Lớp 6Văn mẫu 6

Viết văn kể sáng tạo câu chuyện Buổi học cuối cùng theo tưởng tượng – Văn mẫu 6

Dưới đây là các bài văn mẫu kể lại sáng tạo Buổi học cuối cùng, tưởng tượng và kể tiếp Buổi học cuối cùng, đóng vai nhân vật trong truyện kể lại Buổi học cuối cùng hay nhất cho học sinh lớp 6 tham khảo.

Đề bài

Em hãy tưởng tượng và kể tiếp câu chuyện Buổi học cuối cùng theo các ngôi kể (đóng vai làm nhân vật trong truyện)

Bài làm mẫu viết văn kể sáng tạo câu chuyện Buổi học cuối cùng theo tưởng tượng

Bài mẫu 1

Viết văn kể lại sáng tạo truyện Buổi học cuối cùng theo lời kể của thầy Hamen

Buổi sáng hôm ấy, vừa ngủ dậy, tôi đã nhận được một tờ thông cáo do xã trưởng sai đem tới. Lướt mắt qua tờ thông cáo, tôi choáng váng. Quân khốn nạn! Quân thâm độc! Chúng muốn huỷ diệt dân tộc Pháp vĩ đại và chân chính của chúng tôi bằng việc gạt tiếng mẹ đẻ ra khỏi tiềm thức những đứa con của dân tộc Pháp vùng An-dát và Lo-ren!

Hôm nay là buổi học Pháp văn cuối cùng mà tôi được dạy các học trò thân yêu của mình ư? Ngày mai, chúng sẽ phải học bằng tiếng Đức ư? Rồi chúng sẽ chẳng bao giờ biết đọc biết viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình ư? Nghĩ đến điều đó, tôi thật đau lòng. Nước mắt tôi trào ra, chảy qua môi, mặn chát.

Tôi quyết định chọn bộ lễ phục thường mặc khi đi lễ nhà thờ vào ngày chủ nhật làm trang phục cho buổi lên lớp cuối cùng của mình. Và tôi bước vào lớp học, sớm hơn mọi ngày.

Các học trò đã đến khá đông đủ. Nhưng lạ chưa, mọi ngày chúng la hét om sòm khiến tôi cố gào to mới lập lại được trật tự, mà hôm nay chúng ngồi im lặng, nét mặt buồn rầu Có lẽ chúng đã biết chuyện – Tôi nhủ thầm – Thật tội nghiệp cho chúng!.

Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả là trông thấy ở cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng đang ngồi lặng lẽ.

Thấy tôi bước vào lớp, cụ già Hô-de (trước đây là xã trưởng) đứng dậy, giọng trang nghiêm run run:

– Thưa thầy Ha-men, dân làng xưa nay không coi trọng việc học hành, đã bỏ phí nhiều thì giờ, giờ hôi cũng không kịp. Xin phép thầy cho dân làng chúng tôi được học buổi học cuối cùng này.

Quá xúc động trước lời đề nghị ấy, tôi không nói được câu nào, chỉ lặng lẽ gật đầu.

Tôi định bắt đầu buổi học sớm hơn thường lệ để học trò của tôi và dân làng được học nhiều hơn. Nhưng lướt nhanh các dãy bàn, một chỗ trống. Phrăng vẫn chưa đến. Cậu học trò nghịch ngợm và lười học của tôi vẫn thế, chắc là đang đùa nghịch dọc đường.

Tôi quyết định chờ Phrăng. Tôi không muốn một học trò nào của tôi không được học bài học cuối cùng này.

Đã quá giờ vào lớp như thường lệ. Vừa lúc đó Phrăng xuất hiện, mặt đỏ bừng, thở hổn hển. Tôi bước lại, âu yếm nắm tay cậu bé, dịu dàng nói:

– Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.

Sau khi Phrăng đã ngồi vào chỗ của em, tôi bước lên bục, rồi hướng xuống phía lớp học:

– Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các vùng An-dát và Lo-ren. Cổ họng tôi tự dưng nghẹn lại. Đám học trò nhỏ của tôi cúi đầu xuống, không khí im lặng bao trùm, đến nỗi nghe được cả tiếng gió thổi và tiếng lá cây xào xạc.

Tôi cố trẫn tĩnh nói tiếp:

– Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.

Phía dưới lớp học mấy em gái khóc thành tiếng. Còn đám học trò trai thì nhìn tôi đăm đăm, ánh mắt thảng thốt. Cụ già Hô-de bỏ kính ra, lấy tay áo chấm vào khóe mắt.

Bốn mươi năm nay, tôi đã dạy Pháp văn ở cái làng nhỏ này. Bao nhiêu lớp học trò đã đi qua cuộc đời tôi. Tôi đã phạt không biết bao nhiêu học trò lười học. Tôi đã vụt thước kẻ vào tay chúng khi chúng viết như giun bò. Tuy vậy, chúng thân thương và gắn bó vởi tôi như cha con. Thế mà ngày mai tôi đã phải xa chúng, ra đi rồi không bao giờ trở lại vùng này nữa… Tim tôi nhói lên. Nhìn xuống lớp học, tôi thấy những ánh mắt buồn rầu đang chờ đợi tôi, đang chờ bài Pháp văn cuối cùng!

Tôi gọi học trò đọc bài. Đến lượt Phrăng, cậu không thuộc bài. Nhưng tôi không giận cậu bé. Tôi chỉ trách cha mẹ chúng đã không tha thiết lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ chúng chỉ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Rồi tôi tự trách mình. Cả tôi nữa. Tôi đã chẳng sai chúng tưới vườn thay cho việc học đó hay sao? Và khi tôi muốn đi câu cá hương, tôi có ngại ngùng cho chúng nghỉ học đâu?…

Tôi giảng giải cho lũ học trò nhỏ của tôi về tiếng Pháp, bảo chúng rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất:

– Các con ạ, phải giữ lấy tiếng Pháp trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…

Rồi tôi cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học. Chưa bao giờ tôi đọc say sưa và xúc động đến thế. Dường như bao nhiêu tình cảm với học trò, với bốn mươi năm dạy học, với Tổ quốc dồn cả vào bài học cuối cùng này. Trước khi ra đi, tôi muốn truyền thụ lại toàn bộ tri thức của mình cho học trò, tôi muốn đưa toàn bộ những tri thức ấy vào đầu óc chúng. Đám học trò chăm chú nghe tôi đọc bài. Chúng như uống lấy từng lời của tôi.

Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Tôi đã chuẩn bị cho học trò những từ mẫu mới tinh, viết thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát.. Chưa bao giờ bọn trẻ chú tập viết đến thế! Lớp học im phăng phắc! Chỉ nghe tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc mấy con bọ dừa bay vào, bọn trẻ vẫn không để ý. Cả những đứa nhỏ nhất cũng vậy, chúng cặm cụi vạch từng nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ. Phrăng ngẩng lên, lắng tai nghe, vẻ nghĩ ngợi.

Tôi ôn tồn bảo cậu bé:

– Phrăng, con nghĩ gì thế? Viết bài đi con!

– Thưa thầy, liệu người ta có bắt cả chim bồ câu cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhĩ?

Tôi bàng hoàng vì câu hỏi của cậu bé. Những trò khác cũng thẫn thờ nhìn tôi!

…. Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ…

Tôi giật mình vì những âm thanh đó. Tôi đứng dậy, người tái nhợt.

– Các bạn, tôi nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…

Nhưng tôi nghẹn ngào không nói được hết câu.

Tôi quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, tôi cố viết thật to:

“Nước Pháp muôn năm”

Rồi tôi đứng đó, đầu dựa vào tường, không nói được gì, chỉ giơ tay ra hiệu cho bọn học trò:

“Kết thúc rồi… đi đi thôi! “.

Bài mẫu 2

Em hãy tưởng tượng và kể tiếp câu chuyện Buổi học cuối cùng

Ngay sau khi buổi học kết thúc. Thầy Ha-men cùng người em gái của mình ra đi, rời xa vĩnh viễn vùng An – dát, rời xa vĩnh viễn ngôi trường mà thầy giáo gắn bó bốn mươi năm.

Chiếc xe ngựa đưa thầy ra khỏi trường. Thầy thẫn thờ đưa mắt nhìn ngôi trường. Cả tới khi xe đã ra tới con dốc ở phía đầu làng, thầy vẫn cố ngoái lại nhìn, Rồi thầy quay đi, rút khăn mùi xoa lau nước mắt. Thật tội nghiệp cho thầy.

Bọn học trò nhỏ chúng tôi đưa tiễn thầy mãi đến tận ngã ba, nơi con đường làng nhập và một con đường lớn. Thầy quay về phía chúng tôi, giọng nghẹn ngào:

–      Thôi, các con về đi! Thầy mong các con hãy nhớ những gì thầy đã nói với các con lúc nãy.

Chúng tôi oà lên khóc.

–      Hãy can đảm lên các con – Thầy an ủi chúng tôi và vẫy chào từ biệt.

Rồi chiếc xe ngựa chở thầy cứ xa dần, xa dần, mất hút vào con đường cái lớn. Lúc bấy giờ chúng tôi mới quay về làng. Chúng tôi im lặng đi bên nhau, thẫn thờ như vừa đánh mất một thứ gì quý giá lắm mà không thể nào tìm thấy được!

Hôm sau, thầy giáo dạy tiếng Đức đến thay thế thầy Ha­men…Ông thầy mới này cũng là người Pháp, nhưng không hiểu sao mới gặp chúng tôi đã có ác cảm. Phải chăng vì thầy dạy Đức văn chứ không phải Pháp văn? Sao thầy có thể nhồi nhét vào đầu óc chúng tôi thứ ngôn ngữ lạ hoắc và chán ngắt này?

Tôi không hứng thú gì với bài học Đức văn này cả. Tôi nghe thầy giáo giảng bài với một thái độ dửng dưng, lạnh nhạt.

Đến khi thầy giáo mới bảo chúng tôi tập viết những từ tiếng Đức theo mẫu thì tôi lại viết những phân từ tiếng Pháp mà thầy Ha-men đã dạy chúng tôi. Vì tôi mới biết viết tập toạng nên tôi cũng chẳng viết được mấy từ. Bực mình, tôi cắm ngòi bút xuống bàn. Ngòi bút cong vênh lên khi đâm vào mặt bàn cứng. Tôi tự giận mình trước đây sao không chú trọng vào việc học tập, thường hay trốn học và rong chơi ngoài đồng nội? Giá tôi chăm chỉ hơn…!

Chao ôi, càng nghĩ, tôi càng đau lòng. Và tôi nhớ tới thầy Ha-men, nhớ da diết. Tôi nhớ cái ánh mắt vừa nghiêm khắc, vừa dịu dàng của thầy. Tôi nhớ hình ảnh lớn lao của thầy với bộ trang phục trang trọng trong buổi học cuối cùng. Tôi nhớ những lời giảng say sưa, xúc động của thầy. Tôi nhớ những từ mẫu viết bằng chữ rộng rất đẹp: “Pháp, Andát, Pháp, An-dát” như những lá cờ bay phấp phới trước các dãy bàn. Tôi nhớ cả những lần tôi không thuộc bài, bị thầy phạt trước lớp, hoặc những lần tôi viết nguệch ngoạc, mực giây đầy vở, bị thầy phạt xoè hai bàn tay vụt thước kẻ xuống…Những lúc ấy tôi cho rằng thầy ác quá và rất ghét thầy.

Nhưng lúc này đây tôi lại thèm được thầy trở lại đây dạy chúng tôi những bài Pháp văn, thèm được thầy phạt chúng tôi như vậy. Bây giờ tôi mới thấm thía những hình phạt của thầy là muốn chúng tôi tiến bộ.

Đang nghĩ miên man thì bỗng “cốp”, một cái thước vút mạnh xuống đầu tôi. Tôi choáng váng ngẩng lên. Thầy giáo dạy Đức văn mặt hằm hằm nhìn tôi:

–     Thằng nhãi, mày học hành thế này à? Mày có muốn nhừ đòn không? Liệu hồn đấy! Đồ nô lệ thối tha!

Tôi cố kìm nén sự tức giận và cả những giọt nước mắt chỉ trực trào ra.

Tôi bỗng thấy ánh mắt buồn rầu, trìu mến của thầy Ha­men: Can đảm lên các con. Và bên tai tôi văng vẳng lời thầy Ha-men:

–      Các con ạ, các con nên nhớ rằng: tiếng Pháp là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất; phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác nào nắm được chìa khoá chốn lao tù…

Những tiếng ấy át đi lời sỉ nhục của thầy giáo dạy Đức văn, khiến tôi bình tĩnh dần trở lại.

Tôi tự hỏi: Bao giờ thầy Ha-men trở lại?.

Bài mẫu 3

Đóng vai một học sinh trong lớp không phải nhăn vật Phrăng kể lại Buổi học cuối cùng

Sáng hôm đó khác hẳn mọi khi. Thầy Ha-men đến từ rất sớm chờ chúng tôi ở cửa lớp. Thầy vận y phục rất đẹp như ngày chủ nhật. Thầy mặc chiếc áo rơ đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá son gấp rất mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc trao phần thưởng. Đi đằng sau thầy là rất nhiều người. Cự gia Hô-de, trước đây là xã trưởng với chiếc mũ ba sừng, bác phát thư và nhiều người khác nữa. Ai trông cũng rất buồn rầu.

Thầy gọi chúng tôi vào lớp, ổn định chỗ ngồi. Các vị quan khách cũng lần lượt ngồi vào hàng ghế cuối cùng trong phòng học. Điểm danh, thầy Ha-men thấy thiếu Phrăng. Đấy là cậu bạn ngồi ngay cạnh tôi. Cậu ta là chúa đi muộn và rất hay bỏ học. Phrăng ham chơi có tiếng trong lớp. Nếu là thường ngày, chắc chắn thầy sẽ rất bực mình. Nhưng hôm nay thầy lại bảo cả lớp chờ Phrăng. Thầy đứng trên bục giảng chờ đợi rất sốt ruột. Chúng tôi ngồi dưới không dám ho he điều gì. Ai cũng ngồi khoanh tay, im lặng. Tất cả đang tập trung nhìn ra ngoài cửa chờ bóng dáng của cậu bạn mãi chơi. Cuối cùng, cậu ta cũng đến. Hình như cũng cảm nhận được sự khác lạ trong bầu không khí, Phrăng rón rén xin phép thầy Ha-men vào lớp. Và buổi học bắt đầu. Tôi và Phrăng đều không hiểu lí do vì sao thay Ha-men lại tỏ ra trịnh trọng như vậy trong buổi học ngày hôm nay. Nhưng trông thầy quá nghiêm nghị, không ai dám hỏi. Đến khi thầy tuyên bố nay là buổi học cuối cùng của những học sinh vùng An-dát chúng tôi được học thầy, được học tiếng mẹ Pháp thân yêu. Cả lớp ồ lên trong sự ngỡ ngàng. Và rồi ai cũng trong tâm trạng ân hận vì trước nay mình đã không thực sư chăm chỉ học Pháp văn. Đặc biệt là Phrăng – người thường xuyên trốn học. Hoá ra đế tôn vinh buổi học ngày hôm nay, thầy Ha-men đã ăn mặc rất đẹp và tôi cũng chợt hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Các bạn hình như ai cũng có cùng suy nghĩ với tôi. Ai cũng cố gắng học hết mình trong buổi học hôm nay. Thầy Ha-men cũng hết mình truyền đạt cho chúng tôi tất cả những cái hay, cái đẹp của tiếng Pháp. Thầy bảo với chúng tôi, tiếng Pháp là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng, vững vàng nhất. Thầy bảo chúng tôi phải giữ lấy nó, không được quên lãng nó. Nó chính là linh hồn của dân tộc Pháp. Những đứa học trò chúng tôi im phăng phắc lắng nghe, miệng há ra như muốn nuốt lấy toàn bộ những gì thầy nói.

Thầy không chỉ giảng giải mà còn dạy chúng tôi viết. Dạy chúng tôi biết viết tên quê hương đất nước: Pháp, An-dát. Mọi người trong căn phòng học nhỏ bé này đều hết sức tập trung viết từng nét, từng nét của tiếng Pháp, An-đát như thể hiện một tấm lòng, một ý thức. Đến cả nhưng con chin câu ngoài cửa sổ cũng gật gù như tán đồng.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi vẫn là hình ảnh thầy Ha-men run run trên bục giảng, cố gắng viết thật to:

“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”

Chưa bao giờ tôi thấy thầy lớn lao đến vậy. Chưa bao giờ tôi biết hai tiếng đất nước thiêng liêng đến thế, cao đẹp đến thế.

Tất cả những hình ảnh đó giờ vẫn còn rất rõ ràng trong tôi. Từ buổi học đó đến nay, tôi tuy chưa được gặp lại thầy Ha-men nhưng trong tôi vẫn luôn hiện lên dáng thầy khi đang viết dòng chữ đó. Chính hình ảnh đó là động lực để tôi tham gia chiến đấu, đấu tranh giành độc lập tự do cho quê hương, đất nước.

—————————————

Các bài văn mẫu kể lại Buổi học cuối cùng  do Đọc Tài Liệu biên soạn và tổng hợp, cùng các bài văn mẫu 6 nói chung hy vọng sẽ giúp các em nẵm vững được cốt truyện nhân văn, nghệ thuật tự sự và nâng cao kĩ năng làm văn để học tốt hơn môn Ngữ Văn 6.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button