Lớp 9Văn mẫu 9

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

Tham khảo hướng dẫn làm bài cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân cùng tuyển tập những bài văn hay cảm nhận nhân vật ông Hai.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai là đề bài thường gặp khi tìm hiểu tác phẩm truyện ngắn Làng của Kim Lân. Dưới đây là nội dung hướng dẫn chi tiết cách làm dạng bài này cùng tuyển tập 7+ bài văn mẫu hay nêu cảm nhận của em về nhân vật ông Hai dành cho các em tham khảo.

Hướng dẫn làm bài cảm nhận về nhân vật ông Hai

Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: Phân tích nội dung, nghệ thuật, các chi tiết trong tác phẩm nhằm làm sáng tỏ những tư tưởng tác giả gửi gắm và giá trị của tác phẩm

– Phương pháp làm bài: sử dụng thao tác phân tích

Các luận điểm chính cần triển khai

Luận điểm 1: Ông Hai với tình yêu làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng

Luận điểm 2: Tâm lý giằng xé của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc

Luận điểm 3: Niềm vui của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.

Sơ đồ tư duy

Để ghi nhớ dễ dàng hơn cho bài văn cảm nhận nhân vật ông Hai đủ ý và thuyết phục, một mẫu sơ đồ tư duy chắc chắn giúp các em ghi nhớ những ý chính là điều rất cần thiết. Cùng thử ghi nhớ qua hình ảnh dưới đât hoặc dựa vào dàn ý đã cho để tự lập một mẫu sơ đồ theo ý của mình em nhé.

Dàn ý chi tiết cảm nhận về nhân vật ông Hai

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng:

+ Kim Lân là nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn, về những người nông dân.

+ Truyện ngắn Làng được viết năm 1948, là một trong số những truyện ngắn xuất sắc của thời kì kháng chiến chống Pháp, ca ngợi lòng yêu nước thống nhất cùng tình yêu làng quê và tinh thần cách mạng của những người dân quê hiền lành, chân chất.

– Nêu cảm nhận chung về nhân vật ông Hai: Nhân vật ông Hai là tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân yêu nước trong thời kì kháng chiến.

II. Thân bài

1. Tình cảm, tính cách, phẩm chất của Ông Hai được diễn tả chân thật qua mỗi tình huống

a) Trong bối cảnh sống tản cư xa làng

– Vì kháng chiến, gia đình ông Hai phải đi tản cư: ông Hai hăng hái lao động cùng anh em giữ làng, miễn cưỡng đi cùng vợ.

– Ở nơi tản cư:

+ Ông buồn chán, nhớ làng quê, sinh ra lầm lì cáu gắt.

+ Ông Hai hay khoe làng: đi đâu ông cũng kể về làng chợ Dầu của ông,khoe cho thỏa cái miệng và nỗi nhớ trong lòng, hầu như không quan tâm người nghe có hưởng ứng câu chuyện của mình không.

⇒ Khoe làng là cách bản năng nhất thể hiện tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào về quê hương của ông Hai.

– Tình yêu Làng gắn liền với yêu nước, yêu cách mạng:

+ Trước cách mạng: ông tự hào khoe làng giàu và đẹp với cái sinh phần của viên tổng đốc làng.

+ Sau cách mạng: ông chỉ nói về những buổi tập quân sự, những hào giao thông,… Ông thường đến phòng thông tin nghe lỏm tin kháng chiến, vui mừng với những thắng lợi của quân và dân ta.

b) Khi nghe tin làng theo giặc

– Khi nghe được tin: ông sững sờ “lặng đi tưởng như không thể thở được”, lảng tránh khỏi đám đông.

– Diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai:

+ Ông nghi ngờ tin đồn sai sự thật, rồi lại tức giận thầm chửi rủa đám người theo giặc, điểm lại từng người một trong làng, lo sợ con cái ông cũng bị hắt hủi, khinh bỉ.

+ Ông xấu hổ, sợ hãi không dám ra đường, chỉ ở trong nhà nghe ngóng.

+ Có lúc ông muốn về làng vì bị người ta hắt hủi, coi khinh. Nhưng ông suy nghĩ: “làng theo Tây thì phải thù” và chỉ biết trò chuyện với đứa con út để khẳng định: ông luôn tin và trung thành với cách mạng, với cụ Hồ, quyết không theo giặc.

⇒ Qua diễn biến tâm lí giằng xé của ông Hai, ta nhận thấy tình yêu sâu đậm của ông dành cho quê hương làng chợ Dầu, đồng thời thấy sự trung thành tuyệt đối với Đảng, cách mạng và Bác Hồ.

c) Niềm vui của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.

+ Ông phấn khởi đem quà về cho các con

+ Ông đi từng nhà, gặp từng người chỉ để nói với họ tin: Tây đốt nhà ông, làng ông không theo giặc.

+ Ông kể cho mọi người nghe về trận chống càn quét ở làng chợ Dầu với niềm tự hào.

⇒ tinh thần yêu nước của ông Hai, một tình cảm chân thành của người nông dân chất phác, một người yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng đến độ vui mừng thông báo nhà mình bị giặc đốt cháy sạch.

2. Đánh giá nội dung, nghệ thuật

– Nội dung: Qua nhân vật ông Hai, ta cảm nhận được tình yêu quê hương thống nhất cùng tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến. Đó chính là tình yêu đất nước của những người nông dân trong thời kì kháng chiến cứu quốc.

– Nghệ thuật:

+ Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện vô cùng đặc biệt, mỗi tình huống đều khắc họa được diễn biến tâm lý của nhân vật một cách chân thực.

+ Miêu tả cụ thể diễn biến tâm lý của nhân vật qua những đoạn độc thoại nội tâm, những hành động giàu cảm xúc, vẻ mặt, cử chỉ, hành động,…

– Ngôn ngữ nhân vật vừa mang đặc trưng vùng miền, vừa mang đậm tính thuần phác, đôn hậu, mộc mạc, giản dị, là lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân.

III. Kết bài

– Cảm nhận chung của em về nhân vật ông Hai: Nhân vật ông Hai là một bức chân dung sống động, riêng biệt về người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến, bình dị nhưng có lòng yêu làng, yêu nước chân thành, sâu nặng, cao quý.

Top 7 bài văn hay cảm nhận về nhân vật ông Hai

Tuyển tập văn mẫu cảm nhận nhân vật ông Hai nhằm mục đích giúp các em tham khảo và chắt lọc những ý văn hay nhất cho bài làm của mình:

Cảm nhận về nhân vật ông Hai mẫu số 1

Kim Lân là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn với đề tài về người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được sáng tác năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Truyện viết về vẻ đẹp ông Hai với tình yêu làng quê mãnh liệt, tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng và có lòng tự trọng coi danh dự của làng quê hơn tài sản vật chất.

Đọc truyện ngắn “Làng” người đọc rất ấn tượng về nhân vật ông Hai là người dân hiền lành, cần cù, chăm chỉ, chất phác và có tình yêu dành cho làng chợ Dầu luôn bùng cháy mãnh liệt. Khi chiến tranh xảy ra ông phải đi tản cư “tản cư âu cũng là kháng chiến” ông nhớ làng, khoe về làng đẹp, giàu: nhà ngói san sát, sầm uất. Ông vui, tự hào, hãnh diện về làng. Ông còn khoe cả cái sinh phần của viên tổng đốc mà không nhận ra viên tổng đốc là kẻ thù của mình. Ánh sáng cách mạng đã soi rọi tới cuộc đời tăm tối của ông để biết ai là kẻ thù để ông không còn khoe về nó nữa. Ông từng tham gia xây dựng những công trình kháng chiến: đào đường, đắp u, xẻ hào… những công việc vất vả nhưng ông tham gia với tinh thần hăng say, vui vẻ, trách nhiệm. Tình yêu làng quê của ông Hai không chỉ thể hiện bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể người nông dân ấy sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Tình yêu làng quê đã hòa quyện trong tình yêu nước. Ông Hai có thói quen là đến phòng thông tin niềm vui sướng khi nghe được tin chiến thắng của quân ta dù có nhỏ nhưng với suy nghĩ “tích tiểu thành đại làm gì mà thằng Tây chả bước sớm”. Những suy nghĩ ấy của người nông dân về kẻ thù khi còn rất đơn giản nhưng nó cũng thể hiện niềm tin nhất định thành công của cách mạng. Đó chính là nhận thức tư tưởng mới của ông Hai khi có ánh sáng cách mạng.

Nhà văn đã khéo léo đưa vào tình huống truyện bất ngờ được đẩy lên cao trào khi để nhân vật bộc lộ rõ một chuỗi diễn biến trong tâm lí. Tin làng chợ Dầu theo Tây giống như ”một gáo nước lạnh” làm tắt ngấm ngọn lửa yêu làng bấy lâu trong lòng ông Hai. Tin đến đột ngột bất ngờ khiến cho ông choáng váng ”tưởng như không thở được” tưởng như tai nghe nhầm. Nhưng rồi nghe rõ tên người tên làng khiến cho ông Hai xấu hổ. Câu nói ”Hà, nắng gớm, về nào!” là cái cớ để ông lảng tránh mọi người ra về. Ngòi bút của nhà văn hướng tới miêu tả hình ảnh của ông Hai đi trên đường với dáng vẻ đi nhanh, mặt cúi gằm vì trong lòng thấy xấu hổ, nhục nhã. Những giọt nước mắt đã rơi xuống khi nhìn thấy con với ý nghĩ: ”Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”, “Ai người ta chứa, ai người ta buôn bán mấy.” dòng ngôn ngữ độc thoại nội tâm kết hợp với câu hỏi tu từ diễn tả nỗi lo lắng của ông Hai cho con, cho những người dân làng chợ Dầu.

Và rồi bao nỗi lo lắng tủi nhục cũng biến thành cơn giận dữ tiếng chửi đổng nhằm vào lũ Việt gian. Hai chữ Việt gian đã trở thành vết nhơ, vết nhục khó gột rửa trong lòng ông Hai mà khiến mọi người đều căm ghét. Chính trong lúc đau đớn ấy ông Hai hướng về những người đang ở lại làng với niềm tin chắc chắn ”họ quyết tâm một sống một chết với giặc” nhưng rồi cái tin làng chợ Dầu theo Tây lại làm cho ông nghi ngờ ”Không có lửa làm sao có khói”. Ông từng có ý định về làng nhưng lại không về “Làng thì yêu thật đấy nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Là một người đã từng yêu làng đến cháy bỏng mãnh liệt mà giờ đây phải nói câu thù làng chắc hẳn trong lòng ông vô cùng đau đớn. Ngòi bút nhà văn tập trung miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, khắc họa một cách sinh động chân dung nhân vật ông Hai nỗi xấu hổ, tủi nhục, đau đớn, lo lắng, tức giận khi nghe được tin làng theo Tây.

Để vơi đi nỗi đau đớn ông lại trò chuyện với con ”Con có muốn về làng chợ Dầu không? Con ủng hộ ai?” Và người cha ấy nhận được câu trả lời “Con có muốn về làng. Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm.” Đoạn đối thoại tuy ngắn các câu hỏi và câu trả lời đều xoay quanh làng chợ Dầu. Có thể nói rằng cuộc trò chuyện chỉ là cái cớ để ông Hai giãi bày nỗi lòng mình mặc dù nói thù làng nhưng trong lòng ông vẫn rất nhớ và muốn quay lại làng. Cho dù đã có lúc tình yêu ấy có bị thay đổi nhưng lòng tin vào cụ Hồ vẫn bền chặt thiêng liêng chưa bao giờ thay đổi. Đó chính là sự chuyển biến mới trong nhận thức tư tưởng, tình cảm của ông Hai hay của những người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Có thể nói rằng từ khi nghe làng chợ Dầu theo Tây ông Hai như sống trong những ngày tháng tăm tối bế tắc tuyệt vọng. Ngòi bút miêu tả diễn biến tâm lí của nhà văn như làm khơi sâu nhận rõ thế giới nội tâm của nhân vật lúc cảm thấy xấu hổ nhục nhã, lúc lại đau đớn tức giận.

Và rồi niềm tin của ông Hai trở thành hiện thực khi ông nhận được tin làng cải chính. Lòng kiêu hãnh của ông trở lại thói quen khoe tin làng không theo Tây khoe cả nhà bị Tây đốt. Trong lời khoe ấy vẻ đẹp nhân vật ông Hai nhận ra lòng tự trọng coi danh dự của làng quê hơn tài sản của mình.

Đoạn trích không chỉ thành công về nội dung mà còn thành công về nghệ thuật. Xây dựng cốt truyện tập trung vào sự việc người dân đi tản cư. Tạo tình huống truyện bất ngờ, đặc sắc. Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật thông qua các hình thức ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm. Lời văn đậm chất khẩu ngữ của người dân Bắc Bộ. Đoạn trích đã viết về vẻ đẹp nhân vật ông Hai người có tình yêu làng quê mãnh liệt, có lòng tự trọng. . Với nhà văn Kim Lân người đã từng sống và gắn bó am hiểu đời sống tâm lí của người nông dân để rồi nhà văn nhìn thấy ẩn sâu vẻ đẹp bình dị chất phác ấy của ông Hai hay của người nông dân là tình yêu làng, yêu nước. Họ là đội quân chủ lực của cuộc kháng chiến chính điều đó đã làm nên thành công cho tác phẩm, cho nhà văn mà các nhà văn cùng thời chưa làm được.

Đọc xong truyện ngắn Làng nhưng tinh thần, vẻ đẹp của nhân vật ông Hai, của người nông dân thì để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên. Hiểu về họ ta càng thêm yêu quý và khâm phục họ hơn. Nhìn lại người nông dân trong thời đại ngày hôm nay họ vẫn phát huy truyền thống yêu làng, yêu nước xây dựng quê hương để trở thành làng quê đẹp, nông thôn mới.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai mẫu số 2

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 mất năm 2007, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, hầu hết các sáng tác của ông đều viết về sinh hoạt ở nông thôn và cảnh ngộ của những người dân. Trong đó tiêu biểu là truyện ngắn “Làng” được viết thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Truyện ngắn đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng yêu nước sâu sắc và một tinh thần kháng chiến.

Ông Hai – nhân vật chính trong truyện ngắn “Làng”, người làng Chợ Dầu. Ông rất yêu làng, không muốn xa làng nhưng vì hoàn cảnh gia đình và theo chính sách của cụ Hồ buộc lòng gia đình ông Hai phải rời làng đi tản cư. Nhưng không phải rời làng là ông Hai bỏ lại sau lưng tất cả mà lúc nào ông cũng trông ngóng dõi theo những biến chuyển của làng quê.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện rất đặc biệt ở cái tính hay khoe về làng của ông. Trước cách mạng ông khoe làng ông giàu đẹp: “nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, đường lát toàn đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm bùn không dính gót chân”, ông khoe về làng với một tình cảm hồn nhiên ngây thơ. Với ông, cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào, cũng ăn đứt thiên hạ. Ông luôn tự hào về cái sinh phần của quan tổng đốc làng ông, đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe: “Chết chết tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được cái định cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như là động ấy.” Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên hả hê, cả làng ông vì để xây cái lăng đó rất khổ sở và bản thân ông bị tàn tật như bây giờ cũng là do bị một chồng gạch đổ vào. Vậy mà ông Hai vẫn tự hào về nó, điều này nó lên sự hạn chế trong nhận thức của ông, cũng là của người dân Việt Nam trước cách mạng.

Sau cách mạng, nhận thức của ông Hai đã thay đổi, ông không bao giờ còn đả động đến cái sinh phần đấy nữa, ông biết thù nó đến tận tim gan. Bây giờ khoe về làng ông khoe về phong trào kháng chiến với những buổi tập quân sự, những buổi cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.

Yêu làng ông Hai luôn nhớ về làng. Thực lòng mà nói ông Hai rất muốn ở lại làng cùng anh em chiến đấu, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình và theo chính sách của cụ Hồ buộc lòng ông ai phải đi tản cư. Xa làng ông Hai luôn trông ngóng dõi theo tin tức và những biến chuyển ở làng quê. Ngày nào cũng vậy dù bận công bận việc, dù lao động mệt nhọc thì ông Hai vẫn dành thời gian lên phòng thông tin huyện để nghe tin tức về làng, về cuộc kháng chiến. Yêu làng, gắn bó với làng quê nên từ lúc dời làng ông khổ tâm, day dứt khôn nguôi biết bao nỗi buồn vui của quá khứ chất chứa trong lòng. Tình yêu nỗi nhớ thương làng của ông Hai được thể hiện thật xúc động: “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá.”

Tình yêu làng của ông Hai, của người dân gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Đến đây nhà văn Kim Lân đã đặt ông Hai vào một tình huống gay cấn éo le để thử thách và khẳng định tình cảm đó: tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc.

Buổi sáng hôm đó đang trong tâm trạng vui sướng “ruột gan ông lão cứ múa cả lên”, vì nghe tin quân ta thắng lợi ở nhiều nơi thì ông Hai bất ngờ nhận được tin làng mình theo giặc từ những người tản cư lên. Nghe tin dữ đó, ông vô cùng choáng váng, sững sờ như chết điếng người đi: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được. Một lúc lâu mới dặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi: ”Ông Hai không thể tin được nhưng khi người đàn bà tản cư ấy kể quá rành rọt, buộc lòng ông phải tin. Ông cảm thấy đau đớn, xấu hổ, nhục nhã vô cùng: “Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, cúi gằm mặt xuống mà đi”. Thật khổ tâm cho ông Hai, một người nông dân hiền lành hay làm, tự hào hãnh diện về làng là thế giờ lại lủi thủi như chính mình là kẻ có tội, làm điều xấu bị mọi người xa lánh.

Về đến nhà, nhìn lũ con tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra, càng nghĩ ông càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúm, hắt hủi”, cũng là trẻ con làng Việt gian. Ông căm thù kẻ phản bội ở làng, ông nắm chặt hai tay mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này?”. Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận cao độ, oán trách thù hận, khinh bỉ ghê tởm bọn bán nước hại dân. Buổi chiều và tối hôm đó không khí gia đình ông Hai im lặng đến phát sợ, ông tỏ ra cáu gắt với vợ con. Suốt đêm hôm đó ông Hai trằn trọc không ngủ, vắt óc suy nghĩ trong lòng thì lại không tin họ cam tâm làm điều nhục nhã ấy. Có lẽ trong nỗi đau khổ tuyệt vọng ông Hai vẫn còn hi vọng bởi tình yêu làng, niềm tin tưởng vào làng Chợ Dầu của ông quá lớn. Nhưng hi vọng rồi lại thất vọng bởi cái tâm lý “Không có lửa làm sao có khói”.

Ba bốn ngày sau, ông Hai không dám bước chân ra đến ngoài. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc biến thành nỗi ám ảnh nặng nề, sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai. Vì vậy, “Cứ thoáng nghe thấy Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lại “lủi ra một góc nhà nín thít”. Thật đáng thương cho ông Hai, một người nông dân hiền lành chất phác đâu có tội tình gì?

Tình yêu làng, lòng yêu nước của ông Hai còn được thể hiện sâu sắc hơn trong cuộc xung đột nội tâm. Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở nơi tản cư tủi nhục quá, vì bị đẩy vào tình thế bế tắc với tin đồn. Không đâu người ta chứa chất người làng Chợ Dầu. Nhưng ý nghĩ đó bị xua đuổi ngay bởi về làng là trở thành Việt gian phản động, là chấp nhận cuộc đời lầm than nô lệ. Đây là điều ông không bao giờ muốn. Sau đó ông đã dứt khoát lựa chọn: “Không thể được. Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là một quyết định vô cùng khó khăn với ông Hai bởi ông rất yêu làng, gắn bó máu thịt với làng quê. Lời nói tỏ vẻ cứng rắn vậy thôi nhưng thật ra trong lòng ông lại đau như cắt. Lúc này tình yêu làng, lòng yêu nước của ông Hai tạm thời bị chia cắt đối lập nhau và ông Hai đã hi sinh tình cảm riêng tư của mình cho một tình cảm lớn lao cao cả hơn: lòng yêu nước. Đây là nét đẹp của ông Hai, của người nhân dân thể hiện rõ nhất những biến chuyển mới trong tình cảm và nhận thức của họ, bởi lẽ nước đã mất thì làng đâu còn.

Mặc dù đã xác định dứt khoát làng theo Tây mất rồi thì phải thù nhưng ông Hai không khỏi day dứt, dễ dàng dứt bỏ tình cảm đối với làng quê mà ngược lại ông càng đau xót tủi khổ hơn. Để ông Hai vơi đi phần nào nỗi đau đớn dằn vặt đó và yên tâm hơn với quyết định của mình, tác giả đã để ông trò chuyện với đứa con nhỏ ngây thơ: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ cụ Hồ con nhỉ”. Những lời tâm sự ấy thực chất là những lời tự nhủ tự giãi bày nỗi lòng mình để khẳng định tình yêu sâu nặng đối với làng Chợ Dầu, sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với kháng chiến, với Cụ Hồ. Tình cảm đó sâu nặng bền vững và vô cùng thiêng liêng, không bao giờ đơn sai: “Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Nếu tin làng Chợ Dầu theo giặc đẩy câu chuyện lên đỉnh điểm thì tin làng theo giặc được cải chính lại cởi nút cho câu chuyện. Đến đây tình yêu làng, lòng yêu nước của ông Hai hòa quyện thống nhất là một, gánh nặng tâm lý tủi nhục được trút bỏ: “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”.

Ông Hai vô cùng sung sướng và tự hào về làng, ông lại bắt đầu đi khoe về làng mình, ông lão cứ múa tay lên mà khoe, ông khoe cả cái tin làng mình nhà mình bị Tây đốt nhẵn cháy rụi. Với nhân dân thì ngôi nhà là tài sản lớn nhất giờ đây bị cháy rụi, vậy mà ông Hai vẫn hả hê sung sướng cả lòng. Bởi lẽ đây là một bằng chứng cụ thể chân thực, thuyết phục nhất chứng minh cho làng ông không phải là Việt gian phản động. Sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tinh thần mà ông được hưởng. Bởi lẽ trong sự cháy tàn cháy rụi của làng ông, của nhà ông là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu khác: làng Chợ Dầu kháng chiến. Như vậy vượt qua bao thử thách, đau đớn dằn vặt, ông Hai trở lại sống vui hạnh phúc như ngày nào. Tình yêu làng, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông đã được thể hiện thật chân thực sâu sắc và cảm động. Qua đây ta thấy được những biến chuyển rõ rệt trong đời sống tình cảm của ông, của người nhân dân.

Nhân vật ông Hai để lại dấu ấn khó quên trong lòng bạn đọc còn nhờ vào nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Trước hết là cách tạo dựng tình huống truyện căng thẳng éo le để bộc lộ đời sống nội tâm của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật cũng khá xuất sắc, diễn biến tâm trạng của ông Hai được thể hiện chân thực sinh động qua suy nghĩ hành động, bằng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm. Cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ nhân vật đậm chất khẩu ngữ thể hiện tính cách của từng nhân vật. Phải là người gần gũi, am hiểu về nông thôn, về cuộc sống của những người nhân dân và có thái độ yêu mến trân trọng họ thì Kim Lân mới viết lên được câu chuyện độc đáo, sâu sắc như thế. Nhân vật ông Hai tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nhân dân Việt Nam thời kỳ chống Pháp với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc lớn lao.

Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” đã để lại tình cảm sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi tình yêu làng, lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông. Tình cảm đó vừa sâu sắc bền chặt, vừa góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Với cách kể chuyện tự nhiên, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tạo dựng tình huống độc đáo đã làm nên thành công trong truyện ngắn “Làng”, giúp tác phẩm của Kim Lân luôn sánh bước cùng thời gian, để lại cho chúng ta bài học sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước.

(Nguồn: chuyentauvanhoc.edu.vn)

Cảm nhận về nhân vật ông Hai mẫu 3

Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nhân vật chính là ông Hai, một lão nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu.

Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi” nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái: “cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.

Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi…

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, là cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”.

Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa, đau đớn…

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai?”. Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”. Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ .

May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã, lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt sạch! Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”, “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”. Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Bài văn mẫu 4 cảm nhận về nhân vật ông Hai

Tình yêu làng, yêu nước, yêu quê hương Tổ quốc vốn là một đề tài lớn của nền văn học dân tộc, văn học yêu nước đặc biệt phát triển trong các giai đoạn có những cuộc đấu tranh cam go chống lại bước chân xâm lược của kẻ thù. Viết về chủ đề yêu nước, nhà văn Kim Lân trong tác phẩm truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai. Một người dân hết lòng trung thành với đất nước cùng sự gắn bó với nơi “chôn rau cắt rốn” của mình.

Ông Hai là một người yêu làng, luôn tự hào về làng của mình. Trong một dịp tình cờ, ông nghe được tin làng chợ Dầu yêu quý của ông đã trở thành Việt gian theo Pháp, phản bội lại kháng chiến, phản bội lại Cụ Hồ. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thể được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ… giọng lạc hẳn đi”. Chỉ một câu văn ngắn gọn, nhà văn Kim Lân đã cụ thể hóa cái sững sờ, ngạc nhiên cao độ, đến hốt hoảng khi nghe tin đột ngột. Không ngạc nhiên, sững sờ sao được khi ông luôn yêu quý và tự hào về làng chợ Dầu: bà con trong xóm, cây lúa ngoài đồng – ai, cái gì cũng tốt cả mà bây giờ cơ sự lại xảy ra đến mức “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”.

Về đến nhà nhìn đàn con chơi đùa sậm sụi đáng thương với nhau, ông Hai vật ra giường “giàn nước mắt”. Đấy là những giọt nước mắt đau đớn, buồn tủi. Ông đau đớn, buồn tủi vì nghĩ đến sự khinh bỉ, hắt hủi của mọi người. Rồi đây người ta xua đuổi cả những đứa trẻ của làng Việt gian nữa. Chúng nhỏ bé, đáng thương nào có nỗi gì. Điều đó chẳng đau đớn, xót xa, buồn khổ lắm sao? Càng nghĩ, ông càng căm giận đến cùng những kẻ bán nước theo giặc để nhục làng, bôi xấu danh dự của làng, trong đó có ông. Ông coi chúng là “chúng bay”, không cùng phường, cùng hội, càng không phải giống người! Rít lên trong cuống họng, ông nguyền rủa: “Chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước nhục nhã thế này”. Ở đây, Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại để bộc lộ tâm trạng nhân vật.

Mường tượng, hình dung đến sự tẩy chay của mọi người, ông không khỏi lo lắng “rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy…?”. Tâm trạng lo lắng được ông đẩy lên thành lo sợ. Ông cáu gắt với bà vô cớ. Ông trằn trọc thở dài. Ông bủn rủn tay chân. Ông nín thở lắng nghe. Ông nằm im không nhúc nhích. Hóa ra ông sợ mụ chủ nhà khó tính, lắm điều biết chuyện sẽ “không ra cái gì bây giờ”. Sau đó ông không dám ra khỏi nhà, không đi tới đâu, lúc nào cũng nghĩ đến “chuyện ấy”. Một đám túm lại ông cũng để ý. Dăm bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ. Thoáng nghe những tiếng “Tây”, “cam nhông”, “Việt gian” là ông lại lủi ra góc nhà, thở dài não nuột: “Thôi, lại chuyện ấy rồi”. Thông qua hành vi, cảm giác, ý nghĩ của nhân vật, Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề thành sự sợ hãi trong lòng ông Hai.

Cuối cùng, tâm trạng ông Hai được bộc lộ trong tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt hơn: Làng chợ Dầu theo giặc thì làng chợ Dầu không ai chứa. Ở hoàn cảnh này, tâm trạng của ông Hai trở nên u ám, tuyệt vọng và bế tắc. Ông Hai đã phải trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, đó là về hay không về làng chợ Dầu. Không về làng chợ Dầu thì ông không biết đi đâu, còn về làng thì “Về bây giờ là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Cuối cùng, ông Hai đã quyết định dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng mà theo Tây thì phải thù”. Quyết định, tâm trạng và thái độ của ông Hai cho thấy nỗi lo cơm áo dẫu nặng thế nào cũng không đáng sợ bằng nỗi nhục bán nước, tình yêu làng quê dẫu tha thiết bao nhiêu cũng không lớn hơn mà gắn bó với tình yêu Tổ quốc.

Khi đích thân ông chủ tịch xã lên tận chỗ ông Hai báo lại sự việc: “Hóa ra toàn sai sự mục đích cả”. Khi ấy, nỗi vui mừng trong lòng ông Hai thật là vô bờ bến. Ông mua quà cho lũ trẻ. Ông đi đầu thôn cuối xóm, lăng xăng chạy tới chạy lui, rời nhà này sang nhà kia hả hê loan báo: “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn”. Ông nói về sự mất mát hệt như khi khoe giàu, khoe đẹp làng mình vì đó là sự cải chính hùng hồn nhất bảo vệ danh dự cho ông, cho làng chợ Dầu.

Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, diễn biến tâm trạng của ông Hai vô cùng phức tạp, ông đau khổ, tuyệt vọng sau đó lại đấu tranh dữ dội giữa suy nghĩ về làng hay không về làng. Nhà văn Kim Lân đã đặt ông Hai vào một tình huống có thể thấy là vô cùng éo le, tuy nhiên sau tình huống ấy, tính cách và con người của ông Hai cũng được bộc lộ một cách rõ nét, trọn vẹn. Ông đặt tình yêu nước lên trên hết, dù yêu quê nhưng ông một lòng trung thành với đất nước, với cụ Hồ. Qua nhân vật ông Hai, chúng ta cũng thấy, Kim Lân am hiểu sâu sắc con người, thế giới tinh thần của con người, nhất là người dân quê.

Bài văn mẫu 5 cảm nhận về nhân vật ông Hai

Có người từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.” – dù con người và quê hương có bị cách trở bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn “Làng” của nhà văn kim Lân – một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước.

Nhân vật ông Hai là điển hình cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Đối với ông, tình yêu làng quê gắn với cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tất cả buồn vui của ông đều bắt nguồn tù chuyện làng, tin cách mạng. Thói hay khoe làng cho thấy tình yêu và niềm tự hào của lão nông ấy đối với ngôi làng chợ Dầu: ông khoe làng có chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, khoe đường làng lát toàn đá xanh…Sau cách mạng tháng Tám, ông lại khoe về tinh thần kháng chiến ở làng với niêm kiêu hãnh vô bờ. Yêu làng như thế nên khi phải xa làng, đến nơi tản cư, ông lão nhớ làng lắm, nhớ những ngày đào hầm, đắp ụ, nhớ những khóa bình dân học vụ… Phải có tình cảm gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn rau cắt rốn, ông Hai mới mang trong mình nỗi nhớ da diết đến vậy.

Nhưng trớ trêu thay, ngôi làng mà ông lão hết sức tự hào, đi đâu cũng khoe kia lại bị đồn là làng Việt gian. Mới đầu khi nghe giặc vào làng, ông lão giật mình, lắp bắp hỏi: “N..nó vào làng chợ Dầu khủng bố hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Câu nói ấy cho thấy ý nghĩ về làng quê luôn thường trực trong tâm trí ông nhưng rồi “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Cảm giác bàng hoàng, sững sờ đến tê dại cả người và cả nỗi đau quặn thắt khiến ông “lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Có thể nói nhà văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của nhân vật thật tinh tế. Càng yêu làng bao nhiêu giờ đây, ông Hai càng đau xót, tủi hổ bấy nhiêu. Ông cứ “cúi gằm mặt xuống”. Phải chăng nỗi đau đớn nhất lúc này chính là ông không thể nhận mình là người con của làng chợ Dầu được?

Rời khỏi quán nước, về đến nhà, bộ dạng của ông lão thật tội nghiệp, ông đã tự rít lên vì không biết trút nỗi lòng vào đâu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ta có thể thấy những suy nghĩ, tâm trạng của ông chủ yếu được thể hiện qua hành động, lời nói và yếu tố miêu tả bên ngoài, có yếu tố độc thoại nội tâm nhưng không nhiều, điều đó hoàn toàn phù hợp với ông Hai – một lão nông chân quê.

Nỗi đau đớn dường như đã chuyển thành nỗi sợ hãi. Tâm trí ông như bị ám ảnh khiến ông cả ngày chỉ dám quanh quẩn trong nhà, ông trở nên nhạy cảm với những gì mà ông cho rằng có liên quan đến cái tin dữ kia: “cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà nín thít”. Lúc bị mụ chủ nhà đuổi, tâm can ông giằng xé với ý nghĩ: “hay là quay về làng”. Nước mất thì nhà tan, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…”. Nhận thức được điều đó nên dù rất đau đớn, xong ông vẫn đưa ra quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây quả là một quyết định táo bạo, tiến bộ của người nông dân. Tình cảm của họ đã vượt qua lũy tre làng để đến với dân tộc, với cách mạng.

Những ngày sau đó, không có hay nói chính xác hơn là không biết phải tâm sự với ai, ông đành trò chuyện với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Nhưng điều đặc biệt ở đây là cuộc nói chuyện nhắc tới làng chợ Dầu – ngôi làng mà chẳng phải ông đã “thù” đó sao. Có lẽ tâm trí ông vẫn ôm ấp dáng hình một ngôi làng tươi đẹp mà con tim từng hết mực yêu quý? Lời con nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với làng, với đất nước?

Đến khi tin làng chợ Dầu Việt gian theo giặc được cải chính, ông Hai phấn khởi vô cùng, ông lại đi khoe khắp nơi về làng, về ngôi nhà bị cháy của mình. Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt. Đó là chứng cứ hùng hồn nhất cho việc làng ông đã chiến đấu kiên cường. Ông Hai đã quên đi vật chất riêng để hòa vào niềm vui chung của dân tộc. Giờ đây niềm tin của ông vào ngôi làng kháng chiến càng được khẳng định mạnh mẽ, vững vàng hơn. Và tình yêu làng quê – tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam đã vang lên trong câu hát:

“Làng ta phong cảnh hữu tình

Dân cư giang khúc như hình con long”.

Thế nhưng chỉ ở người nông dân sau cách mạng tháng Tám, tình yêu làng mới hòa quyện sâu sắc, thống nhất với tình yêu đất nước, niềm tin lãnh tụ và ủng hộ cách mạng.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của nhà văn Kim Lân, nhân vật ông Hai đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình huống: ở nơi tản cư, ông Hai nghe tin làng mình theo giặc. Chính tình huống ấy bộc lộ rõ nội tâm của ông. Tình yêu làng bỗng trở nên mâu thuẫn với tình yêu đất nước, một tình cảm vốn là cội nguồn, một tình cảm tuy mới hình thành nhưng lại sâu nặng khiến cho ông không thể dứt bỏ. Cũng từ đây những suy nghĩ đa chiều được miêu tả rõ, góp phần thể hiện chủ đề truyện.

Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công tình yêu làng, yêu nước mộc mạc chân thành nhưng sâu nặng của những người nông dân. Tác phẩm cũng nêu lên chuyển biến tích cực trong nhận thức của quần chúng cách mạng, thể hiện sự sáng tạo tài ba của nhà văn Kim Lân.

Tham khảo thêm:

  • Cảm nhận về tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng
  • Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân

Cảm nhận về nhân vật ông Hai bài số 6

Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí mà ở đó còn chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện: “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động”. Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng.

“Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá”. Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ”. Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được?”), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi”). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy.

“Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?”. Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bấy nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”. Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.

Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!”. Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai.

Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc”. Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiện ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh”. Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.

Nguồn: Lớp văn cô Phương – Luyện văn lớp 9 tại Hà Nội

Cảm nhận về nhân vật ông Hai mẫu số 7

Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về người nông dân lam lũ, nghèo khó nhưng giàu lòng nhân hậu và yêu nước. Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hòa nhập trong lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê, tình yêu đất nước thiết tha, sâu nặng.

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu. Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây”.

Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi” nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”. Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi…

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa, đau đớn… Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai?”… Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”… Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ…

May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã, lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt sạch! Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”. “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”. Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng, hạnh phúc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai, ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

(Nguồn: Lớp văn cô Thu)

Cảm nhận về nhân vật ông Hai mẫu 8

Trong mỗi cuộc kháng chiến của dân tộc ta, lòng yêu nước cùng sự đoàn kết một lòng của nhân dân chính là thứ vũ khí mang sức mạnh to lớn, góp phần không nhỏ vào những chiến thắng vẻ vang ghi danh sử sách muôn đời. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân chính là một trong những tác phẩm ca ngợi tinh thần cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của người dân Việt. Cụ thể, những nét đẹp ấy sẽ được thể hiện qua nhân vật ông Hai – một người có tình cảm gắn bó sâu sắc với làng, với quê hương và đất nước.

Làng đối với người dân Việt không chỉ là một đơn vị hành chính – địa lý, mà nó còn là tất cả cuộc sống xã hội của họ. Tại nơi đó lưu giữ mọi thứ gắn bó, đơn sơ nhất đi theo suốt cuộc đời mỗi con người. Làng vì thế mà chính là khái niệm đầu tiên của họ về hai chữ “quê hương”.

Nhưng trong “Làng” của Kim Lân, có thể thấy đó chỉ là một cái nền để làm nổi rõ phẩm chất của một nhân vật, một người yêu làng, gắn bó với làng, đó chính là ông Hai. Bởi trong câu chuyện chẳng có một chi tiết nào miêu tả cái làng Chợ Dầu ấy, mà người ta chỉ viết về cái làng Chợ Dầu thông qua lời kể của ông Hai, qua lời của những người dân tản cư, hay qua lời của bà chủ nhà… Trong truyện, nhiều nhất vẫn là những nỗi niềm mong nhớ của ông Hai, xuất phát từ tình yêu làng nồng nàn, thiết tha.

Ông Hai là một người nông dân hay làm, chịu khó. Nhưng ông không phải là kiểu người hiền lành với tầm mắt và suy nghĩ suốt đời không vượt khỏi lũy tre làng. Ông Hai vui tính và có cái tinh khôn láu lỉnh của người nông dân hay đi đây đi đó. Ông có điểm rất buồn cười nhưng lại khiến người đọc cảm thấy đáng mến và dễ chịu, đó là khi ông đi nghe đọc báo một cách vô cùng khổ tâm nhưng lại không muốn ai biết mình đọc còn quá kém, là khi ông “hét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”.

Cả cảnh ông nghe anh dân quân mới biết đọc, đánh vần chữ nào thì đọc luôn chữ ấy cũng khiến cho không khí kháng chiến một thời như được tái hiện một cách rõ rệt. Ông thích thú khi được tham gia bàn các chuyện “quốc gia đại sự” một cách say sưa và hưng phấn, mặc dù ông cũng tự biết ông chỉ được học lỏm cả thôi, nhưng vẫn không ngừng sảng khoái, thích thú và tự hào.

Chỉ với vài nét phác thảo, Kim Lân đã giúp người đọc có thể hình dung được hình ảnh một ông Hai rất chân thực, rất sống động và cũng vô cùng gần gũi. Thông qua lời nói, cử chỉ, tính cách của ông Hai đã được bộc lộ một cách rõ nét, để rồi ta có thể tự cảm nhận được rằng, một người như ông Hai sao có thể chịu được cảnh tù túng trong gian nhà tản cư, phải chịu cảnh ăn nhờ ở đậu, phải sống trong ánh sáng chập chờn của đèn dầu, phải chịu đựng tiếng lầm bầm tính toán các món tiền nhỏ hằng ngày của vợ? Sự bí bách ấy khiến ông càng muốn đi tìm người nói chuyện.

Ông thích giao tiếp, ông thích sự hiểu biết, ông thích cả việc khoe làng, khoe mọi thứ hơn người mà làng ông sở hữu. Bởi vì làng cũng chính là ông, làng chính là những điều tốt đẹp nhất của ông. Đó là nhận thức chính trị tuy đơn giản nhưng lại dứt khoát và rạch ròi của một người nông dân: nếu như trước đây ông mải mê ca ngợi cái làng của viên Tổng đốc, thì đến khi ông thấy thù, thấy khổ vì nó, ông lại khoe ngược lại, khoe về thế giới của ông. Khi ông đi nghe tin tức về những ngày tổng khởi nghĩa, những ngày kháng chiến bùng nổ thì vẫn là cái làng ấy, nhưng giờ đây, cái làng ấy đã trở thành làng “của ta” – làng của ông và những người như ông.

Trong lúc phải xa làng, phải sống một cuộc sống chật hẹp, tù túng, thì hình ảnh về ngôi làng trong suy nghĩ của ông càng trở nên đẹp đẽ. Những điều ông vẫn nói về làng giờ đã trở thành niềm tin, niềm tự hào và ước vọng của ông. Mỗi tối, ông đều nói về làng, có lúc ông như đang trách móc ông hàng xóm không nghe chuyện của ông, nhưng thực ra, ông nói cũng chỉ để thỏa nỗi nhớ và niềm ao ước cho chính mình.

Đặc biệt, việc tác giả miêu tả về mụ chủ nhà của ông Hai với những tích cách tương phản với ông Hai đã càng bộc lộ tính cách của ông. Ông Hai vốn dĩ là một người dễ tính, xởi lởi, nhưng ông cũng không thể chấp nhận được việc ở gần một người đàn bà xấu tính, tham lam tai ác ấy. Dường như chính nhân vật mụ chủ nhà đã làm nền cho phẩm chất cao đẹp của ông Hai tỏa sáng. Vì ghét mụ chủ nhà, ông ghét lây cả người chồng hiền lành của mụ vì anh ta không biết dạy vợ.

Làm sao ông Hai có thể bó mình mãi trong gian nhà chật hẹp, lại còn phải đối phó với người đàn bà quá quắt như thế? Vì thế, ông đã nghĩ có dịp là ông sẽ bỏ đi ngay, phó mặc mọi thứ lại cho con. Giây phút ông Hai sung sướng nhất có lẽ chính là buổi trưa hôm ấy, khi ông đang bước trên con đường làng, mọi sự tù túng dường như đều đã tan biến, giờ ông đang lao vào thế giới của chính ông. Ông Hai đi nghe tin tức, rồi phấn khởi trước thắng lợi của dân tộc, ông vui đến mức “ruột gan ông cứ múa cả lên”.

Đúng lúc đang hân hoan vui sướng ấy, ông lại nghe phải tin sét đánh về ngôi làng của ông. Tin ấy nào phải làng ông bị đốt hay nhà cửa, ruộng đất, mồ mả ông cha bị mất, mà tin dữ nhất chính là cả làng mà ông vẫn thường mong nhớ đã Việt gian theo Tây. Thật đáng thương cho ông – người vui tính, hay chuyện, ngày ngày mong ngóng tin làng, lúc này lại phải xấu hổ “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác” rồi “cúi gằm mặt đi thẳng”.

Khoảnh khắc ấy, ông lặng đi “tưởng như không thở được”. Cũng đúng thôi, một người yêu làng, tự hào về làng như ông làm sao tưởng tượng được nỗi đau nỗi nhục này? Đến lúc này, ông lại trăn trở về tình yêu làng trong ông. Cái làng ấy không chỉ là những cái đơn sơ gắn bó với cuộc đời mỗi con người như thôn ngõ xóm, ao làng giếng làng, đường gạch… mà nó còn là một cái gì đó lớn hơn, là danh dự, là một chỗ đứng và là cái lẽ làm người. “Cả cái nước Việt nam này, người ta ghê tởm thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Làng lúc bấy giờ đã gắn liền với đất nước, với cuộc kháng chiến chung của dân tộc trong ý thức của ông Hai.

Nhưng đó nào chỉ là suy nghĩ của riêng ông Hai, mà đó còn là nhận thức chung của người dân cả nước, từ người vùng tự do đến người trong vùng tạm chiến, từ người đàn bà tản cư đến mụ chủ nhà với cái lệnh dứt khoát “đuổi hết những người làng Chợ Dầu không cho ở nữa”. Đó chính là lòng căm thù của người dân ta trước những kẻ bán nước, nhưng cũng có phần hơi cực đoan lúc bấy giờ. Khi bị đuổi đi, ông Hai cũng nghĩ đến việc quay về làng, nhưng ông lại tự phản đối chính mình “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Đó chính là nỗi đau xót xa cùng những giằng xé trong nội tâm ông Hai.

Ông Hai chẳng còn biết tâm sự với ai, chỉ có thể trò chuyện cùng với đứa con út – như một cách ông tự thanh minh cho làng của mình. Khi nhận được tin làng ông không hề theo giặc, những tin tức kia chỉ đều là bịa đặt, ta có thể dễ dàng cảm nhận được ông đã vui sướng đến mức nào. Có lẽ trên đời này chưa có ai đi khoe từ đầu làng đến cuối làng cái việc “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn” với giọng điệu và tâm trạng hả hê, sung sướng như ông. Có lẽ, sự cháy rụi của nhà ông chính là minh chứng cho sự hồi sinh của một ngôi làng – làng Chợ Dầu kháng chiến.

Ông nói lại trong niềm vui hồ hởi, trong sự phấn khích tột độ “Cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả”. Chi tiết này đã thể hiện tình cảm lớn lao, mãnh liệt của ông Hai đối với làng. Biết chuyện, ai cũng đều mừng cho ông, kể cả mụ chủ nhà tinh quái. Thái độ của mụ khiến cho ai cũng bất ngờ, nhưng đó cũng chính là thái độ của người dân Việt Nam sống trong không khí Cách mạng, đồng thời là sự đồng lòng, đoàn kết và tình yêu nước của toàn thể nhân dân trên cả nước.

Có thể khẳng định rằng, linh hồn của truyện ngắn “Làng” chính là ông Hai. Kim Lân đã rất tài tình trong việc khắc họa nên hình ảnh một nhân vật với bức chân dung sống động, đẹp đậm đà bản sắc riêng của người nông dân Việt Nam những ngày đầu kháng chiến. Họ chỉ là những người nông dân hiền lành, có phần nhỏ bé, nhưng lại ấp ủ trong mình những phẩm chất tốt đẹp cùng lòng yêu nước nồng nàn. Chính họ sẽ góp sức mình vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc.

Liên hệ: Tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Làng và Chiếc lược ngà

Kiến thức bổ sung

Hoàn cảnh sáng tác

Truyện ngắn “Làng” viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.

Tình huống truyện

Ông Hai là một người nông dân yêu làng, ở nơi tản cư mới, làng chính là niềm tự hào của ông. Một ngày ông nghe được tin dữ – làng Chợ Dầu theo giặc, làm Việt gian. Hoàn cảnh có tính bước ngoặt ấy đã đẩy nhân vật ông Hai vào tình huống đầy thử thách và giúp ông bộc lộ tính cách, tâm trạng của mình.

Tóm tắt truyện ngắn Làng

Ông Hai là một người nông dân sống ở làng Chợ Dầu, do chiến tranh nên ông phải đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông luôn tự hào về cái làng của mình và mang nó khoe với mọi người. Khi tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông sững sờ, cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, xấu hổ tới mức cứ cúi gằm mặt xuống mà đi. Suốt mấy ngày ở nhà, ông chẳng dám đi đâu, mang nỗi ám ảnh nặng nề, đau đớn, tủi hổ, bế tắc, tuyệt vọng. Tâm trạng ông bế tắc khi mụ chủ nhà nói sẽ đuổi hết người làng Chợ Dầu khỏi nơi sơ tán. Rồi cái tin cải chính khiến ông sung sướng đi khoe về làng mình với tâm trạng như lúc ban đầu, ông hạnh phúc khi khoe Tây nó đốt nhà mình.

>> Có thể bạn cần: Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân

    Trên đây là một số bài văn mẫu hay cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng (Kim Lân). Đừng quên tham khảo kho tài liệu Văn mẫu lớp 9 để cập nhật thêm nhiều bài văn hay khác giúp bạn rèn luyện kỹ năng làm văn, chuẩn bị tốt cho các bài thi và kiểm tra môn Văn. Chúc các em học tốt!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button