Văn mẫu 12

Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân nhằm giúp các em hiểu sâu hơn về tác giả và tác phẩm để có những đánh giá, nhận định sâu sắc và toàn diện về tác phẩm.

Bí quyết làm bài phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân đạt điểm cao, các em đừng nên bỏ qua bài viết này với những thông tin cực hay sẽ giúp em mở rộng tư duy, viết được bài văn phân tích hay hơn.

Những nội dung mà bài viết sẽ cung cấp:

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm
  • Phân tích chi tiết nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
  • Bài văn mẫu đặc sắc phân tích Người lái đò sông Đà
  • Một số nhận định về Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà
  • Những câu hỏi thường gặp về Người lái đò sông Đà

“Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ…”(Phan Huy Đông, Vẻ đẹp văn học cách mạng)

I. Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà

1. Tác giả Nguyễn Tuân

a) Tiểu sử cuộc đời

– Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một nhà nho nghèo khi Hán học đã tàn, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

– Tuổi trẻ trải qua nhiều biến động: bị đuổi học vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt, tham gia phong trào yêu nước, bị bắt giam vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép,…

– Ông cầm bút bắt đầu sự nghiệp viết lách từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời, Một chuyến đi…

– Năm 1941, ông lại bị bắt giam và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.

– Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia cách mạng và trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới, giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

– Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996.

– Phong cách sống của Nguyễn Tuân: Ông yêu Việt Nam với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, yêu tiếng Việt, ý thức phát triển cá nhân cao, viết văn là để khẳng định cá tính độc đáo của mình, lối sống tự do và phóng thoáng.

– Không chỉ giỏi viết văn, Nguyễn Tuân còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác như điêu khắc, hội họa, sân khấu,… Ông quan niệm “đời là một trường du hí”, “sống là chơi mà viết cũng là chơi”.

b) Phong cách sáng tác

Nguyễn Tuân là nhà văn có sở trường về tùy bút và ký với phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Nhưng trước khi nhận ra sở trường của mình, ông đã thử bút qua nhiều thể loại khác nhau như thơ, bút ký, truyện ngắn…

– Ông luôn khám phá sự vật dưới góc độ văn hóa, thẩm mĩ, nhân vật chính luôn được xây dựng là nghệ sĩ tài hoa.

– Ông là bậc thầy của ngôn ngữ; có vốn ngôn từ giàu có, phong phú; tài năng sử dụng từ ngữ đắc địa.

– Với hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, ông đã vận dụng vào văn chương để tăng khả năng biểu đạt.

– Nguyễn Tuân có trí liên tưởng, tưởng tượng phong phú, luôn đưa ra những so sánh độc đáo, bất ngờ.

– Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự vận động, chuyển biến qua hai giai đoạn:

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Sáng tác của ông chủ yếu về đề tài “chủ nghĩa xê dịch” (Một chuyến đi), vẻ đẹp “vang bóng một thời” (Chữ người tử tù), và “đời sống trụy lạc” (Chiếc lư đồng mắt cua) với phong cách rất độc đáo và sâu sắc gói gọn trong một chữ “ngông”.

+ Sau Cách mạng tháng Tám: Ông chuyển sang viết về những đề tài mới như cách mạng, kháng chiến, con người mới, đất nước mới. Phong cách viết vẫn đậm chất tài hoa, uyên bác, vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ nhưng khám phá ra thêm chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng (“Người lái đò sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”…). Giọng khinh bạc chủ yếu để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.

– Nguyễn Tuân có rất nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam với vốn từ giàu có, phong phú, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ cổ xưa và hiện đại.

c) Tác phẩm tiêu biểu

– Trước 1945: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945).

– Sau 1945: Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994)…

2. Tác phẩm Người lái đò sông Đà

a) Bối cảnh sáng tác

– Người lái đò sông Đà được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.

– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế ngược dòng về Tây Bắc rộng lớn và hùng vĩ của Nguyễn Tuân không chỉ để thỏa mãn khát khao xê dịch, mà chủ yếu là để tìm kiếm, ca ngợi chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn người dân lao động Tây Bắc.

– Tác phẩm được in trong tập Sông Đà (1960), là tác phẩm thành công nhất của tập tùy bút, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

b) Nội dung

– Tác phẩm là một bức tranh phong cảnh hùng vĩ, khắc họa vẻ đẹp vừa dữ dội, hào hùng vừa thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà. Qua hình ảnh người lái đò, tác giả ngợi ca sự bất khuất, kiên cường, tài năng của con người Việt Nam và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc trong cuộc chiến đấu chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. “Người lái đò sông Đà” còn là lời khẳng định sức mạnh và ý chí của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.

– Ý nghĩa nhan đề: gợi ra hình ảnh trung tâm là ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa có thể chinh phục và thuần hóa dòng sông Đà vốn rất hung dữ; khắc họa mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên => Nhấn mạnh vẻ đẹp, sức mạnh chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống tốt đẹp của những con người lao động vùng Tây Bắc hiểm trở, hùng vĩ.

– Ý nghĩa lời đề từ:

+ “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”: cảm xúc trào dâng mãnh liệt trước tiếng hát, vẻ đẹp của dòng sông.

+ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: mọi con sông đều chảy về hướng Đông, còn riêng sông Đà lại chảy về hướng Bắc.

=> Một con sông Đà đầy hung bạo, mạnh mẽ với vẻ đẹp riêng biệt, không trùng lặp với bất cứ con sông nào, nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

c) Đặc sắc nghệ thuật

– Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, sinh động, gợi cảm, kết hợp nhịp điệu, âm thanh, sắc màu để tạo nên một bức tranh thiên nhiên sống động.

– Nguyễn Tuân sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao, giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội và trữ tình, thơ mộng của sông Đà.

– Tác phẩm đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và nét tài hoa của ông thể hiện qua ngôn ngữ, hình ảnh, câu văn sáng tạo mới mẻ, vốn từ vựng phong phú, ngôn ngữ chính xác…

II. Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà

1. Phân tích nội dung

a) Hình tượng con sông Đà

* Vẻ đẹp hung bạo

– Không chịu khuôn theo lẽ chảy thông thường, một mình chảy theo hướng bắc

– Đá bờ sông dựng vách thành, kì vĩ:

+ “cảnh đá bờ sông dựng vách thành…”

+ “Có vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” -> động từ “chẹt” cho thấy những vách đá bóp nghẹt, bó hẹp dòng sông.

+ “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”

+ “Có quãng con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia”

+ Mặt sông chỗ ấy lúc đúng ngọ mới có mặt trời

+ Ngồi khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh.

– Mặt ghềnh Hát Loóng địa hình hiểm trở, mặt sông chuyển động dữ dội, vần vũ, cuộn xoáy của sóng, gió, đá, nước: “nước xô đá, đá xô sóng… dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

+ Nước, sóng, gió đang gào thét, gầm rú như muốn thử thách tài năng, sức mạnh, lòng dũng cảm, kinh nghiệm của người lái đò

+ Cảnh sóng bọt trắng xóa, gió cuồn cuộn, đá lởm chởm tạo nên sự hỗn loạn, dữ dằn.

+ Luồng gió vần vũ, cuộn xoáy như cơn lốc, như vòi rồng, như cơn cuồng phong

=> Sông Đà lúc này như con thú dữ, con thủy quái đang nổi giận, gầm gừ, giơ nanh vuốt nhằm vồ lấy người lái đò, như kẻ đòi nợ xuýt vô cùng hung hăng, hiếu chiến, ngang ngược.

– Những hút nước ngầm vừa tráng lệ vừa dữ dội: “như cái giếng bê tông… ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi”.

+ “trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”

+ Nước thở và kêu như “cửa cống cái bị sặc”

+ Hút nước phun trào dữ dằn, kêu lên ặc ặc như vừa rót dầu sôi vào

=> Hút nước mang tâm địa, gương mặt của con thủy quái đang thù địch, đe dọa, hòng nuốt chửng con thuyền.

+ Không thuyền nào dám men gần đến những hút nước ấy

+ Thuyền nào qua đây cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực

– Những ghềnh thác xoáy vào nhau như vòng xoáy của chết chóc, như muốn nuốt chửng mọi thứ, tiếng thác đá gào thét dữ dội: “nghe như là oán trách… cháy bùng bùng, đá thác từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… ngỗ ngược, bệ vệ oai phong, hất hàm hiếu chiến”

+ “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”

+ “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da thịt cháy bùng bùng”.

– Thạch trận được bố trí trùng trùng điệp điệp như đòi tóm lấy mọi con thuyền qua sông:

+ Ở khoảng cách từ xa thấy cảnh mặt sông ở thạch trận vô cùng dữ dội: “ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”, “mặt sông rung rít lên như tuyếc bin thủy điện nơi đáy hầm đập”

+ “…mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó”

+ Đá được bày binh bố trận theo chiến thuật vô cùng nham hiểm:

  • Hàng tiền vệ: có hai hòn canh một cửa đá trông như sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ thuyền vào
  • Tuyến giữa: sóng luồng phối hợp với đá đánh khuýp quật vu hồi tức là đánh quật con thuyền trở lại.
  • Tuyến ba: nếu con thuyền chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của boongke chìm và pháo đài đá nổi sẽ đánh tan con thuyền, tiêu diệt thuyền trưởng, thủy thủ ngay tại chân con thác.

+ Thạch trận chia làm 3 vòng vây, trùng vi:

  • Trùng vi thứ nhất: có 5 cửa, trong đó có 4 cửa tử, 1 cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn của dòng sông.
  • Trùng vi thứ hai: tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh thì được bố trí lệch phía bờ hữu ngạn.
  • Trùng vi thứ ba: bên phải bên trái đều là cửa tử, đều là luồng chết cả, còn luồng sống hay cửa sinh lại ở giữa ngay bọn đá hậu vệ của con thác.

* Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng

– Hình dáng dòng sông mềm mại, hiền hòa, bình yên:

+ “…không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc…”

+ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt xương xuân”

– Màu nước thay đổi theo mùa vô cùng biến ảo, lung linh:

+ “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của sông Gâm, sông Lô”

+ “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.”

+ “Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen…”

– Dòng sông gợi cảm, mang vẻ đẹp đa chiều, lúc thì như một cố nhân, lúc lại như “Đường thi”

+ “Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân […] nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”

+ “Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi ‘Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu’ “

– Cảnh đôi bờ ven sông hoang sơ, tĩnh lặng, thuần khiết, nên thơ nhưng không gợi màu sắc tàn lụi, ảm đạm, hoang vu mà tràn đầy sức sống mới (cỏ cây, những con vật lành, đàn cá…)

+ nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, búp cỏ gianh đẫm sương đêm, con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung, đàn cá dầm xanh bụng trắng như bạc rơi thoi, con đò mình nở…

* Chứng nhân lịch sử

– Sông Đà đã chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử dân tộc qua các đời Lí, đời Trần, đời Lê…

+ “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.”

+ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”

– Sông Đà gợi nhắc về cội nguồn, về quá khứ của dân tộc, về những giá trị truyền thống và những bài học lịch sử.

* Biểu tượng của sức sống mãnh liệt

– Sức mạnh tiềm tàng thể hiện qua những thác ghềnh cuồn cuộn, những xoáy nước đầy hiểm nguy.

– Sông Đà biểu tượng cho khát vọng chinh phục thử thách, chinh phục tự nhiên của con người.

b) Hình tượng người lái đò

* Chân dung người lái đò

– Vẻ ngoài khắc khổ, phong trần với những đường nét mang đậm dấu ấn sông nước.

– Tâm hồn phóng khoáng, tự do: Dù cuộc sống vất vả, người lái đò vẫn giữ được tâm hồn phóng khoáng, yêu đời, yêu sông Đà, yêu nghề lái đò và luôn trân trọng những giá trị truyền thống.

* Vẻ đẹp và bản lĩnh của người lái đò

– Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động âm thầm, vô danh: yêu nghề, yêu thiên nhiên, khiêm tốn, cuộc sống mưu sinh gắn với sông nước dữ dội.

– Vẻ đẹp tài hoa của một người nghệ sĩ, một anh hùng trí dũng: giàu kinh nghiệm, tài trí, dũng cảm, kĩ thuật điêu luyện, tay lái ra hoa.

* Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh người lái đò

– Biểu tượng cho vẻ đẹp của người lao động Việt Nam: bản lĩnh, kiên cường, bất khuất

– Biểu tượng cho tình yêu quê hương đất nước

2. Phân tích đặc sắc nghệ thuật

– Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh và nhạc điệu

+ Từ ngữ độc đáo, sáng tạo, vốn từ vựng phong phú.

+ Hình ảnh so sánh, ẩn dụ độc đáo.

+ Nhạc điệu câu văn đa dạng, co duỗi nhịp nhàng.

– Giọng điệu trữ tình, lãng mạn

– Thủ pháp đối lập, tương phản

+ Đối lập giữa vẻ đẹp hùng vĩ và hung bạo với vẻ trữ tình, lãng mạn của con sông Đà.

+ Tương phản giữa người lái đò và thiên nhiên: Người lái đò nhỏ bé nhưng đã chiến thắng được thiên nhiên hung dữ, thể hiện sức mạnh của con người.

– Sử dụng kiến thức liên ngành (địa lý, lịch sử, quân sự, võ thuật…)

+ Kiến thức địa lý, lịch sử để miêu tả chính xác, cụ thể địa hình, thủy văn của sông Đà cũng như làm nổi bật bề dày văn hóa, lịch sử của vùng đất này.

+ Kiến thức quân sự, võ thuật để miêu tả cuộc chiến đấu giữa người lái đò và sông Đà như một trận chiến thực sự, với những chiến thuật, mưu mẹo độc đáo.

– Nghệ thuật miêu tả tài tình

+ Sử dụng nhiều chi tiết miêu tả tinh tế, giàu hình ảnh để tái hiện vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình của dòng sông.

+ Miêu tả nhân vật người lái đò sinh động, chân thực, tỉ mỉ từ ngoại hình, tính cách đến hành động, lời nói.

– Bố cục chặt chẽ, logic: mỗi phần đều có một trọng tâm riêng nhưng lại liên kết chặt chẽ với nhau tạo nên một tổng thể thống nhất.

Tham khảo mẫu dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà chi tiết do THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn giúp các em nắm được những nội dung chính cần triển khai trong bài văn phân tích của mình.

III. Giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm Người lái đò sông Đà

1. Giá trị nội dung

– Tác phẩm là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc

– Cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người

2. Giá trị nghệ thuật

Tác phẩm thể hiện rõ phong cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân qua ngôn ngữ, hình ảnh, câu văn sáng tạo mới mẻ, vốn từ vựng phong phú, ngôn ngữ chính xác…

– Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt

– Vận dụng nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật

– Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị

– Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn

– Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.

Sơ đồ tư duy phân tích Người lái đò sông Đà

Bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà đặc sắc

Phân tích Người lái đò sông Đà mẫu số 1

Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa thi ca nghệ thuật những năm 58 – 60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn, nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Trong văn giới cùng thời điểm lúc bấy giờ, Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập ”Tùy bút sông Đà” với linh hồn là “Người lái đò sông Đà”.

Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đứa con đẻ tinh thần này của mình là bởi vì nơi đây mới thỏa mãn nhãn quang sáng tác của ông. Tùy bút sông Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình.

Hình tượng dòng sông Đà

Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này:

“Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”.

Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai to khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định ”lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gàn ra mà chế nhạo như một con thú với tiếng sống như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão.

Phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi ở độ tuổi thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sông nước hiểm trở.

Hình tượng người lái đò Sông Đà

Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nghệ thuật vừa làm chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là nghệ sỹ tài hoa hàng ngày vẫn viết nên những bản cùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động.

Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới sau mươi lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò sông Đà hiện lên với một vẻ đẹp bề ngoài đầy phong sương có thể in hẳn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “Tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhăn giới vời vợi nhìn về một bến xa nào đó…” được biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.

Ông lái đò không phải là người an phận, ngược lại ông thích đương đầu với khó khăn với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng ”chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại tay chân và dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao nhưng ông luôn mang một tâm hồn khỏe, trẻ, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông trở thành niêm đam mê bất diệt; là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”.

Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi” như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại như một nghệ sỹ chuyên nghiệp nắm rõ mặt trận nghệ thuật đầy cam go của ông mà đã theo đuổi gần hết đời người. Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt đèo ấy, đòi hỏi người chiến sỹ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường của con sông, bởi chỉ sơ suất một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn nói gì đến chuyện làm một người tài hoa trên con sông Đà. Bằng kinh nghiệm dày dặn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững trãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, phải tránh né để qua ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thằng. Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua ải thứ nhất, không phút ngưng nghỉ, ở trận thứ hai, ông thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”.

Vòng thứ hai này có phần nguy hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều của tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế là xong ải thứ hai nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ nhưng có ai đủ bình tĩnh và tay chèo điều khiển điêu luyện nhắm trúng vào cửa sinh như ông lái đò sông Đà? Còn một cửa ải cuối cùng nữa, ải này ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở cửa ba này lại là ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác “nhưng ông mạnh dạn phóng thẳng thuyền chọc thủng giữa cửa đó”. Vậy là qua hết ba ải, ải nào cũng nguy hiểm, con sông trở lại với vẻ thanh bình.

Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go của ông lái đò sông Đà, ta cảm tưởng vừa xem lại bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người anh hùng lao động hàng ngày chiến đấu với thiên nhiên trong nguy hiểm đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo.

Phong cách và giá trị nghệ thuật của đoạn trích

Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sỹ anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài ba đã viết lên bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà.

Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật không chỉ là những người nghệ sỹ với những hình tượng thơ mộng, mà còn là những người lao động đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình, khi đó thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật lao động.

Viết về người lái đò sông Đà, viết về vùng đất của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc yêu thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh hùng ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Và Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh một nhà văn, ông đã góp phần mang đến cho thế giới những sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, ta ngỡ như bước vào một chân trời mới với màu sắc huyền bí, hấp dẫn và độc đáo.

Phân tích Người lái đò sông Đà mẫu số 2

Phân tích Người lái đò sông Đà đoạn: “Hùng vĩ của sông Đà… cái gậy đánh phèn”. Qua đó nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái tôi của nhà văn trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.

Phân tích lời đề từ Người lái đò sông Đà

“Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu”

Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn mạnh cá tính độc đáo của của dòng sông. Sông Đà khác hẳn các dòng sông khác bởi nếu tất cả các dòng sông khác đều chảy về hướng đông thì riêng sông Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sông đặc biệt như vậy nên nó trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá tính nghệ thuật của mình.

Ở lời đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”, tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Hình tượng con Sông Đà qua đoạn trích

Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có những thác đá”. Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.

Cảnh đá bờ sông dựng vách thành

Tác giả đã dùng những chi tiết liên tưởng tưởng có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng hạn, “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Những vách đá dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng sông. Hoặc cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” cùng với việc “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” hoặc “Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh. Ấn tượng của thị giác được thể hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Mặt ghềnh Hát Loóng

Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà cảnh tượng của nó rất dữ dội “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Cách nhà văn sử dụng toàn câu ngắn, nhịp nhanh xô nhau, dồn dập, chồng chất lên nhau kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau đã tái hiện sinh động những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. từ “nợ xuýt ” mang ý nghĩa độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người.

Hút nước trên sông Đà

Trên Sông Đà còn có những hút nước rất nguy hiểm. Những cái hút nước xoáy tít đáy ấy được tác giả miêu tả qua một loạt những so sánh sống động, đặc sắc. Nó giống như những cái giếng bê tông được người ta thả xuống sông để chuẩn bị xây móng cầu, với âm thanh thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, trong âm thanh như nước bị rót dầu sôi. Các từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng biện pháp nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu, bị sặc… Tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ. Sự nguy hiểm của những hút nước sông Đà được nhà văn miêu tả qua kiến thức về giao thông, giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ ấy. Thuyền bè đi ngang qua đó phải đi nhanh, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để thoát khỏi quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nguy hiểm hơn nữa là thuyền bè đi nghênh ngang là sẽ bị nó “lôi tuột xuống” đáy hút nước. Khi bị hút vào đó, lập tức thuyền trồng cây chuối, bị dìm sống đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau lại thấy xuất hiện nhưng đã tan xác ở khuỷu sông dưới.

Nguyễn Tuân còn dùng những kiến thức về điện ảnh, những liên tưởng phong phú và đặc biệt là cảm giác mạnh để miêu tả những nước trên sông Đà. Nhà văn liên tưởng đến việc có một anh quay phim táo bạo vì muốn truyền cảm giác lạ cho người xem nên đã ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống xoáy hút sông Đà để thu ảnh. Hút nước được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người. Những thước phim ấy truyền cảm lại cho người xem những cảm giác rất mạnh như đang lấy gân ngồi giữ chặt chiếc ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

Nhận xét về cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và cái tôi của nhà văn Nguyễn Tuân

– Cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân:

+ Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng.

+ Ý nghĩa: Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm của mình. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.

– Về cái tôi của nhà văn:

+ Tinh tế, tài hoa qua sự rung động say mê trước vẻ đẹp thiên nhiên

+ Uyên bác qua cách nhìn khám phá, phát hiện hiện thực, vận dung linh hoạt kiến thức sách vở và các tri thức đời sống đầy đa dạng. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành được diễn tả linh động chính xác.

+ Tình yêu thương, lòng yêu cái đẹp.

Phân tích Người lái đò sông Đà mẫu số 3

Một số nhận định về Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà

“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa”

(Nguyễn Minh Châu)

“Đây là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật”

(Nguyễn Đình Thi)

“Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân đọc mới thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”

(Vũ Ngọc Phan)

“Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như ném ra một cơn say chếch choáng, khinh bạc đấy nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”

(Nguyễn Đăng Mạnh)

“…Đọc “Sông Đà” thấy Tổ quốc ta thật là giàu đẹp. Chỉ nói riêng Than Uyên có nào mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh làm thuỷ tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏi than mở, mỏ lần tinh, mỏ đồng, mỏ chì…Cảnh Tây Bắc thì tuyệt đẹp, ở đâu tác giả cũng nổi hứng nghệ sĩ muốn cắm ngay giá vẽ mà vẽ. Núi lớp lớp mênh mông như biển, sông trắng xóa như từng súc lụa tung trai ra, những thung lũng lúa chín vàng chóe lên, trên đó mây trắng điểm lơ lửng như thêu nổi vv… nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp Nhưng “Sông Đà” không chỉ nói vẻ đẹp thiên của lòng người. Ông gọi đó là chất vàng mười của tâm hồn con người Tây Bắc. Ông ngược dòng lịch sử tìm chất vàng đó ở những chiến sĩ cách mạng kiên cường đã theo gương bất khuất ở nh Sơn La, ở những cán bộ hoạt động bí mật hồi Tây Bắc bị giặc chiếm đã vượt qua những thử thách khủng khiếp để gây cơ sở cách mạng ở những chiến sĩ quân đội, những anh chị em dân công hồn tiến quân vào Điện Biên…”

(Nguyễn Đăng Mạnh)

“Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ.”

(Phan Huy Đông)

Các nguồn tham khảo:

– https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Tu%C3%A2n

– Bài viết “Tùy bút Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám” (Hà Văn Đức)

– Sách Giảng Văn Văn Học Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục (1997)

Những câu hỏi thường gặp về Người lái đò sông Đà

1. Cảm hứng trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được khơi gợi từ:

A. Vẻ đẹp của sông Đà và sự tài hoa của người lái đò sông Đà.

B. Cuộc sống mới của người dân Tây Bắc.

C. Lịch sử của con sông Đà

D. Vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc gắn liền với sông Đà.

Đáp án A.

2. Cảm hứng sáng tạo của tập tùy bút “Sông Đà” được khơi gợi chủ yếu từ hiện thực nào?

A. Hiện thực cuộc kháng chiến hào hùng ở Tây Bắc.

B. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở Tây Bắc.

C. Hình ảnh con Sông Đà.

D. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc.

Đáp án B.

3. Biện pháp tu từ nào sau đây được Nguyễn Tuân sử dụng nhiều nhất khi khắc họa hình tượng con sông Đà?

A. Cường điệu.

B. Nhân hóa.

C. Ẩn dụ.

D. So sánh.

Đáp án B.

4. Thông tin nào về tập “Sông Đà” là chưa chính xác?

A. Tác phẩm được xuất bản vào năm 1960 và là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.

B. Tác phẩm chủ yếu hướng tới ngợi ca nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

C. Tác phẩm vừa mang yếu tố truyện, vừa thoải mái bàn bạc, nghị luận, triết luận.

D. Tác phẩm gồm 15 bài tùy bút và bài thơ ở dạng phác thảo.

Đáp án B.

5. Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo? (Câu hỏi 2 trang 192 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1)

6. Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. (Câu hỏi bài 5 trang 193 SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1)

7. Dòng nào dưới đây chưa nói đúng đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm Sông Đà?

A. Ngôn ngữ đôi chỗ kiểu cách cầu kì quá mức.

B. Tinh tế, hiện đại, vừa trí tuệ lại vừa giàu cảm xúc thẩm mĩ.

C. Vừa đậm màu sắc cổ điển, vừa rất giàu chất hội họa

D. Vừa đậm chất thơ, vừa giàu chất tạo hình.

Đáp án C.

-/-

Trên đây là những nội dung gợi ý và bài văn mẫu phân tích Người lái đò sông Đà chi tiết nhất do THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn dành cho các em tham khảo để học tốt môn Ngữ văn 12. Chúc các bạn học tốt và luôn đạt được thành tích cao.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button