sao bên ấy chẳng sang”, rồi “không sang là chẳng đường sang đã đành”, rồi “tình xa xôi”. Lại nữa “hoa khuê các” làm sao gặp “bướm giang hồ”?
Rõ ràng là Nguyễn Bính đã thổi vào hoa – bướm của dân dã một chút tình lãng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa có cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút “khó hiểu của thời đại” như Hoài Thanh từng nói. Thực chất, sâu trong thâm tâm, dẫu trái tim tình si có yêu thương, nhớ nhung mãnh liệt nhưng vẫn cảm nhận được sự vô vọng, mộng tưởng xa xôi. Thế mới là tương tư, thế mới chỉ biết tương tư, thầm sầu, thầm trách trong đơn phương vô vọng.
Cuối bài thơ, nhịp thơ trở về với giai điệu ban đầu, câu thơ chỉ khác ở chỗ có thêm một vài biến tấu:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Câu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu – cau. Dẫu trầu cau là biểu tượng kết đôi, lứa đôi hạnh phúc nhưng dẫu có trầu, có trầu, có cau thì cũng chỉ là nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao “đỏ với nhau được” như ca dao:
“Miếng trầu với lại quả cau
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm”
Ấy thế mới lại càng khắc khoải không yên, càng tương tư day dứt. Tương tư là nỗi nhớ mong, mà nhớ mong thầm kín, đơn phương thì há chẳng phải là thất tình? Bởi thất tình mới cứ mãi vấn vương không dứt, cứ buồn man mác mà chẳng biết ngỏ cùng ai, chỉ biết thốt lên dăm bảy câu thơ tỏ lòng cùng nỗi nhớ, có trách móc, hờn giận đấy, mà là “giận thì giận mà thương càng thương”.
Thơ Nguyễn Bính chở đầy tình quê, hồn quê, thắm đượm cái chất “hương đồng gió nội”. Bởi vậy, thơ Nguyễn Bính thành ra lạ so với trường phái thơ lãng mạn đương thời. Sức hấp dẫn của Tương tư không chỉ là ở chuyện tình yêu lứa đôi mà còn ở tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương, với người với cảnh, ở sự nâng niu trân trọng của nhà thơ đối với nghệ thuật dân tộc, ở lối tư duy thơ đậm màu sắc dân gian, mỗi câu thơ đều đượm sắc ca dao dân ca mộc mạc, thuần túy. Quả là một hồn thơ quê thanh khiết, bình dị mà đằm thắm, sắc son hiếm có!
-/-
Trên đây là bài văn mẫu 11 cảm nhận bài thơ Tương tư của tác giả Nguyễn Bính mà THPT Ngô Thì Nhậm sưu tầm được. Hy vọng với những chia sẻ này, sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em tham khảo, qua đó bổ sung cho mình thêm vốn từ ngữ cũng như mở rộng được nội dung làm bài. Chúc các em học tốt môn văn mẫu lớp 11.