Văn mẫu 10

Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống

[Văn mẫu 10] Tham khảo bài văn mẫu thuyết minh về một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.

Với đề bài thuyết minh về một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại, các em có thể thuyết minh về các lễ hội như lễ hội Đền Hùng, lễ hội chọi trâu,… Tham khảo dàn ý và các bài văn mẫu sau của THPT Ngô Thì Nhậm để hoàn thành bài tập một cách tốt nhất em nhé!

Đề bài: Hãy viết một bài văn thuyết minh ngắn để giới thiệu về một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.

————–

Dàn ý thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống

1. Mở bài

Giới thiệu lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.

2. Thân bài:

Giới thiệu những đặc điểm của lễ hội theo kết cấu thời gian kết hợp với kết cấu logic.

– Trình bày thời gian tổ chức lễ hội, địa điểm, nguồn gốc lễ hội:

+ Thời gian cụ thể (thời gian ấy gắn với ý nghĩa lịch sử như thế nào).

+ Địa điểm tổ chức lễ hội.

+ Nguồn gốc,lí do tổ chức lễ hội (tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống hay thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại).

– Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:

+ Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.

+ Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).

+ Chuẩn bị về địa điểm…

– Giới thiệu diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian. Thường lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội.

+ Nếu là lễ hội tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống thì bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương lễ vật, các hình thức diễn xướng dân gian, các đoàn khách thập phương.

+ Nếu là lễ hội thể hiện khí thế của thời đại: tuyên bố lí do; các đại biểu nêu ý nghĩa, cảm tượng vè lễ hội, các hoạt động biểu diễn (như đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, các trò vui chơi,…)

– Đánh giá về ý nghĩa lễ hội.

3. Kết bài:

Khẳng định lại ý nghĩa lễ hội.

Chú ý: bài văn viết đúng với phong cách của văn thuyết minh, có thể kết hợp thêm các yếu tố miêu tả (đặc điểm, tiến trình của lễ hội), biểu cảm (nêu cảm nhận về ý nghĩa của lễ hội); trình bày sạch đẹp, logic.

Tham khảo: Thuyết minh về lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn-Hải Phòng

Bài văn mẫu thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống

Bài văn mẫu 1

Thuyết minh về lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng

“Dù ai buôn đâu, bán đâu
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm bề
Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu”

Hải Phòng là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh mang đậm nét đặc trưng của miền biển. Trong số những di sản văn hóa ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Đây là lễ hội có nhiều nét đặc sắc về phong tục văn hóa và lịch sử, để lại nhiều ấn tượng cho du khách thập phương.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn thể hiện bản sắc văn hóa và tinh thần thượng võ của người dân miền biển. Theo truyền thuyết, lễ hội chọi trâu đã có từ thế kỉ 18, được tổ chức để cầu hạnh phúc và thịnh vượng cho người dân địa phương. Người dân Đồ Sơn vẫn truyền nhau sự tích về lễ hội chọi trâu: Một đêm rằm tháng 8, người dân miền biển nhìn thấy một ông tiên đang say sưa ngắm hai chú trâu đang chọi nhau. Từ đó, lễ hội chọi trâu trở thành một phần đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Đồ Sơn.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được tổ chức vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm. Lúc này, lúa ngoài đồng đang thì con gái, ngư dân cũng vừa kết thúc mùa cá, mọi người nô nức chuẩn bị cho lễ hội chọi trâu. Trường đấu để chọi trâu là những bãi đất rộng, có hào nước bao quanh. Những chú trâu được tuyển chọn vô cùng kĩ lưỡng để tham gia cuộc thi. Trâu phải là những chú trâu đực khỏe mạnh, da bóng, lông mượt, đặc biệt sừng trâu phải đen như gỗ mun, vểnh lên như lưỡi liềm. Giống như bao lễ hội khác, lễ hội chọi trâu cũng có 2 phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ với những nghi lễ truyền thống và trang trọng bao gồm lễ tế thần Điểm Tước, sau đó là lễ rước kiệu bát cống. Phần lễ rộn ràng trong tiếng trống, cờ ngũ sắc bay phấp phới. Phần hội diễn ra vào ngày chính hội(9/8) với nhiều hoạt động hấp dẫn, đậm đà bản sắc dân tộc. Mở đầu là điệu múa khai hội của 24 tráng niên vừa uyển chuyển, mạnh mẽ vừa linh hoạt. Múa cờ xong, hai ông trâu được dẫn vào trong sới trong âm thanh của tiếng trống, thanh la, có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai ông trâu cách nhau 20m, người dắt lùi ra. Hai chú trâu hoàn toàn tự do lao vào tấn công nhau dữ dội. Trận chọi trâu diễn ra vô cùng gay cấn, ác liệt, làm cho người xem theo dõi đến ngẹt thở. Đây là cơ hội để cho trâu thể hiện hết những kĩ năng và kinh nghiệm của mình. Sự dũng mãnh, ngoan cường của trâu còn là biểu tượng cho khí phách và tinh thần thượng võ của người dân Đồ Sơn. Chú trâu chiến thắng mang lại nhiều vinh dự và hãnh diện cho chủ trâu. Kết thúc lễ hội, dù thắng hay thua, các chú trâu sẽ được mổ thịt để lễ tế trời đất, cầu thời tiết thuận lợi, mùa màng thuận hòa, sóng yên biển lặng để người đi biển đánh bắt được may mắn, thuận lợi.

Lễ hội chọi trâu không chỉ mang lại niềm vui cho người xem mà còn là một tục lệ, tín ngưỡng độc đáo, giàu giá trị văn hóa và lịch sử. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được công nhận là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, là một điểm đến hấp dẫn với nhiều khách du lịch.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc, mang nhiều giá trị thể hiện truyền thống lịch sử và phẩm chất, tâm hồn của người dân miền biển. Chúng ta cần có trách nhiệm giữ gìn và phát triển hơn nữa bản sắc tốt đẹp của lễ hội chọi trâu để góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc.

Bài văn mẫu 2

Thuyết minh về hội Lim

“Ba năm hai cái hội chùa,

Nào ai có lỡ bỏ bùa cho ai.

Già già, trẻ trẻ, gái trai,

Đua nhau ăn mặc, hán hài đi xem.

Hội Lim ai thấy chẳng thèm,

Tổ tôm, bài điếm, giò nem thiếu gì.

Đồn sắp có dệt cửi thi,

Cao lâu trăm thức thiếu gì thức ngon.”

Nếu ai đó có lỡ say mê điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh, chắc hẳn chẳng thể nào bỏ lỡ Hội Lim, một lễ hội lớn bậc nhất tỉnh Bắc Ninh, vào dịp đầu xuân, đây được xem là kết tinh của nét đẹp truyền thống vùng đất Kinh Bắc, cái nôi lớn của nhiều truyền thuyết, của những câu chuyện cổ tích, đậm nét truyền thống của nhân dân nước Nam.

Tương truyền Hội Lim là hội chùa làng Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, khi Nguyễn Đình Diễn vốn là quan trấn thủ vùng Kinh Bắc đạt được nhiều công trạng nên được thưởng nhiều tài sản châu báu, ông đã hiến phần tiền này để tu bổ đình chùa, giữ gìn thuần phong mỹ tục đẹp đẽ của quê hương, tiêu biểu nhất là lăng Hồng Vân dựng trước mộ ông và chùa Hồng Ân nơi ông đặt hậu trên núi Lim. Chính vì có nhiều công lao, đóng góp nên sau khi ông mất, nhân dân đã tôn ông thành hậu thần, hậu Phật mà thờ cúng mỗi năm, hội Lim ra đời từ ấy.

Hội Lim bắt đầu từ ngày 12 đến ngày 14 tháng giêng âm lịch hàng năm, trên địa bàn xã Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, càng ngày quy mô của hội càng lớn, thu hút biết bao nhiêu khách khứa từ thập phương về tham quan. Hội Lim là tổng hòa của nét văn hóa nghệ thuật truyền thống đặc sắc xứ Bắc gắn liền với làn dân ca Quan họ Bắc Ninh, trở thành tài sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam, tiêu biểu cho thể loại dân ca trữ tình Bắc Bộ còn được duy trì và phát triển cho đến ngày hôm nay. Như nhiều lễ hội khác, hội cũng gồm hai phần chính là phần lễ và phần hội. Đúng 8 giờ sáng ngày 13, phần lễ được mở màn bằng lễ rước, đoàn người đi rước ăn vận những bộ trang phục truyền thống rất đẹp, màu sắc sặc sỡ, phù hợp với không khí mùa xuân, đoàn rước thường rất đông người có khi kéo dài cả cây số. Các cụ bà thì rước phần lễ, các cô gái thì rước kiệu Bà, còn các trai tráng thì rước binh khí, ngoại lệ còn có cả trẻ con rước ngựa Bạch Mã, đám rước nối đuôi nhau cùng tề tựu về lăng Hồng Vân để làm lễ tế. Khi tế tất cả các hương lão, quan viên, nam đinh các làng xã thuộc tổng Nội Duệ phải có mặt đầy đủ để tiến hành cúng bái hậu thần Nguyễn Đình Diễn. Trong lễ tế có một nghi lễ không thể thiếu hát quan họ thờ hậu thần, các liền anh liền chị đứng thành hàng ở cổng lăng, ăn mặc trang phục quan họ truyền thống, hát vọng vào bên trong, nội dung lời hát chủ yếu là ca ngợi công lao, đức độ của hậu thần Nguyễn Đình Diễn.

Xong phần lễ là đến phần hội, phần hội rất náo nhiệt, cũng là phần vui và hấp dẫn hơn cả, có nhiều các trò chơi dân gian rất vui nhộn thể hiện khí khái anh hùng, tinh thần dân tộc cùng các phong tục truyền thống như: Đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, nấu cơm, dệt cửi,… mỗi một trò đều có nét đặc sắc, hấp dẫn riêng, tạo nên bầu không khí náo nhiệt sôi nổi đầu xuân mới. Nhưng có lẽ đặc trưng và đặc sắc nhất của phần hội phải kể đến phần hát hội – cốt lõi căn bản của hội Lim, phân biệt với các lễ hội khác ở miền Bắc. Có nhiều kiểu hát nào là hát mời trầu, hát gọi đò đến lối hát có cái tên rất đặc biệt như con sáo sang sông hay con nhện giăng mùng. Phần thi hát bắt đầu từ khoảng tầm trưa, trên một hồ nước nhỏ cạnh làng Lim, chiếc thuyền Rồng được sơn son thiếp vàng từ từ bơi ra giữa hồ trong giọng hát say sưa, ngọt ngào, mầm mại, đậm chất trữ tình Bắc Bộ của các liền anh, liền chị. Những màn hát đối đáp, hát hòa ca, vang vọng cả một vùng đất trời, làm cho hội Lim thêm phần thiêng liêng, đậm đà nghĩa tình văn hóa truyền thống của dân tộc. Những bộ áo váy mớ ba mớ bảy, rực rỡ đầy màu sắc cùng chiếc nón quai thao trắng, mới thật duyên dáng, điệu đà, những bộ áo the khăn xếp mới thật đĩnh đạc làm sao. Nam, nữ bằng những câu hát thân tình, đối đãi với nhau đầy thân tình, lề lối, là nét đẹp văn hóa khiến người ta phải ngưỡng mộ, trầm trồ, bởi qua từng ấy năm tháng lịch sử, nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn và phát huy cho đến ngày hôm nay, quả thực không dễ dàng. Đó là cả một sự nỗ lực của nhân dân nơi đây, muốn giữ lại cho quê hương đất nước một nét đẹp của phong tục truyền thống, nhưng không hề lạc lõng so với thời đại, quả thật đáng quý.

Nếu ai chưa một lần ghé về Bắc Ninh nghe làn dân ca Quan họ, tham gia Hội Lim, quả thực là đáng tiếc. Bởi những nét đẹp của lễ hội hòa cùng giai điệu tinh tế truyền thống ấy thực sự đi sâu vào lòng người, khiến tim ta xao xuyến bồi hồi, niệm tưởng lại quá khứ huy hoàng của dân tộc, càng thêm ngưỡng mộ sự điêu luyện, mềm mại trong từng tiếng hát lời ca. Khi có cơ hội, hãy cùng về Bắc Ninh, về với Hội Lim, về với giọng hát quan họ tuyệt vời bạn nhé!

Bài văn mẫu 3

Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương

Là người dân đất Việt, ai cũng biết đến câu ca:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi của ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đen Hùng và giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Giỗ Tổ Hùng Vương – từ rất lâu đã trở thành ngày giỗ trọng đại của cả dân tộc, đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn – xã Hy Cương – Lâm Thao – Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các vị vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam may mắn khi có chung một Tổ tiên đề hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày nay hàng năm, lễ hội giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên, giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giừ nước.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung củạ toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vần đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng

Lễ giỗ Tố Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Từ thuở xưa đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Phú Thọ tham gia rước kiệu lỗ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới”. “Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)… Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch) hàng năm”. Những năm hội chính thì phần lỗ gồm: Tế lễ của triều đình, sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lề thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong.

Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn” nên giỗ Tồ Hùng Vương năm 1946 – sau khi Chính phủ mới được thành lập – là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ây, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền và trang trọng dâng lên bàn thờ tâm bản đô Việt Nam và thanh kiếm là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe dọa trở lại. Trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp, do chiến tranh ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm. Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng Điện Biên Phủ (7-5-1954), ngày 19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiên sĩ Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời căn dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực hiện vào mùa xuân 1975. Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đă quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc cội tổ tiên – một ngày giỗ Tô như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nẹhĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.

Ngày nay việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ hàng năm vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tố chức. Dù năm chẵn hay lẻ lề hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chỗ, bao gồm hai phần lễ và hội.

Phần lễ được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9. làng nào được Ban tô chức lề hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng sớm ngày mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dần đầu điều hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chinh tề đi sau kiệu lề, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh (năm chăn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá), thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo chí, phát thanh truyên hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiêp đê đông bào cả nước có thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu.

Phần hội diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đô lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn thể thể thao,… được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ. Các trò chơi văn hoá dân gian được bào lưu có chọn lọc như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa, nâu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi hài”, “Rước chúa gái”, ‘”Rước lúa thần” và trò “Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Các nghệ nhân người Mường mang đến lỗ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời dóng trên đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân hạnh phúc. Nhừng làn điệu Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng, tham đượm văn hoá vùng Trung du Đất Tổ.

Ngày này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đen Hùng. Tổ tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ của mình, giữ đúng kỷ cương, vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống, thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bâo muốn nhắc nhớ hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đă trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khẳp năm châu bốn biên từng đến thăm viếng Đen Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên núi Nghĩa Lĩnh đă làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. “Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam”

Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ 10-3 âm lịch vẫn là điểm của bổn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Xem thêm: Thuyết minh về giỗ tổ Hùng Vương

Bài văn mẫu 4

Thuyết minh về lễ hội cá ông

Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.

Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ôn. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.

Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:

Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.

Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.

Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.

Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.

****************

Trên đây là hướng dẫn làm bài thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống bao gồm dàn ý chi tiết và những bài văn mẫu chọn lọc hay nhất. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích phục vụ việc học tập của các em. Ngoài ra, các em hãy truy cập doctailieu.com để tham khảo những bài văn mẫu 10 phong phú khác mà chúng tôi đã sưu tầm và tổng hợp nhé. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button