Văn mẫu 10

Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng

Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng có dàn ý để hiểu rõ hơn về niềm vui thích du ngoạn nhất là du ngoạn trên sông Bạch Đằng.

Để phân tích được đoạn một bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu thì THPT Ngô Thì Nhậm xin gợi ý với các em dàn ý chi tiết và 2 bài văn mẫu giúp các em tham khảo và bổ sung nội dung cho bài làm của mình nhé:

Dàn ý

Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tìm hiểu dàn ý đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng như sau:

Mở bài phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng

– Giới thiệu khái quát về tác giả Trương Hán Siêu

– Giới thiệu tác phẩm và dẫn dắt vào đoạn 1 bài “Bạch Đằng giang phú”: Bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú nói chung và đoạn một của tác phẩm nói riêng, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc, thể hiện niềm vui thích du ngoạn nhất là du ngoạn mà qua đó còn là niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước.

Thân bài phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng

– Giới thiệu nhân vật khách: Là sự tự xưng của tác giả, tạo nên lối chủ-khách đối đáp thường dùng trong thể phú.

– Tâm thế du ngoạn: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

→ Tư thế ung dung, tự do. Tác giả là người có tâm hồn tự do, phóng khoáng.

– Hành trình du ngoạn của tác giả:

+ Các địa danh Trung Quốc: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng.

→Những địa danh được biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng. Tác giả là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng.

+ Các danh lam thắng cảnh Đại Việt: Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng – dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

→Tác giả yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ hào hùng của dân tộc.

+ Cách nói cường điệu: Sớm Nguyên, Tương – chiều Vũ Huyệt, hành trình dài được nhân vật khách thực hiện trong một ngày.

→ Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách, say sưa, chủ động đến với thiên nhiên.

– Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng

+ Hùng vĩ, tráng lệ:

“sóng kình muôn dặm”: Địa thế hiểm trở, dữ dội của con sông Bạch Đằng.

“đuôi trĩ một màu”: Những con thuyền nối đuôi nhau trên dòng sông.

+ Thơ mộng, trữ tình

Thời gian “ba thu”: Tháng thứ ba của mùa thu, thu chín nhất.

“Nước trời: một sắc”: Bầu trời, mặt nước hòa chung một màu trong xanh.

+ Hoang vu, hiu hắt

Từ láy “san sát, đìu hiu”: Cực tả khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo đầy lá lách, lau sợi

“Giáo gãy, xương khô”: Chiến trường xưa, chốn tử nạn của quân thù.

– Tâm trạng của nhân vật khách:

+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

+ Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy nhà thơ đang đắm chìm vào thế giới nội tâm với sự tiếc nuối ngậm ngùi.

Kết bài phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng

– Qua đoạn 1 của bài “Bạch Đằng giang phú”, tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một.

Tiếp theo, hay cùng tham khảo 2 bài văn mẫu phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng dưới đây:

Văn mẫu phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng

Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng bài số 1

“Phú sông Bạch Đằng” – một bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước. Tiêu biểu trong đoạn mở đầu của bài phú, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Bạch Đằng lịch sử, một địa danh mang ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc.

Vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên sông nước Bạch Đằng được tác giả tái hiện qua cái nhìn và cảm nhận của nhân vật “khách”, tuy nhiên có thể hiểu kẻ “khách” chính là tác giả, ngay từ những câu đầu tiên:

“Khách có kẻ:

Lướt bể chơi trăng mải miết”

thì tác giả đã cho ta thấy được “khách” là người có tâm hồn tự do, phóng khoáng, thích đi du ngoạn khắp mọi nơi. Nhân vật “khách” đã liệt kê ra những địa danh qua hiểu biết và qua thực tế du ngoạn, sớm chiều rong ruổi thưởng ngoạn, trong đó hàng loạt các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc được nhắc đến như: sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.

“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương…

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.”

Kẻ khách tự khẳng định rằng “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”, như để nói lên vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của mình, hơn thế còn nhắc tới “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết” như bày tỏ hoài bão lớn lao và sự khoáng đạt trong tâm hồn của mình. Ngoài các địa danh trên nổi tiếng của đất Trung thì “khách” ta đây còn đã từng đến những địa danh trên đất Việt như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, có thể thấy kẻ “khách” là một người có lòng yêu và thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên say đắm. Bằng lòng yêu thiên nhiên, nhân vật khách đã khắc họa cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sống động, mang nhiều vẻ đẹp khác nhau:

“Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều

……….

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”

Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở “sóng kình muôn dặm” nhưng lại không kém phần mĩ lệ, trữ tình “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, trên những đợt sóng dữ dội ấy là những đoàn thuyền nối đuôi nhau như đuôi chim trĩ lặng lẽ trôi trên sông vượt qua những đợt sóng kình.

Đất trời và sông nước mang một vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp “nước trời: một sắc” bầu trời mặt nước cùng một màu xanh trong, “phong cảnh: ba thu” nghĩa là phong cảnh vào độ chín nhất trong khoảng thời gian tháng thứ ba của mùa thu.

Cảnh sắc đất trời gợi nên một không gian thơ mộng, nhưng cũng có nét đượm buồn bởi hình ảnh bờ lau, bến lách, các từ láy “san sát”, “đìu hiu” đã cực tả sự hoang vắng, đìu hiu và cô quạnh của con sông, những bờ lau trắng nối tiếp nhau trên bờ sông, những bến lách đìu hiu gợi ra cảnh thê lương, tang tóc. Mà chính nơi đây là chiến địa sinh tử, đã biết bao con người ngã xuống, máu nhuốm đỏ cả dòng sông, dưới sông còn nhiều giáo gươm, trên gò còn nhiều xương khô. Những chứng tích đó là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc nhưng cũng khiến cho lòng người không tránh khỏi niềm tiếc thương cho những mất mát, hy sinh.

“Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu…

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Trước là sự tự hào vì chiến tích nơi đây thì giờ là nỗi buồn thảm thương lặng người vì sự chết chóc do chiến tranh gây ra, buồn vì giá trị lịch sử cũng theo thời gian mà bị mai một đi, các động từ “buồn, thương, tiếc” góp phần khắc họa rõ tâm trạng ảm đạm, ngậm ngùi khôn nguôi của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.

Chỉ mới đoạn mở đầu của bài phú, Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một theo thời gian. Qua đó ta càng ý thức hơn về vấn đề bảo vệ và gìn giữ những giá trị lịch sử, khắc ghi công ơn xương máu của thế hệ cha anh đã ngã xuống để giữ vững nền hòa bình độc lập của đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.

Kết thúc bài văn mẫu số1 phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng, cùng tham khảo thêm một tài liệu giúp em dễ dàng ghi nhớ hơn để phân tích bài phú này: Sơ đồ tư duy Phú sông Bạch Đằng

Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng bài số 2

Trong văn học trung đại, thiên nhiên là đề tài được yêu thích của các tác giả, qua cảnh bày tỏ tình cảm, đưa ra những sự việc diễn ra trong chính thực tiễn của cuộc sống. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại tìm đến thiên nhiên trong những tâm trạng, khoảnh khắc khác nhau.

Ta từng biết tới Cao Bá Quát đến với thiên nhiên trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì với Nhàn để bày tỏ đạo lý thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi… Và ở bài “Phú sông Bạch Đằng” này thì Trương Hán Siêu lại tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác.

Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc đi vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt là nơi nhân vật “khách” đã từng đi; qua “khách” để thể hiện ra một con người có tâm hồn phóng khoáng thích du ngoạn ngắm cảnh, tự do:

“Giương buồm giong gió chơi vơi

Lướt bể chơi trăng mải miết

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương

Và là một người ham hiểu biết, có tráng chí bốn phương, đi nhiều, biết rộng:

“Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”

“Tráng chí bốn phương” của nhân vật “khách” được thể hiện qua việc liệt kê một loạt các địa danh nổi tiếng: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt để cho thấy nhân vật là một người có tâm hồn rộng mở, khoan dung, khoáng đạt.

Những địa danh mang tính ước lệ lấy từ điển cố Trung Quốc là nơi tác giả đi qua bằng trí tưởng tượng. Mục đích du ngoạn của tác giả là dạo chơi ngắm cảnh và nghiên cứu về lịch sử dân tộc được thể hiện qua cụm “giương buồm giong gió” và “lướt bể chơi trăng” và câu thơ “Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.

Có thể thấy qua các câu thơ trên thì tác giả là một tao nhân mặc khách, thích làm bạn với gió trăng, ngao du bốn bể. Ông mang khát vọng đi khắp đó đây, tự do vui thú hòa mình với thiên nhiên. Đó quả thực là một bậc chí giai đi rộng biết nhiều theo đúng quan niệm người xưa “Trí giả nhạo thủy”.

Tiếp đến là tác giả mới miêu tả cảnh sông nước Bạch Đằng. Con thuyền đưa khách đến sông Bạch Đằng. Con mắt của tác giả đã thu vào một bức tranh sông nước mang một vẻ đẹp vừa hùng vĩ dữ dội, cũng vừa rất đỗi nên thơ:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một màu”

Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ ở hình ảnh “sóng kình” đã gợi ra lớp lớp sóng lớn như là những đàn cá voi. Hình ảnh “đuôi trĩ” thì gợi ra cho ta thấy những cánh buồm xuôi ngược, nối nhau ở trên sông. Sắc nước màu trời như hòa vào làm một. Vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông khiến tác giả vui và tự hào trước cảnh thắng.

Song, “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu” dâng lên nỗi buồn hoài niệm. “Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu” – đó là oanh liệt gắn với con sông nhưng chiến trường xưa nay trơ trọi hoang vu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết, hơn một trăm năm sau Nguyễn Trãi khi qua đây cũng đã tưởng tượng ra cảnh:

“Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,

Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng”

Đó còn là nỗi nhớ về người anh hùng đã hi sinh

“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Đặt vào hoàn cảnh của tác giả khi sáng tác bài phú, khi nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, niềm hoài cổ ấy là nỗi buồn thương tiếc về một thời hào hùng oanh liệt của trang lịch hào hùng sử dân tộc.

Có thể thấy qua phần đầu tiên của bài “Phú sông Bạch Đằng”, ta đã thấy được công lao to lớn của các vị anh hùng thời Trần đồng thời cũng cảm nhận được niềm vui, sự hân hoan, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, tương lai tươi mới của đất nước. Đây là một bài Phú có bố cục chặt chẽ, nhịp điệu linh hoạt, phóng khoáng, lời văn cô đọng, dồi dào cảm xúc.

Qua đây, ta càng cảm nhận được những chiến công lẫy lừng, đường lối giữ nước tài tình của dân tộc ta khi xưa. Vậy nên giờ đây, chúng ta cần phải biết giữ gìn, phát huy để giúp đất nước phát triển cũng đồng thời phải biết trân trọng cuộc sống mình đang có bởi đã có biết bao thế hệ ông cha ta đã hi sinh để giữ được nền hòa bình như bây giờ.

Hết

Trên đây là dàn ý phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng và 2 bài văn mẫu giúp các em học sinh lớp 10 hiểu rõ hơn về bài phú này. Cùng THPT Ngô Thì Nhậm tham khảo thêm các bài văn mẫu 10 khác nữa em nhé!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button