Văn mẫu 10

Dàn ý phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy

[Văn mẫu 10] Dàn ý phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy, dàn ý chi tiết cùng bài mẫu và tóm tắt kiến thức cần nắm về tác phẩm Điểu minh giản.

Dàn ý phân tích bài Khe chim kêu của Vương Duy do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp bao gồm phần tóm tắt kiến thức cần nắm về tác phẩm Khe chim kêu (Điểu minh giản), cùng với đó là dàn ý chi tiết và bài làm mẫu. Hy vọng đây sẽ là tài liệu bổ ích giúp các em học tốt môn Văn lớp 10.

Cùng tham khảo em nhé!

Đề bài: Phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy

————

I. Kiến thức cần nắm về bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy

1. Tác giả

a. Tiểu sử

– Vương Duy (701 – 761), tự là Ma Cật.

– Quê: đất Kĩ, Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc).

– Năm 21 tuổi ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, nhưng có một thời gian dài ông sống như người ẩn dật, “mỗi lần bãi triều về là đốt hương ngồi một mình, đọc kinh niệm Phật”

b. Sự nghiệp sáng tác 

– Cùng với Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy là đại biểu của phái thơ sơn thủy (thơ lấy thiên nhiên làm đề tài) thời Thịnh Đường.

– Thơ Vương Duy hiện còn hơn 400 bài.

– Phong cách thơ: tinh tế, trang nhã.

2. Tác phẩm

2.1. Tìm hiểu chung 

a. Bố cục

– Hai câu đầu: Cảnh thanh vắng, an nhàn.

– Hai câu sau: Khoảnh khắc xao động, nhiều dư âm của khung cảnh.

b. Thể loại: Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật.

2.2. Tìm hiểu chi tiết

a. Hai câu đầu

Nhân nhàn hoa quế lạc

Dạ tĩnh xuân sơn không.

– Hai câu thơ đầu thể hiện hình ảnh con người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ nơi điền viên sơn thủy, hòa mình vào thiên nhiên.

– Có sự giao hòa, giao cảm một cách tự nhiên giữa người và cảnh: Trong đêm tĩnh lặng, thi nhân nghe được tiếng hoa quế rơi.

=> Cho thấy sự nhạy cảm và tĩnh lặng trong chính tâm hồn của thi nhân.

– Có sự kết hợp của ba từ “lạc” (rụng), “tĩnh” (vắng lặng), “không” (vắng không) => gợi sự tịch mịch của cảnh đêm nơi rừng núi.

=> Cảnh và người thật hòa hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn.

b. Hai câu thơ sau

Nguyệt xuất kinh sơn điểu,

Thời minh giản tại trung.

– Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động.

– Ánh sáng của ánh trăng lan tỏa làm kinh động đến tiếng chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, giật mình, thảng thốt. Ánh trăng lên không tiếng động vậy mà cũng làm chim núi giật mình, điều đó cho thấy cảnh yên đến mức chỉ một sự thay đổi nhỏ cũng đủ làm khuấy động sự yên tĩnh.

– Hai câu thơ dường như có sự chuyển dịch từ không gian tính và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng (trăng lên) và âm thanh (chim núi cất tiếng kêu) làm tô điểm thêm cho sự tĩnh lặng của cảnh vật.

=> Nhà thơ lấy cái động để thể hiện cái tĩnh – sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn

c. Giá trị nội dung

– Khe chim kêu là bài miêu tả cảnh thanh nhàn, yên tĩnh của một vùng núi hoang sơ.

– Cảnh đẹp như một bức tranh với những âm thanh của hoa quế rụng, trăng lên hay là tiếng chim kêu thảng thốt trong màn đêm tĩnh lặng.

d. Giá trị nghệ thuật

– Nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy hình gợi âm.

– Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, tinh tế.

Dàn ý phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy

1. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về Vương Duy: là một nhà thơ nổi tiếng với phong cách thơ thiên nhiên tinh tế, tao nhã.

– Giới thiệu chung về bài thơ Khe chim kêu (Điểu minh giản): là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh.

2. Thân bài

a. Hai câu đầu

Nhân nhàn hoa quế lạc

Dạ tĩnh xuân sơn không.

– Hai câu thơ đầu thể hiện hình ảnh con người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ nơi điền viên sơn thủy, hòa mình vào thiên nhiên.

– Có sự giao hòa, giao cảm một cách tự nhiên giữa người và cảnh: Trong đêm tĩnh lặng, thi nhân nghe được tiếng hoa quế rơi.

=> Cho thấy sự nhạy cảm và tĩnh lặng trong chính tâm hồn của thi nhân.

– Có sự kết hợp của ba từ “lạc” (rụng), “tĩnh” (vắng lặng), “không” (vắng không) => gợi sự tịch mịch của cảnh đêm nơi rừng núi.

=> Cảnh và người thật hòa hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn.

b. Hai câu thơ sau

Nguyệt xuất kinh sơn điểu,

  Thời minh giản tại trung.

– Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động.

– Ánh sáng của ánh trăng lan tỏa làm kinh động đến tiếng chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, giật mình, thảng thốt. Ánh trăng lên không tiếng động vậy mà cũng làm chim núi giật mình, điều đó cho thấy cảnh yên đến mức chỉ một sự thay đổi nhỏ cũng đủ làm khuấy động sự yên tĩnh.

– Hai câu thơ dường như có sự chuyển dịch từ không gian tính và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng (trăng lên) và âm thanh (chim núi cất tiếng kêu) làm tô điểm thêm cho sự tĩnh lặng của cảnh vật.

=> Nhà thơ lấy cái động để thể hiện cái tĩnh – sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn.

3. Kết bài:

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy hình gợi âm đầy tài tình, bài thơ đã miêu tả một bức tranh với những thanh âm nhẹ nhàng của thiên nhiên, qua đó ta thấy được tình yêu thiên nhiên đầy tinh tế.

>>> Tài liệu chi tiết hướng dẫn soạn bài Khe chim kêu

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy

Vương Duy (701-761) tự là Ma Cật quê ở Sơn Tây, Trung Quốc. Năm 21 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan thời Thịnh Đường. Ông là một nghệ sĩ nổi tiếng tài hoa: thơ hay, vẽ đẹp, thư pháp như rồng bay phượng múa. Ông để lại trên 400 bài thơ và hơn một nghìn bức hoạ, thư pháp. Tô Thức thời Tống đã ca ngợi: “Thưởng thức thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa; xem họa Ma Cật, thấy trong họa có thơ”.

“Điểu minh giản” (Khe chim kêu) là bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Vương Duy “trong thơ có hoạ”:

“Nhân nhàn quế hoa lạc,

Dạ tĩnh xuân sơn không.

Nguyệt xuất kinh sơn điểu,

Thời minh tại giản trung”.

Người đọc nghe thấy gì, nhìn thấy gì trong bút tranh thuỷ mặc “Điểu minh giản” này?

Hai câu thơ vừa có cảnh, vừa có tình. Đêm yên tĩnh (dạ tĩnh) là thời gian nghệ thuật. Ngọn núi xuân xa mờ hiện lên trong vắng lặng. Một đóa hoa quế rụng. Hoa nguyệt quế trắng phau, thơm nồng nàn, mỗi tháng nở hoa một lần; thi sĩ không tả màu sắc, hương thơm hoa nguyệt quế, mà chỉ gợi tả “quế hoa lạc”. Chữ “rụng” lạc là nhãn tự. Tác giả lấy động, tiếng hoa quế rụng để làm nổi bật cái vắng không của núi xuân, cái yên tĩnh của đêm xuân về khuya. Đó là không gian nghệ thuật. Chữ “nhàn” qua hình ảnh “nhân nhàn” là tâm trạng nghệ thuật: nhà thơ sống thư nhân, tâm hồn thư thái, mơ màng, lắng nghe tiếng rụng của hoa quế rơi. Mơ hồ và thì thầm. Đó là tiếng đâm xuân êm đềm. Phải chăng đó là tiếng thở nhẹ của giai nhân?

Đóa hoa quế chỉ bằng chiếc cúc bạch ngọc mỏng manh, rụng xuống se sẽ thế mà thi nhân nghe được, cảm được, không chỉ tâm nhàn mà còn hồn mộng. Người và Cảnh giao hoà. Ngô Tất Tố dùng thơ lục bát đế dịch thơ ngũ ngôn của Vương Duy đã tạo nên nhạc điệu êm đềm thơ mộng:

“Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,

Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh”.

Hai câu cuối là nét vẽ vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Trăng đột hiện, trăng xuân. Vì ở núi cao nên thấy trăng mọc rất rõ. Bóng tối của màn đêm nơi núi xuân như bị xua tan. Ánh trăng đã làm cho con chim núi giật mình (kinh sơn điểu) cất tiếng kêu nơi khe sâu bên vách núi. Nghệ thuật chấm phá của ngòi bút nghệ thuật của Vương Duy thật thần tình: lấy động (tiếng chim kêu trong khe) để đặc tả cái vắng lặng, êm đềm của núi xuân, đêm xuân; lấy sáng đế tả tối, lấy ánh trăng để tả màn đêm, tả cái sâu hút, thâm u của khe suối.

Thi nhân chỉ chấm phá, điểm nhấn bằng một vài đường nét mà rung động, ấn tượng. Tiếng chim kêu trong khe, ánh tráng vừa mọc như làm cho nhà thơ chợt tỉnh giấc mộng đêm xuân. Ngô Tất Tổ đã dịch khá hay và sáng lạo:

“Trăng lên, chim núi giật mình,

Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi”.

Điểu minh giản” là bài thơ tuyệt tác của Vương Duy. “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu cầm”. Một bông hoa quế rụng. Một ngọn núi xuân vắng không. Một đêm xuân tĩnh lặng, êm đềm. Trăng mọc. Chim núi giật mình kêu lên trong khe núi. Giữa khung cảnh êm đẹp ấy, nhà thơ chợt tỉnh giấc mộng đêm xuân. Tâm nhàn, mộng đẹp, cảnh hữu tình nên thơ. “Điểu minh giản” mang vẻ đẹp của một bức họa sơn thủy của Vương Duy lấp lánh trong sắc màu thời gian.

Xem thêm nhiều bài văn mẫu: Phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy

*************

Hy vọng rằng phần tóm tắt kiến thức cần nắm cùng dàn ý phân tích bài thơ Khe chim kêu của Vương Duy trên đây sẽ giúp các em hoàn thành bài làm của mình một cách hoàn thiện và thuận lợi nhất. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 10 khác được cập nhật thường xuyên tại doctailieu.com. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button