Văn mẫu 12

Nghị luận Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung

Nghị luận Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung, hướng dẫn lập dàn ý và tham khảo những bài nghị luận hay bàn về ý kiến của Leonit Leonop.

Tài liệu hướng dẫn nghị luận Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung, hướng dẫn lập dàn ý và tham khảo những bài nghị luận hay bàn về ý kiến của Leonit Leonop.

Hướng dẫn làm bàinghị luận Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung

Đề bài: Nhà văn Nga Lêônit Lêônôp có viết: “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.

Anh, chị hãy bình luận ý kiến trên.

(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1998, bảng A)

1. Phân tích đề

– Yêu cầu: Trình bày suy nghĩ về ý kiến của Lêônit Lêônôp “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”

– Dạng đề: Nghị luận ý kiến bàn về văn học.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những chi tiết, nội dung trong tác phẩm văn học.

– Thao tác lập luận : giải thích, phân tích, bình luận.

2. Hệ thống luận điểm

Luận điểm 1: Giải thích ý kiến

Luận điểm 3: Chứng minh ý kiến là đúng.

+ Yêu cầu “mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” là xuất phát từ đặc thù của sáng tạo văn học: Mỗi tác phẩm văn học (có thể nói rộng ra là nghệ thuật) luôn luôn là một công trình duy nhất, không thể lặp lại. Do đó, không sáng tạo thơ không có văn học, thì nhà văn tự xoá bỏ mình.

+ Chọn lọc, phân tích được một số tác phẩm thật sự tiêu biểu (Nam Cao, Xuân Diệu,…)

Tuyển chọn những bài văn hay nghị luận về ý kiến của Leonit Leonop

Bài số 1:

Thời gian không đi một mình, nó đi cùng với sự lãng quên. Nhưng thời gian cũng chính là thứ nước rửa ảnh để làm nổi bật lên những tác phẩm hay độc đáo. “Tôi quan niệm đã viết văn phải cố viết cho hay và viết đúng cái tạng riêng của mình. Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kì lĩnh vực nào khác”. Hay nói như Leonin Leonop : “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.

Sekhop đã từng nói: “Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ”. Sáng tạo luôn là tiêu chí hàng đầu của bất kì tác phẩm nào. Một chỉnh thể nghệ thuật phải mang những dấu ấn cá nhân riêng không chỉ vì sáng tạo là bản chất văn học. Mà hơn hết nó còn vì người đọc, vì những khát vọng muốn bất tử hóa tác phẩm nơi nhà văn, nhà thơ. Tuy nhiên Leonit Leonop đã chỉ ra một tác phẩm lí tưởng chỉ dừng lại ở việc “khám phá” hay “phát minh” là chưa đủ. Nó chỉ trở nên hoàn chỉnh khi nhà văn, nhà thơ đổi mới những nội dung và đồng thời cũng chính họ tìm cho những nội dung ấy một hình thức thật lạ, thật phù hợp. Như vậy câu nói của Leonit Leonop không chỉ đề cập đến yêu cầu tất yếu : sự sáng tạo mà nó còn nhắc nhiều đến mối quan hệ không thể tách rời giữa hình thức và nội dung.

Mỗi sự vật tồn tại trên đời đều mang những giá trị riêng biệt. Văn học hiện diện trong cuộc sống như một kẻ nâng giấc tâm hồn người bằng những tác phẩm độc đáo về nội dung và mới mẻ về hình thức. Bởi lẽ bản chất của văn học là sáng tạo. Văn học là một trong những hình thái nghệ thuật phản ánh đời sống “Cuộc đời là điểm nơi xuất phát và nơi hướng tới của văn học” (Tố Hữu). Nếu các nhà khoa học lấy mục đích cuối cùng của việc nghiên cứu là nhằm đạt đến chân lí khách quan biểu thị qua những định lý, định luật mang tính khuôn mẫu, là nguyên tắc chung thì các nhà văn không vậy. Họ phải tìm trong hiện thực cuộc sống bộn bề những vấn đề cá biệt mang tính bản chất và phản ánh tất cả vào trong tác phẩm thông qua những hình thức nghệ thuật riêng với quan điểm riêng mình. Văn học không thể tạo ra hình thức sản xuất có tính dây chuyền, không phải là sản xuất hàng loạt. Tác phẩm văn học là một ảo ảnh của hiện thực. Nó phản ánh cuộc đời bằng ngôn từ nhưng những gì nó gửi gắm đến ta không hề trùng khít với hiện thực. Mà hình ảnh cuộc sống trong tác phẩm là hình ảnh của hiện thực dã đi qua một điệu hồn, một tư tưởng để in dấu ấn đậm chất cá thể, “càng độc đáo càng hay”. Mà như Xuân Diệu đã từng nói :”Chỉ có những tâm hồn đồng điệu chứ không thể có những con người là phiên bản của nhau. Bởi vậy sáng tác văn học từ trong bản chất là một hoạt động mang tính cá thể. Cho nên tác phẩm văn học trước hết là một thế giới mới được tạo lập từ những tâm tư riêng biệt, từ những sáng tạo của người nghệ sĩ.

Tuy nhiên “Người đọc tìm đến nhà thơ là để đòi hỏi cách sống, không phải chỉ hỏi lí tưởng như một nhà triết học, mà hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nh, cách giận, cách ghét như một người yêu” (Chế Lan Viên). Và “Khi một nhà văn mới xuất hiện, ta sẽ đặt ra một câu hỏi rằng liệu anh ta có thể mang đến cái gì mới cho ta” (Lev Tonxtoi)? Người đọc vì thế luôn là một điều trăn trở cho bất kì nhà văn, nhà thơ mang khát vọng bất tử hóa tác phẩm. Bởi người đọc trước khi tìm đến văn học thì họ là bản thể của những cảm xúc và suy nghĩ riêng. Họ hoàn toàn có thể nhìn và đón nhận cuộc sống bằng những cách cảm nhận sâu sắc của riêng mình. Vì vậy họ tìm đến văn học không phải là họ tìm đến những điều mà họ đã trông nghe mắt thấy. Họ cũng không chờ đợi những áng văn, thơ trùng lập nhau về tư tưởng, tình cảm hay giống nhau về hình thức triển khai. Họ cần những nhân vật, tình huống, chi tiết trong văn chương hay thơ ca gọi cho những cách nhìn, cảm xúc mới mẻ về cuộc sống. Họ gửi gắm vào văn học những khát vọng được hóa thân vào những vai diễn mới, sống nhiều cuộc đời của nhiều nhân vật để được trải nghiệm cuộc sống trong từng thời đại và không gian khác nhau – nơi mà họ chưa từng và sẽ không bao giờ tới được. Một tác phẩm muốn sống bền thì phải mang đến cho người đọc được những sự sáng tạo về nội dung lẫn hình thức. Như vậy có thể khẳng định người đọc chính là động lực thôi thúc những cái riêng của nhà thơ, nhà văn trổ mình.

Thế nhưng văn học không chỉ muốn dừng lại ở cái bóng mang tâm tư của nhà văn/nhà thơ lảng vảng trong trần thế. Hơn vậy, nó mong muốn vươn mình trở thành những người hộ mệnh cho người đọc. Sứ mệnh của những người hộ mệnh văn học là phải “tố cáo và thay đổi thế giới giả dối tàn ác” (Thạch Lam), “truyền thổi vào giữa tâm hồn người đọc niềm tin vào cuộc sống, một tình yêu bát ngát đối với cuộc sống“ (Nguyễn Minh Châu). Nhưng văn học muốn tác động và những mảng tâm hồn sâu kín của độc giả thì trước hết nó phải có một đời sống riêng, một cá thể khác biệt. Đến đây nhiều người sẽ phản bác rằng : Nếu chạy theo những dị bản thì văn học phải chăng đang mang đến cho các tác phẩm của mình sự thoát ly hay lãng quên ? Và thế giới của những điều khác lạ chính là chốn thần tiên? Không những điều mới mẻ ở đây là những thái độ và cách đánh giá về hiện thực cuộc sống đầy tính cá thể của nhà văn, nhà thơ. Bề dày lịch sử văn học thế giới đã tạo dựng được hàng loạt những khám phá riêng ấy. Song điều đó không có nghĩa là nghệ sĩ được phép lùi bước sáng tạo. Nhà thơ có thể “lật đổ cái án cũ” hay “các anh có thể học tập tất cả nhà văn có phong cách điêu luyện nhưng các anh hãy tìm lấy nốt nhạc cho riêng mình” (Maxim Gorki). Và cũng chỉ có những gì mới lạ nhất, tinh xảo nhất được chọn lọc bởi chính nhà văn mới khiến người đọc kẻ ngẩn ngơ, người bâng khuâng, mơ hồ những cảm xúc không dám nói. Hay nói cách khác, chỉ những điều mới lạ mới tác động cùng họ, hành động cùng họ, bảo vệ họ khỏi những điều xấu xa tàn nhẫn để đưa họ đến những lẽ sống cao đẹp ở đời. Những điều nhỏ nhen, tầm thường chưa bao giờ thu hút hay tác động được tới người đọc. Vì vậy tác phẩm nghệ thuật ra đời trong sự sáng tạo một cách tự nhiên. Điều này đã trở thành bản chất của văn học cũng là nhiệm vụ mà bất kì người nghệ sĩ chân chính nào cũng phải hoàn thành.

Tuy nhiên, Leonit Leonop còn nhấn mạnh về “nội dung” và “hình thức”. Như vậy có thể nói sự sáng tạo là những cái nhìn mới mẻ là chưa đủ để tạo nên một chỉnh thể thực sự hoàn chỉnh. Bởi lẽ trong sự tồn tại của văn học có một sự tồn tại không thể tách rời của nội dung và hình thức. Nội dung được biết đến là những tình huống, chi tiết diễn biến bên trong tác phẩm. Tất cả đều nhằm mục đích chuyển hóa tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tuy nhiên người đọc lại tiếp nhận chúng qua phương tiện là ngôn ngữ. Hình thức vì vậy có thể biết đến là các biện pháp nghệ thuật, các từ ngữ được tác giả sử dụng để truyền đạt ý nghĩ của mình. Vì vậy nếu nội dung hay mà ngôn từ sáo rỗng, cao siêu, khó hiểu thì cũng chẳng thể truyền đạt được gì đến với người đọc. Ở chiều ngược lại nếu hình thức cầu kỳ không phù hợp với nội dung thì những chữ trên bề mặt tác phẩm chẳng khác gì là chữ vẽ rồng múa phượng. Chỉ khi nội dung tìm được một hình thức phù hợp với nó thì từng con chữ mới đi sâu vào người đọc, từng tư tưởng và tình cảm của tác phẩm mới vững bền với thời gian. Như vậy sự sáng tạo của nhà văn lí tưởng hơn cả vẫn là sự “sáng tạo về hình thức và khám phá về nội dung”.

Ai đó đã từng nói rằng nỗi nhớ thường sẽ gắn với một kỉ niệm hoặc một kí ức hào nhoáng nào đó. Với tôi, tôi vẫn nhớ Nguyễn Tuân với những trang viết chắt chiu từng hạt bụi vàng của đời sống, với những câu chữ hoa mỹ, cầu kỳ đôi lúc đến khó hiểu và với cái “ngông” trên từng bước nhịp lời văn của ông.“Cái ngông” ấy không phải khiến người ta lệch lạc đi, tha hóa đi. Cái ngông của Nguyễn Tuân là phải ném ra cuộc đời một lối sống khác người. Tuy nhiên nếu cái ngông xưa cũ cứ đào, cứ xới, cứ tìm về những vỏ trầm tích phong kiến xưa thì cái ngông của những năm tháng sau này đã tìm được địa hạt thuộc về mình. Đó là thiên nhiên và cuộc sống con người lao động bình dị của quê hương đất nước. Đến với tùy bút Người lái đò sông Đà, người ta thấy được cái ngông ấy đã tạo nên một sự đột phá trong việc miêu tả vẻ đẹp của người lái đò.

Tham khảo bài văn hay khác: Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ

Nguyễn Tuân đã phác họa ông đò bằng những nét chắc khỏe của một dũng tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc sông Đà. Ở ba trùng vi, cứ mỗi vòng ta lại thấy được một nét trong nghệ thuật chèo đò của ông đò. Trùng vi thứ nhất, sóng thác đánh dồn dập. Ông đò mang sự kiên trì của mình “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi luồng” đối mặt. Trùng vi một qua đi, trùng vi thứ hai lại nối tiếp mang theo sự xáo trộn cửa sinh tử. Ông đò giữa sự biến hóa khôn lường về thế trận sông Đà, đã dùng kinh nghiệm “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” phối hợp với sự dũng cảm sẵn trong mình “ghì chặt cương lái” để quy phục thần sông thần đá. Và trong lượt đấu cuối cùng, vẫn sự dũng cảm, vẫn sự lão luyện vốn có, vẫn sự nhẫn nại thường thấy, ông đò đã đưa “Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được lượn được”. Mũi tên cứ thế rẽ qua dòng nước, chạm vào nền trời tạo nên một vệt sáng của vẻ đẹp con người lao động chân chính. Vệt sáng ấy rực rỡ chói chang xuyên qua tâm hồn người đọc, dành lấy một góc cho riêng mình. Góc nhỏ ấy lấp đầy sự tinh hoa trong tinh thần chiến đấu ngoan cường, chất trí dũng của một người dũng tướng của dân tộc – một con người đã dành cuộc đời để “dành sự sống từ tay nó về tay mình” và trên hết đó là nghệ thuật lái đò điêu luyện của những con người phi thường mà núi rừng Tây Bắc sinh ra.

Nếu trận chiến đấu với sông Đà là khúc hát tôn vinh vẻ đẹp của một người tướng lĩnh tài ba của trận mạc sông Đà thì có lẽ cuộc sống đời thường với những khoảnh khắc : “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam,…” lại đưa họ về đúng bản chất của mình – bản chất tài hoa nghệ sĩ : “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình… Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về chiến thắng vừa qua nơi ải nước”. Phải chăng vì cuộc sống của họ là gắn liền với ghềnh thác, những cái xoáy, cái hút nước, những cơn gió phiêu bạt của sông Đà nên tất cả những điều tưởng chừng như là oai hùng kia, với họ chỉ là những chuyện thường ngày họ phải đối mặt? Hay những người nghệ sĩ như người lái đò xem việc làm nghệ thuật như một lẽ thường của bản thân. Họ không bao giờ tự trầm trồ hay thấy mình phi thường, đặc biệt là khi hoàn thành xong một tác phẩm nghệ thuật ưng ý nào? Có lẽ là cả hai. Cho nên mặc dù bất cứ ai biết đến sự hung tợn của sóng thác sông Đà đều có sự nể phục trước bản lĩnh của những người dám đối diện, dám chiến đấu và chiến thắng nó, mặc dù cả những người chỉ biết đến bộ mặt kinh thành – bộ mặt hung bạo của sông Đà qua những trang thơ, trang văn thì người lái đò vẫn xem công việc vượt thác chỉ là một cái thú vui tao nhã. Bởi lẽ nếu đã là ban, sẽ không bao giờ nó thấy việc mình nở hoa ban ngày xuân là điều gì đặc biệt. Người lái đò sông Đà cũng là một loại hoa ban như thế – một loại hoa nở rộ giữa điệp trùng hung bạo nơi sông Đà một nét đẹp tài hoa nghệ sĩ riêng biệt của con người Tây Bắc.

Hình tượng người lái đò sông Đà với hai nét tính cách : Trí dũng và tài hoa nghệ sĩ đã trở thành một nét khám phá rất mới về đề tài người lao động trên thi đàn Việt Nam nói chung và đề tài cái đẹp của Nguyễn Tuân nói riêng. Nếu trên thi đàn người ta vẫn nghe văng vẳng tiếng gọi nhiệt huyết của:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

(Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)

Tiếng bảo ban nhau mùa gặt lúa trong “Tiếng hát mùa gặt“ (Nguyễn Duy) rằng :

“Tay nhè nhẹ chút người ơi

Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng

Dễ rơi là hạt đầu bông

Công một nén, của một đồng là đây”.

Người lái đò Nguyễn Tuân lại có phần khác biệt so với hình ảnh người lao động bình dị như thế. Đó là ông đã nâng người lao động lên một bậc thang mới : người nghệ sĩ và công việc lái đò trở thành một nghệ thuật chân chính. Điểm này có được từ cái thói quen cứ thích tô đậm những điều phi thường xuất chúng, những điều tạo nên những cảm xúc mãnh liệt của Nguyễn Tuân… tất cả đọng lên trên giọt mực rơi trong hình tượng người lái đò sông Đà. Để rồi từng những thước chữ áng tùy bút, người lái đò lại bước ra như một người nghệ sĩ, một dũng tướng đầy tự hào của vùng núi Tây Bắc. Đến đây người đọc sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi người lái đò lại phút chốc biến hóa trở thành những con người mang vẻ đẹp tài hoa nhất của tạo hóa : vẻ trí dũng và nghệ sĩ. Và sẽ không ít người lầm tưởng rằng những điều mà họ đã trông thấy ở người lái đò sẽ đưa họ tách rời khỏi hiện thực như tập truyện “Vang bóng một thời” đã từng. Không. Có chăng ông chỉ muốn đem đến cho người đọc một quan niệm mới mẻ về người nghệ sĩ thông qua tiếng hát vô biên về người lái đò. Quan niệm ấy khác hẳn về quan niệm xưa cũ rằng : chỉ những người trót mang nghiệp cầm bút hay những người cất cao tiếng hát trên sân khấu rực rỡ ánh đèn mới được tôn vinh với danh nghệ sĩ. Với Nguyễn Tuân, dù bất kì người nào, làm công việc nào, miễn rằng họ vẫn nỗ lực hoàn thành chúng một cách trọn vẹn và hoàn hảo nhất bằng cái tâm và cái tài của mình thì họ đã là một người nghệ sĩ ở ngay chính công việc đó. Vì vậy hình tượng người lái đò được ấp ủ trong những cái đẹp của thế giới nghệ thuật Nguyễn Tuân như một lẽ tự nhiên. Tuy nhiên nếu trước đây vẻ đẹp của văn chương của Nguyễn Tuân đã từng lang thang trong những chuyến đi sương gió, trở về cõi mộng Liêu Trai cuối cùng lại trú ngụ trong Chùa Đàn. Đó là vẻ đẹp mang cái tôi đầy tủi hờn cảm thấy “mình là đứa ích kỷ quá không xứng với vẻ đẹp xung quanh.” (Một người cha về ăn Tết), cái tôi vẫn đeo đuổi dai dẳng những cá thể riêng biệt của những con người đã làm nên thời kỳ vang bóng của dân tộc. Cách mạng tháng Tám những năm tháng sau này đã tạo nên một công dân Nguyễn Tuân, một Nguyễn Tuân mà trong Tùy bút người lái đò sông Đà đã tái hiện một người lao động bằng tình yêu con người dân tộc thiết tha. Cho nên, hình tượng người lái đò không chỉ vươn lên mảnh đất chật hẹp của những người lao động giản dị của quê hương đất nước mà trên hết chính nó cũng là cải tạo lại thế giới nghệ thuật của chính Nguyễn Tuân – thế giới của cái đẹp hướng về những cá thể dị biệt của xã hội. Để thế giới hình tượng người lại đò không xa vời hiện thực nhưng cũng không quá nhàm chán trên cái nền người lao động xưa cũ. Vì vậy hình tượng người lái đò chính là một minh chứng cho sự khám phá về nội dung.

Tuy nhiên sẽ thật thiếu xót nếu ta chỉ biết đến Nguyễn Tuân, với áng tùy bút bằng sự khám phá nội dung qua hình tượng người lái đò mà bỏ qua những nỗ lực trong việc cách tân hình thức của Nguyễn Tuân. Có thể thấy Tùy bút Sông Đà là đỉnh cao của thể tùy bút bằng những trang viết tài hoa và uyên bác. Nếu hình tượng người lái đò mang theo tất cả sự khám phá về nội dung của áng tùy bút thì có lẽ hình tượng con sông Đà lại lặng lẽ ôm trọn những nét sáng tạo về hình thức. Ở Nguyễn Tuân, khi kể và tả sông Đà đều kĩ càng, tỉ mỉ, ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mối liên tưởng, liên hệ trong tư duy tư tưởng rất rộng và sâu bằng những kiến thức nhiều ngành. Có lúc sông Đà được hiện lên trong những hiểu biết của kẻ tinh thông địa lý : “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ.” Có khi sông Đà được đặc tả trong từng lớp ngôn từ điện ảnh long lanh huyền ảo : ”nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dày”. Lại có lúc sông Đà chuyển mình nhiều màu sắc trong từng nét cọ của người họa sĩ : từ ”Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước sông Đà không xanh màu canh hến của sông Lô, sông Găm”, sông Đà lại thoắt chuyển màu “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” trong mùa thu. Để rồi sau tất cả, sông Đà vẫn nhỏ từng giọt nước mang theo cái hùng vĩ, có phần hung bạo vào tâm trí người đọc bằng con đường “quân sự” : “Sóng thác đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Cho nên những trang viết của ông lại đưa cho người đọc được chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mỹ về sông Đà và những gì sống trên đó. Vẻ đẹp sông Đà không dừng lại ở sự ứng chiếu trong sự đa diện nhiều chiều ở nhiều ngành mà nó còn được họa bằng những nét bút hoa của Nguyễn Tuân. Nhận xét về nghệ thuật của Nguyễn Tuân, Anh Đức đã từng viết thế này :”Không biết chừng nào mới lại có một nhả văn như thế… một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều có dấu hiệu riêng”. Có lẽ nét tài hoa nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân chính là cách xoay chuyển từ ngữ. Từng từ ngữ đặt vào đều phù hợp đến kinh ngạc và có cảm tưởng như chúng ta khó thay thế được bằng bất kì từ ngữ nào khác.”Oan trách”,”van xin” ,”khiêu khích “ ,”giọng gằn mà chế nhạo”,”rống lên”,”lồng lộn” hay “gầm thét “ đều đủ đánh tiếng cho cái bản tính trái tính trái nết, bất biến của con thác. Cách xoay chuyển từ ngữ để miêu tả sông Đà “hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” hay “sóng nước như thể quân liều mạng“,… tất cả đều cho thấy sự tinh ranh khôn lường của những dòng nước. Ngay cả chi tiết “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của thằng đá tảng lại đúng với tâm lí một kẻ thua cuộc. Như vậy có thể thấy từng chữ đặt ra đều đặc sắc với chính xác. Từ đấy “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ” của người lái đò nhưng lại in sâu trong tâm trí người đọc. Để rồi người đọc trong một khoảnh khắc nào trong cuộc đời chợt nhớ đến sông Đà thì từng hình ảnh về cuộc chiến lại chạy về như một thước phim hồi hộp gây cấn về từng quãng trên con sông của đất nước – sông Đà. Như vậy có thể thấy chính sự đổi mình trong các từ ngữ sử dụng đã góp phần giúp nội dung truyền đến người đọc một cái nhìn mới về những vẻ đẹp vốn đã hiển nhiên của sông Đà và người lái đò. Và cũng chính nó đã cuốn hút người đọc vào mạch tùy bút để người đọc không chỉ ngưỡng mộ mà còn dấy lên một niềm yêu tha thiết, một ý chí mạnh mẽ để bảo vệ những vẻ đẹp ấy trường tồn đâu đó trong tâm hồn. Vì vậy có thể nói Nguyễn Tuân đã trở thành một nhà văn lớn của dân tộc giống như triết lý nổi tiếng của Dostoevski : “Tài nghệ vĩ đại nhất của người nghệ sĩ là biết xóa mình để tồn tại”. Nguyễn Tuân đã xóa những ấn tượng xưa cũ về sông Đà, về người lái đò tạo một vẻ ngoài mới bằng một loạt những hình thức mới về thiên nhiên đất nước.

“Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. Bạch Cư Dị đã từng nói như thế. Vậy phải chăng khác với tùy bút đến với thơ ca sự khám phá về nội dung là sự dàn trải cái mới mẻ của nhà thơ trên bề mặt tình cảm và tư tưởng ? Vội Vàng của Xuân Diệu mang một cái tôi thuần nhị cảm xúc yêu đời, say đời đến nồng nàn với những nguyện ước được hòa vào thiên nhiên đất trời:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho máu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Bởi vì yêu đời say đời như thế nên Xuân Diệu đã dành hẳn một khoảng ngân dịu êm để đong đầy những nỗi buồn trước dòng thời gian chảy trôi rằng : “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua. Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.” Nỗi buồn này đặc biệt vì nó hiển hiện ngay trong cả những cuống quýt trước thời gian chảy trôi. Bởi lẽ Xuân Diệu bất lực khi nhìn thấy : “Trên mỗi khoảnh khắc đều có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và chia tay với chính thời gian nữa”. Nỗi buồn Xuân Diệu rõ ràng vẫn nhập nhằng trong những nỗi buồn đau của thế hệ. Tuy nhiên khác với những nhà thơ cùng thời, cái khám phá đầy riêng biệt mà Vội Vàng đã mang lại chính là triết lí sống được rút ra từ chính nỗi buồn. Đó là con người trước thời gian mạnh mẽ chảy trôi cần phải sống cuống quýt hơn nữa, vội vàng hơn nữa để làm cho mỗi khoảnh khắc trong cuộc đời thật ý nghĩa. Rằng chúng ta cần “ôm”, cần “riết“, cần “say”, cần “thâu” tất cả những sự sống tuyệt vời này. Bởi vì “Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa/ Mau đi thôi / Mùa chưa ngả chiều hôm”.

Rõ ràng nỗi buồn của Xuân Diệu không xuất phát từ cái tôi trốn chạy, cái tôi khát khao được thoát li. Huy Cận đã từng mở đầu những vần thơ Tràng Giang của mình bằng nỗi sầu vạn cổ của một cái tôi bơ vơ, lạc lõng : “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp. Để rồi những dòng kết thúc của Tràng Giang, nỗi buồn vẫn khắc khoải khôn nguôi : “Lòng quê dờn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Để rồi nỗi buồn là nơi ông thu lòng mình lại để tách rời khỏi hiện thực Tây Tàu nhố nhăng. Với Hàn Mặc Tử trăng và máu đã mang theo cả mảnh hồn ông, những nỗi buồn trong thơ ông để ông lãng quên đi những cơn đau cùng cực đang hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần : ”Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết /Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh, /Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết /Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh” (Rướm máu). Vũ Hoàng Chương thoát li vào rượu, vào những cơn say “Khúc nhạc hồng êm ái/ Điệu kèn biếc quay cuồng“. Nhưng cuối cùng ông say trong men rượu cũng chỉ vì ông không thể thoát khỏi nỗi buồn. Ông tuyệt vọng trước cuộc đời :”Đất trời nghiêng ngả/ Thành Sầu không sụp đổ em ơi.” (Say đi em)”.Nỗi cô đơn trong guồng quay thời gian không mang Xuân Diệu đến chỗ bế tắc như Vũ Hoàng Chương, đau đớn như Hàn Mặc Tử hay khắc khoải khôn nguôi của một “linh hồn mang mang thiên cổ sầu“ như Huy Cận. Bởi vì cái tôi Xuân Diệu muôn đời vẫn độc đáo như thế, muôn đời vẫn “là người của đời, một người giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tám lòng trần gian; ông không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi đời.” (Thế Lữ) Nỗi buồn vì thế âu cũng là “mặt trái của lòng yêu đời, của những say mê không được đáp ứng, là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tất dĩ của kẻ yêu sự sống” như chính sự thú nhận của nhà thơ. Nỗi buồn đã mang đến triết lý sống. Nỗi buồn hối thúc Xuân Diệu phải nhanh hơn gửi gắm niềm yêu đời, yêu cuộc sống vào những vần thơ Vội Vàng. Và quan niệm sống vội vàng có lẽ đến với Xuân Diệu được thể hiện trọn vẹn và đủ đầy đến thế.

  • Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc

Cái tôi luôn khát khao giao cảm với đời, cái tôi đầy triết lý ấy sẽ chẳng thể đủ sức giãi bày tất cả những nỗi niềm sống riêng biệt nếu nó không tìm được một hình thức phù hợp. Ở Vội Vàng của Xuân Diệu, người ta không chỉ trầm trồ ngợi ca cái tôi độc đáo mà họ còn ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của tác giả. Ai trong chúng ta cũng sẽ nhận ra bản thân Thơ Mới từ khi ra đời đã tạo nên một cơn địa chấn trên mặt biển ngàn năm của thơ ca trung đại. Cơn địa chấn ấy không chỉ bao gồm sự mới mẻ về nội dung mà còn là sự cải tổ về hình thức thơ. Bởi lẽ thơ Mới khi đã chọn con đường đề cao cái tôi thì cũng đồng nghĩa nó không còn thích hợp với lối nói cổ của thơ ca xưa nữa. Cái áo cũ của những thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, các “lễ nghi” vần điệu đã không thể bao chứa các cảm xúc mạnh mẽ của người cầm bút nữa. Bởi thế thơ tự tìm đến thể tự do – một thể thơ không gò bó đầy khuôn khổ, quy phạm để nhà thơ thoải mái thể hiện những tình cảm và tư tưởng tươi nguyên sức sống của mình. Tuy nhiên lại khác với các nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu không chỉ dừng lại ở việc trải ý thơ của mình trên bề mặt thơ tự do . Mà ông quan tâm đến từng lời thơ câu chữ. Những thứ trừu tượng, không thể định lượng lại mang những kích thước hình dáng cụ thể “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Sự đổi mới về từ ngữ phải chăng đến từ tư duy thơ mới mẻ. Người xưa chỉ nhìn ngắm thế giới, nhiều lắm là ao ước mình hòa nhập vào cái vô cùng của trời đất. Xuân Diệu như muốn kéo thế giới vào vòng tay đầy ắp cảm giác của mình với những cái “ôm”, ”riết”, ”thâu”, ”say”, ”cắn”, ”nhắm nhía”, ”hút”, ”uống” … Xuân Diệu cảm nhận thế giới nghiêng về cảm giác. Thơ Xuân Diệu không chỉ ơ hờ cảm nhận qua thị giác hay thính giác mà nó đắm mình vào xúc giác, vị giác và cả khứu giác. Có lẽ thế nên đến với Vội Vàng người ta không chỉ trầm trồ với một bản tuyên ngôn mới mẻ về triết lý sống vội vàng. Mà Vội Vàng vẫn luôn là một cơn lũ cảm xúc nồng nàn mạnh mẽ với cảnh sắc trần gian tràn vào tâm hồn người. Như vậy có thể thấy hình thức đã nói hộ cho nội dung tất cả nỗi lòng của Xuân Diệu đến với người đọc. Nếu không có một hình thức phù hợp thì tất cả những khát khao say đời, quan niệm nhân sinh về lối sống vội vàng cũng chẳng thể được bày tỏ đến người đọc trọn vẹn.

Có thể nói một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh chính là “sự sáng tạo về hình thức và khám phá về nội dung. Tuy vậy trên thực tế một nhà văn cũng có thể khẳng định được vị trí của mình nếu đem đến cho hình thức biểu hiện cũ một nội dung mới hay nói những điều ai cũng biết bằng phương tiện nghệ thuật đặc sắc mới lạ. Sự sáng tạo của nghệ thuật trong bất kì trường hợp nào cũng đáng trân trọng.

Văn học vẫn như một người hát rong trên suốt chặng đường lịch sử. Kẻ hát rong ấy hát những gì? Chẳng có tiếng hát nào khác cho tiếng hát tôn vinh những lẽ sống ở đời bằng “sự sáng tạo về hình thức và khám phá về nội dung.” (chữ của Leonit Leonop). Muôn đời vẫn luôn là như thế.

(Huỳnh Lê Quý Khoa, 12.3 THTH ĐHSP niên khóa 2015 – 2018)

Bài số 2:

“Ai bảo dính vào duyên bút mực

Suốt đời mang lấy số long đong.”

Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chịu nỗi đau vì sự bạc bẽo của văn chương. Tại sao như vậy? Phải chăng nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônit Lêônôp đã yêu cầu: “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.

Cũng như ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Mac-xim Gor-ki…, nhà văn Nga Lêônit Lêônôp muốn khẳng định các nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi tác phẩm phải là một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy cái mới, cái độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ở sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật. Cuộc sống bày ra trước mắt biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tác phải đem đến cho họ một cái nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan. Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biết và hứng thú của nhà văn thì có hạn. Do đó ngoài việc tìm đến những mảnh đất mới của hiện thực để gieo mầm tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy vốn ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc. Lep-Tôn-xtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, các anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ Nguyễn Tuân cũng khẳng định: “Thơ là đã mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị đóng kín”.

Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó trước hết mỗi tác phẩm là một “khám phá về nội dung”. Muốn vậy, nhà văn không chỉ là “người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”, mà phải biết “đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có” (Nam Cao). Nhà văn phải biết nhìn sâu vào cuộc sống, hiểu về tâm hồn của con người để khám phá ra  những vấn đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và nghệ thuật gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức, hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tìm cho mình một hình thức
mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo sự thay đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời nhưng lại nói với giọng điệu riêng, âm sức riêng của tâm hồn mình; do vậy tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý.

Cái độc đáo sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của người nghệ sĩ không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được. Cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ đơn thuần tìm ra cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ các mới của nội dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa. Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chảy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điều này sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển sự phong phú của nền văn học. Mỗi giai đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.

Trong văn mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại một khí chất, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lê lấy cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thài bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kỳ này là một tiếng yêu thương mỗi cá nhân. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các thi sĩ phong trào thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái “tôi” cá nhân của mình… Mỗi thời đại có một nét riêng và cải riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm hưởng khác nhau. Thú vị thật, độc đáo nhất với người đọc lá sự lắng nghe những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh có thể nói lên được điều gì mơi lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.

Cũng viết về kỹ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc “Tì Bà Hành”, thi sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nỗi đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát của người kĩ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy vẫn gặp trong văn học cổ điển. Thấm thía mà nhẹ nhàng, nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật:

“Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách

Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu”

Không hiểu sao hai chữ “canh khuya” với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi đến thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn chứa sẵn trong đó cảm giác bất trắc, muộn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời, khiến không gian như lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thấm vào lòng người và tràn ra thành dòng lệ. Nỗi đau ở đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người và thương thân, tạo mối tình tri âm và tri kỷ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót thương, đồng cảm giữa những nạn nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận. Mang tấm lòng đầy yêu thương đến với cái đẹp. Nguyễn Du lại nhìn thấy trong thân phận bất hạnh của người ca nữ nơi đấu Long Thành cả lẽ hưng phế của thời cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng gió, bao phen giang sơn thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu chữ, tạo thành nỗi thương người, thương đời da diết của nhà thơ.

Tất cả những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện những nét tâm tình của con người trung đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang đến thơ mới, cái “tôi” cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã rất mãnh liệt. Ở một hồn thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kĩ nữ không đau xót một cách ngậm ngủi nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh.

“Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo

Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da”

Nàng như một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấu vào tâm can. Trăng không “trong vắt” một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng của vầng trăng còn tỏa ra hơi lạnh và sự cô đơn. Nếu như Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng. Từ trong hiện tại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay:

“Ngày mai bao lớp đời dơ

Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay”

Như vậy, cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng. Nếu Bạch Cư Dị, Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử dụng thể thơ tự do, thoát khỏi sự gò bó về niêm luật. Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đôi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác. Ta hãy cùng thưởng thức thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi:

“Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu.”

Cảnh vật hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hoà cùng màu xanh của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con “thuyền gối bãi” thật nhàn nhã, lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có chút xao động nào. Cả một bầu không khí thanh sạch, thơ mộng được mở ra. Nói là cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh ánh sáng. Bến nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Hình ảnh con người – chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc bằng một cái tôi cá thể một là nói về ai đó, có thể là một khách văn chương. Tư thế con người là đang vận động, đi lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng như không. Thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm say thiên nhiên, nhưng vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời gian. Ức Trai giao hòa với cảnh vật nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả nhưng ngưng đọng lại.

Đến thời Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

Câu trúc lơ” phơ gió hắt hiu.”

Từ “xanh ngắt” không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. Không gian thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động nhưng thật khẽ khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cầu trúc vừa gợi sự lay động nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hiu. Cũng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở lên khác hẳn:

“Những luồng run rẩy rung ring lá

… Đã nghe rét mướt luồn trong gió”

Làn gió của Xuân Diệu không hắt hiu thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh thể ẩn trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá cây cũng run lên vì lạnh. Từ vầng trăng trong thơ Nguyễn Khuyến đến vầng trăng trong thơ Xuân Diệu cũng khác biệt biết bao. Với Nguyễn Khuyến, vầng trăng hiều hòa như người bạn muôn đời của thi nhân:

“Nước biết trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào”

Vầng trăng cứ thế giãi lên thềm, cứ lọt qua song cửa, nơi giao lưu của tinh thần. Trăng với người đồng cảm, đồng điệu, nhưng tình cảm ấy cũng có cái gì đó lặng lẽ. Vầng trăng vẫn còn mang vẻ tự nhiên của tạo vật không lời. Đến Xuân Diệu, trăng như có linh hồn, có tâm tư, trăng cũng thấm thía nỗi cô đơn: Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Có thể nói, lòng yêu thiên nhiên của Xuân Diệu mang cái đắm say của một hồn thơ khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt. Phân tích bài thơ Vội vàng ta cũng thấy đây là “một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Không hiểu sao đến với bài thơ này nói riêng, thơ Xuân Diệu nói chung tôi cứ nghĩ đến tiếng hát của chàng Danjyar trong truyện Giamilya của Aimatôp. Chàng trai ấy đã cất tiếng hát từ tình yêu mê đắm của mình không chỉ mê đắm một con người cụ thể mà là tình yêu đối với cuộc sống, cả đất trời này. Thực sự “Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Khi ông nói đến thiên nhiên cũng là nói đến niềm say đắm cuộc sống. Trái tim bồi hồi, rạo rực, băn khoăn ấy đã tự tìm cho mình bộ “y phục tối tân”, trút cái “áo cổ điển” gò bó tìm đến thể thơ tự do với những câu dài ngắt khác nhau. Thơ Xuân Diệu bài nào cũng có sự hăm hở, say đắm. Thi sĩ cuống quýt, hối hả để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, chứ không chỉ lặng lẽ ngắm nhìn như các nhà thơ cổ.

Mỗi nghệ sĩ khi đi sâu vào cuộc sống, đều nỗ lực tìm ra một cách khám phá mới lạ. Cũng viết về nông dân, Nam Cao khác Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… Chính những khám phá mới ấy đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học. Để tạo ra cái mới, người nghệ sĩ cần có tài năng, có năng khiếu bẩm sinh để phát huy cái riêng của mình. Cũng để tạo ra sự mới lạ, nhà văn không thể xem sáng tác như một thứ nghề chơi mà cần có sự khổ luyện, có sự đào sâu tìm tòi.

Một nhà văn nước ngoài có nói đại ý: Trong văn chương có những niềm hạnh phúc trong nỗi đau tột cùng mà chỉ người nghệ sĩ mới hiểu được. Sáng tạo ra cái mới chính là kết quả của sự công phu và tài năng, nó tạo sức mạnh cho người nghệ sĩ chiến thắng quy luật băng hoại của thời gian.

(Lê Thị Hồng Hạnh, THPT chuyên Hùng Vương, Phú Thọ – Bài đạt giải Nhất)

Trên đây là một số gợi ý kèm theo những bài văn mẫu hay nghị luận Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung. Hi vọng quan việc đọc và tham khảo bài viết này, các em sẽ nắm được cách làm và viết được một bài nghị luận hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt !

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button