Văn mẫu 10

Cảm nhận đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du

Tham khảo những bài văn mẫu 10 hay nhất cảm nhận đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, sự thành công của Nguyễn Du khi miêu tả tâm trạng của Kiều.

Đề bài

Cảm nhận đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du

Bài tham khảo cảm nhận đoạn trích Nỗi thương mình

Bài tham khảo 1

Nghệ Tĩnh, vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí vững, tâm hồn mạnh mẽ. Đại thi hào Nguyễn Được cũng là một trong những người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều, nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại.

Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh tương đố mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều có một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là Thúy Kiều – con người tài sắc vẹn toàn. Những cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời. 

Đoạn trích Thúy Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều bị mắc lừa sở khanh bị Tú bà đánh đập tàn nhẫn. Thúy Kiều phải nhận lời tiếp khách làng chơi. Đoạn trích Kiều thương mình nằm từ câu 1229 đến 1240. Đoạn trích lên cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thúy Kiều sau khi tỉnh giấc à tự thương mình. Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đi miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:

Lầu xanh mới rủ trướng đào  

Cành treo giá ngọc, càng cao phẩm người. 

Bướm lả – ong lơi , Lá gió – cành chim. Nguyễn Du diễn tả những du khách làng chơi ở một tầng bậc cao độ. Đây là cảnh sinh hoạt của một tổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ gợi hình, gợi cảm độc đáo. Chính sự tác từ đã làm cho cuộc vui tăng lên gấp bội: lả lơi…một cách ăn chơi nổ trời và không lúc nào ngớt khỏi cảnh kiếm tìm, đưa đón tấp nập khiến cảnh trông thấy được nhân lên gấp bội với hình thức ngôn ngữ đặc biệt. Đó là xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ, một chủ thể, một vật thể đựợc tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ và vô cùng trác táng.  

Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến, vì đông người nên giá mua vui càng cao.

Hai câu tiếp theo của đoạn trích:

Biết bao bướm lả ong lơi  

…Dập dìu lá gió cành chim  

Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng…Đây chính là cách dùng ngôn ngữ độc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả về những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như những loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi. Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:

Khi tỉnh rượu lúc tàng canh  

Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp, ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả. Tỉnh rượu khi tàn, Kiều tỉnh giấc và thương thân mình: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Chỉ với câu thơ này mới đưa nàng Kiều tự phận gái lầu xanh trở về với thân phận nàng Kiều trong chính bản thân mình. Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình nhất, tự thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay của bản thân mình. Và một khi đã ý thức được những hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, là nhân phẩm, bản chất tốt đẹp của nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thôi đã có đến ba chữ mình là lúc Kiều  cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương mình lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn toàn nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong lúc này. Chữ mình thứ hai là loại câu nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời từ Kiều nói cho mình, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như xông vào câu chuyện của Kiều như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình vào câu chuyện của Kiều để cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa, làm lay động lòng người.  

Sau đó Kiều luôn sóng trong tâm trạng buồn thương:

Khi sao phong gấm rủ là  

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? 

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường thế thân  

Mặc người mưa Sở, mưa Tần  

Những mình nào biết có xuân là gì?  

Trong Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập bơ với quá khứ, một qua khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đớn đau của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hòan toàn với bản chất tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đây. Thúy Kiều trước đây là Thúy Kiều rung động trước hình bóng văn nhân, một đóa hải đường hay một ánh trăng xanh, một xúc động trước cảnh ngộ thương tâm của con người đời xưa…  

Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực mà trước đó là cuộc sống êm đềm hạnh phúc kẻ đón người đưa, tinh khôi, nõn nà, thơm tho…và bây giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị vùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bị lìa khỏi cội. Một cuộc sống thật phũ phàng, một cuộc đời thê bỉ, với cảnh tượng giày vò mua đi bán lại:

Khi sao phong gấm rủ là  

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường  

Ở đây không đơn thuần chỉ là sự so sánh. Hai từ sao đặt liền câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt, một nhân vật thành hai nhân vật, hai thân phận. Khi sao – giờ sao đây là hai khoảng thời gian cách biệt khác nhau cộng lại là nỗi chua xót đắng cay tủi thân đến vô bờ:

Mặt sao dày gió dạng sương  

Thân sao bướm chán ong chường thế thân.  

Biểu hiện tại dày gió dạn sương nỗi buồn chán tăng lên gấp bội. Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đây mặt trơ trơ. Nàng nhớ đến hành vi đã qua cay đắng tủi nhục khôn cùng chỉ khi tâm hồn chết theo thì Kiều mới sống được ở chốn lầu xanh này mà chi có thể quên đi những gì êm đềm tốt đẹp trước đây, một thời trướng phủ màn che quên đi bản thân mình thì Kiều mới có thể tồn tại được trong xã hội này.  

Thông qua việc miêu tả đoạn trích Kiều tự thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của Kiều. Cái biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích này là miều tả tâm trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp với nội tâm thì thiên nhiên lập tức xuất hiện để nói hộ lòng người. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thía. Một con người có ý thức sâu xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xóa bỏ được ý thức ấy ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.

>> Xem thêm: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du

Bài tham khảo 2

Đây là đoạn thơ miêu tả tâm trạng đau đớn, ê chề của Thúy Kiều sau khi buộc phải làm kĩ nữ, tiếp khách ở lầu xanh. Khi biết rơi vào nhà chứa, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Nàng định liều chạy trốn theo Sở Khanh nhưng lại bị Sở Khanh lừa, bị Tú Bà bắt lại, đánh đập tàn nhẫn, cuối cùng buộc phải tiếp khách.

Kiều là một cô gái đẹp, cho nên nàng phải tiếp khách liên tục, cơ hồ như không dứt ra được.

“Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Một không khí thật là náo nhiệt, ồn ào nơi chốn lầu xanh. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, nó hoàn toàn tương phản với những nỗi lòng tê tái của nhân vật ở bên trong. Nguyễn Du rất biết khai thác các tương phán để miêu tả nỗi lòng, biết phân tích sự khác biệt bề ngoài và bề trong. Phải hiểu nỗi đau đớn trong tâm hồn mới hiểu được phẩm giá của Kiều.

Cả đoạn thơ này tác giả không miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều trong một thời điểm nào, một buổi nào, một ngày nào, mà miêu tả một tâm trạng triền miên trong chuỗi ngày tiếp khách liên tục Ngày tháng chỉ là một sự chồng chất và kéo dài. Khi cuộc sống trở nên vô nghĩa thì người ta tính ngày tháng cụ thể để mà làm gì? Nỗi thương mình của Kiều hiện lên những lúc vắng vẻ, những khi xong việc nàng tự đối diện với chính mình. Đó là nỗi đau thầm kín đằng sau các hoạt động tiếp khách ồn ào, rộn rã. Ở đây sự miêu tả kết hợp với thuật theo bút pháp tự (kể) tình. Tác giả lần lượt kể và tả những nỗi thương mình.

Thứ nhất là nỗi thương thân, xót thân, tiếc thân:

“Khi tỉnh rượu, lức tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót. xa.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân!

Mặc người mưa Sở, mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gỉ?”

Hai tiếng “giật mình” rất hay, nó nói lên cái thần của con người những lúc ngẫm lại những thay đổi quá lớn của cuộc đời. Ba chữ “mình” trong một câu  nói lên sự cùng cực cô đơn: mụ chủ chỉ biết tiền, khách chơi chỉ biết sắc, gia đình ở xa, không ai biết là Kiều bị lừa, chẳng ai biết cho đời một người con gái tan nát! Nổi lên trên hết là sự nuối tiếc một phẩm giá bị chà đạp. Hình ảnh “phong gấm rủ là” nói lên hình ảnh của tấm thân vàng ngọc, được khoác gấm, rủ bức là, tức tấm thần bọc trong nhung lụa, quý báu, thế mà nay như hoa giữa đường, ai qua lại cũng có thể xéo lên tàn nhẫn!

Thứ hai là nàng ghê tởm chính bản thân mình: con người khuê các vốn kín đáo, e thẹn, nay đã thành mặt dạn mày dày “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. “Bướm chán ong chường” không phải là nói khách chơi chán chường Kiều, mà nói chính Kiều chán chường bản thân mình, sao mình lại trở thành con người tiếp khách trơ trẽn, vô liêm sỉ như thế được? Từ đây Kiều chỉ sống như một món hàng, một thứ đồ chơi, không sống như một con người nữa. Nhiều sách chép câu “Những mình nào biết có xuân là gì” thành “Riêng mình nào biết có xuân là gì”. Chữ “những” có lẽ đứng hơn, hợp hơn. Đó là “những mình”, như loại mình… bao hàm cái ý chán mình ở trong ấy.

Thứ ba là nỗi buồn và bẽ bàng:

“Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.

Cảnh tượng nhìn qua quả là rất nên thơ, mà lòng nàng lại ủ dột:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

 Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!

Đòi phen nét vẽ câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”.

Cảnh quả là vui thú, tao nhã, phong lưu, nhưng đối với Kiều chi là vui gượng: “Ai tri âm đó, mặn mà với ai?”. Đó chẳng qua là các trò chơi để giết thì giờ không mảy may ý nghĩa.

Thứ tư là sự cô đơn, đau đớn một mình, câu này tuy không có trong đoạn trích nhưng rất có ý nghĩa:

“Thờ ơ gió trúc mưa mai,

Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân”.

Những nỗi lòng thương thân, xót thân, chán mình, buồn khổ cô đơn, vui gượng gạo như thế đã chứng tỏ mạnh mẽ Kiều là một con người có phẩm giá, không phải người tà dâm, lấy việc tiếp khách làm chuyện vui thú.

Có lẽ nói những nỗi lòng tan nát hợp hơn là những nỗi lòng tê tái chăng? Trong nỗi lòng Kiều, nổi lên tình cảm đau đớn vì tha hương lưu lạc và cảm giác thời gian kéo dài nặng nề vô nghĩa.

Khi thuật lại nỗi thương mình của Kiều, nhà thơ dùng lời kể với điểm nhìn bên trong của nhân vật. Bốn câu đầu chỉ là miêu tả cảm giác của Kiểu về các sự việc diễn ra với nàng. Những câu còn lại đều có chủ ngữ là “mình”, mình tự nhìn mình, mình nghĩ về mình. Thử hỏi lúc này ai có thế suy nghĩ thay cho nàng được? Với điểm nhìn ấy, khi đọc đoạn thơ, ta như trực tiếp đọc được những ý nghĩ thầm kín hết sức đau đớn của bản thân Kiều, chứ không phải nghe lời do ai đó thuật lại. Lẽ dĩ nhiên đó vẫn là lời thuật của Nguyễn Du, nhưng điểm nhìn trần thuật bên trong là của Kiều đã tạo ra hiệu quả đó.

Nguyễn Du là nhà thơ rất tinh tế. Để miêu tả những cảnh tầm thường, dung tục nơi lầu xanh, tác giả chỉ gợi qua các biểu tượng với những cụm từ được cấu tạo đặc biệt.

–  bướm lả ong lơi

–  lá gió cành chim

–  bướm chán, ong chường

–  mưa Sờ, mây Tần

– gió tựa, hoa kề

Nếu nói ong bướm lả lơi thì có thể chỉ việc xảy ra một lần. Đảo lại thành ra nhiều lần. Bướm chán, ong chường cũng thế. Lá gió cành chim, gió tựa hoa kể đều chỉ các sự trăng gió, nhưng cách nói mới lạ và đa dạng, lại tao nhã.

Nguyễn Du không chỉ kể, tả mà còn gợi, tạo cảm giác cho người đọc. Đây là đoạn văn tài hoa, tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả tâm lí của Truyện Kiều

Bài tham khảo 3

“Nỗi thương mình” của Nguyễn Du, là một đoạn trích thể hiện rõ nét tài năng sử dụng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ. Nó cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Nguyễn Du (1765 – 1820) quê ở Thăng Long, tên chữ Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – một xã hội thối nát, suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu biết về lối sống phong lưu xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều kiện dùi mài kinh sử. Ông được tiếp thu truyền thống học tập và sáng tác của cả gia đình, tạo cho ông vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối sống tao nhã, khiến ông hiễu rõ về tầng lớp phong kiến. “Truyện Kiều” còn có tên Đoạn Trường Tân Thanh là một trong những sáng tác chính của ông. Bên cạnh đó “Nỗi Thương Mình” là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.

Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra. Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Thúy Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.

Cảm nhận đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du

Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh 

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Thúy Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật mình ko chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu ko có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình” lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.

Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là 

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương 

Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây đc Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:

“Mặc người mưa Sở mây Tần 

Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ “xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ “mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

“Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của K, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân. Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.

Tham khảo:

Cảm nhận đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du

Phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Bài tham khảo 4

Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí ý vững bền, tâm hổn mạnh bạo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại. Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn Du. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội. Với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là nhân vật Thúy Kiều – một con người tài sắc vẹn toàn. Nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời. Đoạn trích Thuý Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tàn nhẫn. Thuý Kiều đành nhận lời tiếp khách làng chơi.

Đoạn trích Nỗi thương mình nằm ở vị trí từ câu 1229 đến 1240. Tái hiện cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thuý Kiều sau khi tỉnh giấc thấy xót thương mình.

Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:

Lầu xanh mới rủ trướng đào

Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.

Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến vì đông người nên giá mua vui càng cao.

Hai câu tiếp theo của đoạn trích:

Biết bao bướm lả ong lơi

…Dập dìu lá gió cành chim.

Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước… tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng. Đây chính là cách dùng ngôn ngữđộc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi.

Bướm lả – ong lơi

Lá gió – cành chim

Cảnh sinh hoạt ở một ổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng khá đặc biệt, xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ một chủ thể, một vị thể được tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ mà vô cùng trác tán.

Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất hiện là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp mà ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả.

Khi tỉnh rượu cũng là lúc đã tàn canh. Hay đúng hơn cũng là lúc cuộc chơi đã hết. Kiều tỉnh giấc và thương mình: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Câu thơ này đã đưa nàng Kiều từ phận gái lầu xanh trở về với con người nàng Kiều đích thực.

Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng minh nhất, tự ý thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay về bản thân mình. Và đôi khi đã ý thức được hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, và lúc này đây sự trỗi dậy của nhân phẩm, của bản chất tốt đẹp ở nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thôi có tới ba chữ mình nhưng Kiều vẫn cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn cảnh của mình, bản thân mình, không ai có thể thấu hiểu bản thân mình bằng mình trong lúc này. Chữ mình thứ hai này nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời Kiều tự nói với mình, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình và cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa có độ sâu làm lay động lòng người.

Sau khi giật mình và tự thương mình Kiều luôn sống trong tâm trạng buồn thương:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

Mặc người mưa sở, mây

Tần Những mình nào biết cố xuân là gì?

Tâm trạng của Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập với quá khứ, một quá khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đau đớn của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất, tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đấy.

Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực. Trước là cuộc sống êm đềm hạnh phúc, tinh khôi… giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị dùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bi lìa khỏi cội. Cuộc sống thật phũ phàng, cuộc đời thô bỉ, với cảnh tượng dày vò, mua đi bán lại:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Ở câu thơ này không đơn thuần chỉ là sự so sánh hai từ sao đặt liền nhau câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt. Một con người, hai thân phận, cộng lại là nỗi chua xót đắng cay, tủi thân đến vô bờ:

Mặt sao dày gió dạn xương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đày mặt dày gió dạn xương. Nàng nhớ đến những, bướm lả ong lơi mà cay đắng tủi nhục, khôn cùng.

Trong đoạn trích Nỗi thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích là miêu tả tâm trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp xã hội để giao tiếp với nội tâm thì thiên nhiên lập tức xuất hiện để nói hộ lòng người. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình. Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thìa. Một con người có ý thức sau xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xóa bỏ được ý thức ấy cho dù ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.

Bài tham khảo 5

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.

Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch của nàng kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái đọ trân trọng đầy cảm thông đối với nhân vật của mình.

Thân phận nàng kiều bị cuộc sống lầu xanh cuốn đi, đoạ đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng nghe những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình mình lại thương mìng xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn lầu xanh. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “Giật mình” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa.

Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đoạ đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào.

Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.

Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.

Đoạn thơ vừa thể hiện được giá trị hiện thực vừa có chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có khuynh hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng với những vui buồn người Việt qua mưa nắng thời gian.

————-

Với các bài mẫu trên đây của THPT Ngô Thì Nhậm, hy vọng các em đã nắm được cách làm bài Cảm nhận đoạn trích Nỗi thương mình. Ngoài ra, rất nhiều bài Văn mẫu lớp 10 hay nhất cũng được chúng tôi chọn lọc và thường xuyên cập nhật để phục vụ việc học tập cho các em. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button