Văn mẫu 10

Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày

[Văn mẫu 10] Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày về việc xử kiện lạ lùng của một tên lí trưởng qua đó phê phán thói ăn bẩn của kẻ quyền thế.

Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày với việc xử kiện lạ lùng của một tên lí trưởng, qua đó dùng tiếng cười trào phúng để phê phán thói ăn bẩn của kẻ quyền thế. Xem ngay bài hướng dẫn dưới đây của THPT Ngô Thì Nhậm để chuẩn bị tốt cho đề bài này các em nhé!

Đề bài: Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày.

——————-

Kiến thức cần nắm về tác phẩm Nhưng nó phải bằng hai mày

– Đối tượng gây cười: Lí trưởng, Cải, Ngô

– Mâu thuẫn gây cười:

+ Cải, Ngô đi kiện nhưng sợ thua, đút lót

+ Viên Lý trưởng xử kiện gỏi nhưng phán người nhiều tiền hơn thắng

– Ý nghĩa phê phán:

+ Lên án thói tham nhũng của quan lại

+ Lên án người nông dân tự đẩy mình vào tình huống bi hài

– Biện pháp nghệ thuật:

+ Tạo tình huống gây cười

+ Kết cấu ngắn gọn giàu kịch tính

+ Ngôn ngữ lời nói: lối chơi chữ

+ Ngôn ngữ cử chỉ

>> Chi tiết xem thêm nội dung soạn bài Nhưng nó phải bằng hai mày

Top 4 bài văn hay phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày

Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày – Bài mẫu số 1

Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời cùng lúc với những câu ca dao tục ngữ, được lưu truyền qua những cuộc trò truyện giải trí. Những mẩu truyện cười dân gian như món ăn tinh thần mang lại tiếng cười giòn giã mà không kém phần sâu xa với người nông dân. Truyện cười: “Nhưng nó phải bằng hai mày” kể lại câu chuyện hài kịch xử kiện thắng thua của Cải với Ngô với người xử kiện là Lý trưởng.

Truyện được tạo ra như một màn kịch nhỏ với sự xuất hiện của ba đối tượng gây cười: Lí trưởng, Cải và Ngô. Sự việc được kể rất ngắn gọn: Cải với Ngô đánh nhau, rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng và thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Khi Cải thắc mắc, thầy lí xoè bàn tay và nói: “Nhưng nó phải bằng hai mày”. Truyện kết thúc ở đó và để lại nhiều tiếng cười thâm thuý.

Tiếng cười ấy có lẽ được bật lên từ mâu thuẫn gây cười mà tác giả dân gian tạo ra. Cải và Ngô đi kiện nhưng lại sợ bị thua mà đút lót cho lí trưởng. Viên lí trưởng được nói: “Xử kiện giỏi” mà phán người nhiều tiền hơn thắng. Mâu thuẫn trái ngang giữa những nhân vật tạo cho người đọc tiếng cười vui vẻ.

Tình huống được tạo ra cũng hết sức hợp lý, tài tình. Cải và Ngô đánh nhau, cả hai cùng đi kiện. Khi đi kiện, cách ứng xử của hai người giống nhau, đều đút lót. Cải lót Năm đồng, Ngô biện chè Mười đồng. Chính cách ứng xử này bộc lộ rõ bản chất của cả hai. Có gan đi kiện nhưng không dám đối chứng công bằng, không trung thực. Đây cũng là hiện trạng bấy giờ của nhiều người nông dân lao động. Tác giả dân gian qua Cải và Ngô để thấy được bản chất tính cách không trung thực của bộ phận không nhỏ người nông dân thời đó.

Khi thầy lí xử kiện, phán Cải thua, phạt mười roi, ngay tức thì nhân vật có phản ứng và ứng xử. Cải biện minh xoè năm ngón tay. Thầy Lí xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay phải và nói: “Tao biết. Nhưng nó phải bằng hai mày”. Ngay tại hành động và lời nói của thầy lí đã đẩy kịch tính của truyện lên cao trào và đồng thời mở nút thắt, làm bật lên tiếng cười sảng khoái. Cũng chính tại đây, bản chất được bộn lộ. Cải thì nhắc khéo, gian lận còn ông Lí được nói là sự kiện giỏi kia thì tham nhũng, bị đồng tiền mua chuộc. Đến đây người đọc không chỉ cười mà còn thấy bất bình thay. Hoá ra xã hội phụ thuộc vào đồng tiền. Quan lại thời đó tham nhũng, bị mua chuộc bởi đồng tiền mà chẳng biết phân biệt đúng sai, xử thắng thua dựa vào giá trị đồng tiền.

Truyện cười: “Nhưng nó phải bằng hai mày” tạo nên tiếng cười sảng khoái bởi những mâu thuẫn mà tự nhân vật tạo ra. Xã hội phong kiến với những mâu thuẫn sâu sắc về giai cấp khiến cho truyện cười được ra đời tự nhiên để không chỉ là tiếng cười giải trí mà còn là lời phê bình, lên án sâu sắc tầng lớp giai cấp trong xã hội để với ước muốn cải tạo xã hội tốt đẹp. Đúng như quy luật, đặc điểm của truyện cười, “Nhưng nó phải bằng hai mày” với kết cấu ngắn gọn, súc tích, giàu kịch tính ngôn ngữ lời nói, ngôn ngữ cử chỉ đa dạng không chỉ đem lại tiếng cười sảng khoái mà đồng thời lên án những thói hư tật xấu, tham nhũng của quan lại, phê phán người nông dân tự mình đẩy mình vào tình huống bi hài.

Qua truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” tác giả dân gian với những tình tiết đơn giản đã để lại cho người nghe, người đọc tiếng cười vui vẻ và những cái nhìn mới về xã hội phong kiến Việt Nam một thời.

>> Tham khảo dàn ý phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày

Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày – Bài mẫu số 2

Truyện trào phúng thường mượn tiếng cười để phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. “Nhưng nó phải bằng hai mày” miêu tả cuộc xử kiện của Lí trưởng với Ngô và Cải, qua đó phê phán thói ăn hối lộ của những người làm trong bộ máy chính quyền. Tiếng cười của truyện vì thế càng sâu cay, thấm thía hơn bao giờ hết.

Tác giả dân gian mở đầu truyện bằng việc giới thiệu nhân vật lí trưởng, đó là người đại diện thực thi pháp luật và “nổi tiếng vì xử kiện giỏi”. Cải là người lao động nghèo được phân xử trong vụ kiện với Ngô, lo lót hối lộ cho lí trưởng mong thắng kiện. Mâu thuẫn truyện đã bắt đầu dồn nén khi lí trưởng nhận tiền của cả hai người, lúc này người đọc mong đợi người được cho là “xử kiện giỏi” sẽ xử trí ra sao. Thế nhưng, cách xử lí của thầy lí lại khiến chúng ta hoàn toàn bất ngờ, ông không hỏi cung, không điều tra phân tích mà kết án và đưa ra phán quyết chắc nịch: phạt đánh Cải chục roi. Từ một người chủ động dàn xếp và chắc chắn sẽ được xử thắng kiện, Cải bỗng rơi vào tình huống bị động và bị xử thua.

Lúc này, màn kịch giữa Cải và Lí trưởng diễn ra có sự kết hợp giữa hành động và ý ngầm ẩn. Tưởng thầy Lí quên, Cải vội tìm cách xin xét lại và ra dấu bằng hành động xòe năm ngón tay để nhắc nhớ Lí trưởng rằng mình đã lo lót. Thế nhưng cũng chẳng kém cạnh, Lí trưởng phán “nó phải bằng hai mày” và xòe năm ngón tay trái để úp lên năm ngón tay phải một cách rất đường hoàng. Trong màn kịch này có hai thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ công khai và ngôn ngữ mật mà chỉ người trong cuộc mới có thể hiểu được. Lẽ phải của Cải chính là năm ngón tay xòe, tức năm đồng thầy lí đã nhận. Thầy Lí hiểu lẽ phải của Cải, nhưng hành động và lời nói của thầy ngầm chỉ lẽ phải của Ngô còn gấp đôi Cải, tức mười đồng thầy lí nhận được. Lẽ phải trong xã hội, đặc biệt với những người thực thi pháp luật như lí trưởng không phải xuất phát từ công lí mà xuất phát từ đồng tiền, kẻ nào hối lộ nhiều hơn thì kẻ đó nắm trong tay nhiều lẽ phải hơn.Tác giả dân gian đã tố cáo một cách khéo léo bản chất tham nhũng của quan lại địa phương qua hành động và hàm ý của viên lí trưởng.

Truyện sử dụng hình thức gây cười bằng việc sử dụng lối chơi chữ độc đáo. “Phải” vốn là từ chỉ tính chất mang nghĩa là lẽ phải. Thế nhưng khi kết hợp với từ chỉ số lượng “phải bằng hai” tạo ra nhận thức về sự bất hợp lí, tuy nhiên khi nghĩ đến số tiền là mười đồng của Ngô gấp đôi năm đồng của Cải, người đọc lại thấy hợp lí vô cùng. Tiếng cười bật ra sau khi người đọc nhận ra ý nghĩa của việc chơi chữ ấy. Tác giả dân gian còn sử dụng nghệ thuật tương phản, đó là sự đối lập giữa lời đồn đại và thực tế xử kiện của viên lí trưởng. Qua việc tạo tiếng cười, nhân dân ta gián tiếp phê phán thói hối lộ của quan chức và phê phán Ngô và Cải vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của chính mình. Hành động đút lót của họ vừa đáng thương nhưng cũng đáng trách, đáng thương bởi họ tự đẩy bản thân vào ngõ cụt, đáng trách bởi họ chính là người tiếp tay cho nạn tham những hoành hành.

“Nhưng nó phải bằng hai mày” đã vạch trần lối xử kiện vì tiền của lí trưởng nói riêng, quan lại nói chung và người lao động cũng rơi vào tình trạng bi hài. Bài học ấy không phải chỉ thời xưa mới có, trong bất cứ thời đại nào, đó cũng là một bài học đắt giá cho mỗi chúng ta.

Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày – Bài mẫu số 3

Kho tàng truyện cười Việt Nam cực kì phong phú về đề tài, được chia làm hai loại là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí là chính, tuy vậy nó vẫn có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Truyện trào phúng có mục đích đả kích, phê phán, đối tượng phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội phong kiến xưa kia. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu thường thấy trong cuộc sống. Nhưng nó phải bàng hai mày và Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán đám quan lại tham nhũng và những thầy đồ dốt nát.

Cốt truyện đơn giản: Hai người hàng xóm đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Tuy vậy, truyện được xây dựng thành một màn hài kịch hoàn hảo với hai yếu tố then chốt dẫn tới sự hình thành và phát triển mâu thuẫn. Đó là lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi và hai đương sự Ngô, Cải, ai cũng muốn giành phần thắng nên đều đút lót cho lí trưởng.

Mâu thuẫn bắt đầu phát sinh khi lí trưởng đột ngột tuyên bố đánh phạt Cải mười roi. Buồn cười ở chỗ là hai nhân vật một bên thì chủ động, còn bên kia hoàn toàn bị động. Một bên cứ kết án, một bên xin xét lại. Động tác và lời nói của hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Màn kịch khép lại bằng câu kết luận chắc nịch của lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày. Lời nói ấy đã vạch trần thủ đoạn của viên lí trưởng mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành ngữ : đòn xóc hai đầu.

Lí trưởng là người đứng đầu trông coi việc hành chính trong làng. Viên lí trưởng trong truyện nổi tiếng xử kiện giỏi. Song cái tiếng tăm ấy lại hoàn toàn đối lập với thực chất bên trong. Ngô và Cải đều phải lo đút lót trước cho lí trưởng. Sự công bằng, lẽ phải – trái, không có ý nghĩa gì ở chốn công đường Khi lí trưởng xử kiện..Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót. Đồng tiền đã ngự trị chốn công đường, bất chấp công lí. Đúng là: Nén bạc đâm toạc tờ giấy và Cải, Ngô là các nhân vật bi hài, vừa đáng trách, đáng cười, vừa đáng thương.

Thủ pháp trào lộng của truyện được thể hiện bằng những cử chỉ, hành động, lời nói gây cười của các nhân vật.

Cử chỉ, hành động của các nhân vật trong truyện này giống như cử chỉ và hành động của các nhân vật trong kịch câm, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi bị lí trưởng ra lệnh đánh đòn, Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí, khẽ bẩm. Cử chỉ ấy như muốn nhắc khéo lí trưởng về số tiền mà cải đã lo lót trước và anh ta trông đợi sự “nhớ ra” của lí trưởng về lời cam kết rằng lẽ phải sẽ thuộc về mình. Thầy lí cũng xòe nầm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, cử chỉ ấy ngầm thông báo với Cải rằng “lẽ phải” của thằng Ngô nhiều gấp đôi, nên đương nhiên phần thắng sẽ thuộc về hắn.

Lẽ phải (trừu tượng) được tính bằng năm ngón tay (cụ thể), hai lần lẽ phải được tính bằng mười ngón tay. Điều thú vị mà tác giả dân gian dành cho người đọc là: ngón tay của Cải trở thành ‘‘kí hiệu” của tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của quân cũng là “kí hiệu” biểu thị cho lượng tiền đút lót của Ngô.

Truyện còn dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ phải trong truyện này đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai, người sai. Nghĩa thứ hai chỉ điều bắt buộc, nhất thiết phải có, tức là mức tiền lo lót. Lời lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày lập lờ cả hai nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên, vế thứ hai trong lời thầy lí lại được dùng để đặt tên cho truyện này.

Ở đây, ta thấy ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ động tác thống nhất với nhau, có giá trị ngang nhau. Ngồn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt cùng nghe. Ngôn ngữ bằng động tác là thứ ngôn ngữ “bí mật”, chỉ có người trong cuộc (thầy lí và Cải) mới hiểu được.

Hai thứ ngôn ngữ ấy làm rõ nghĩa cho nhau để chỉ ra thực chất của sự nổi tiếng xử kiện giỏi của viên lí trưởng nọ.

Truyện rất ngắn, kết thúc bất ngờ nhưng nó nói đủ những điều muốn nói và tiếng cười vừa giòn giã, thâm thúy cũng đồng loạt cất lên.

Phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày – Bài mẫu số 4

Đây là một câu truyện cười nhưng lại cười ra nước mắt. Một xã hội đồng tiền mà lấn áp tất cả. Vì tiền mà con người ta không còn sự công bằng văn minh nữa. Người nào có quyền có thế thì người đó thắng. Thật là một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng).

Truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” nó giống như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật.

Mở đầu truyện là lời giới thiệu về một viên lí trưởng xử kiện giỏi ở một “làng kia”. Ta gặp cách giới thiệu phiếm chỉ giống như các câu truyện cổ tích. Địa điểm (làng kia), thời gian (hôm nọ). Tác giả dùng tính phiếm chỉ để tăng tính khái quát, ý nghĩa mà truyện phản ánh mang tính phổ biến ở nhiều vùng, nhiều đối tượng chứ không ở địa phương nào. Tên Cải và Ngô cũng là một cách nói thực chất không mang tính xác định.

Sự việc được kể rất ngắn gọn. Cải và Ngô đánh nhau rồi mang nhau ra kiện. Cải sợ kém thế lót trước thời lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng. Lần theo câu truyện chúng ta đã tìm thấy tình huống có vấn đề, buộc người nghe phải chú ý xem trong tình huống này thì một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này như thế nào?

Khi xử kiện thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Cải đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ nên Cải rất bất ngờ lâm vào tình thế bị động trước lời phán xét của thầy lí. Sự bất ngờ ấy được thể hiện: “Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí khẽ bẩm: xin thầy xét lại lẽ phải về con mà”. Lời nói của Cải chứng tỏ Cải tin vào mình sẽ được xử thắng vì mình đã lo chạy trước và được thầy nhận lễ đáng nhẽ là phần thắng thuộc về mình nhưng nó lại ngược lại. Lẽ phải ở đây dược xem xét bằng tiền. Cải đã đưa ra một ám hiệu là năm ngón tay, đưa mắt nhìn và lời nhắc khẽ để nhắc nhở thầy lí về hành động biện lễ của mình.

Đến đây mâu thuẫn đã lên đến cao trào bởi Cải dường như đã lật bài ngửa. Nếu như vậy thì thầy lí sẽ xử ra sao? Thật bất ngờ đáp lại hành động kì quặc của Cải là hành động cũng kì quặc của thầy lí. Sự kết hợp lời nói và hành động giữa hai nhân vật tạo nên một tín hiệu đặc biệt, một thứ mật ngữ. Lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Mật ngữ thì chỉ có hai người trong cuộc mới biết được rõ. Hành động kì quặc đó được giải mã bởi lời nói của thầy lí kèm theo hành động: “Thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay phải mặt nói: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày!”

Giữa ngón tay – tiền – lẽ phải có mối liên hệ mật thiết. Ngón tay thể hiện số lượng tiền. Tiền để đo lẽ phải. Theo như thầy lí thì tiền là lẽ phải, lẽ phải được đo bằng tiền. Người nào có nhiều tiền thì lẽ phải ắt thuộc về người đó. Giá trị tố cáo của truyện chính là ở chỗ đó. Trong xã hội mà mọi thứ được đo bằng tiền thì thử hỏi công lý ở đâu?

Một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi mà còn như vậy. Thầy ăn của đút cả hai phía, “đục nước béo cò” mà lại dám công khai trước công đường với lời nói và hành động thật nực cười. Thầy lí là đại diện cho những kẻ có quyền thế “cầm cân nảy mực” trong lạng lại hiện ra nguyên hình là kẻ ăn đút trắng trợn. Ở đây nghệ thuật chơi chữ được thể hiện qua chữ phải: “Mày phải….nhưng nó lại phải…..bằng hai mày”.

Cả ba nhân vật trong truyện đều bật ra tiếng cười. Lí trưởng là nhân vật bị đả kích còn Ngô và Cải là hai nhân vật bị phê phán. Cải và Ngô tùy là nạn nhân nhưng là những kẻ tiếp tay cho những việc làm đổi thay công lí, nhập nhằng trắng đen bằng việc đút lót cửa sau.

Truyện về cơ bản giống truyện Tam đại con gà nhưng ngắn gọn hơn, giàu kịch tính hơn. Tính cách nhân vật lí trưởng được giấu kín chỉ bộc lộ ở cuối truyện để tăng tính bất ngờ cho truyện. Sự kết hợp giữa hành động và ngôn ngữ cùng lối chơi chữ tạo nên tình huống gây cười.

Qua đây tác giả cũng muốn phê phán những kẻ có quyền có thế coi đồng tiền là tất cả làm ô uế xã hội, làm mất đi sự công bằng của xã hội.

************

    Trên đây là hướng dẫn cách làm và một số bài văn mẫu phân tích truyện Nhưng nó phải bằng hai mày mà THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp được, hi vọng có thể giúp các em tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn để có những tiết học bổ ích và vui vẻ. Chúc em luôn học tốt và đạt kết quả cao!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button