Dàn ý, tuyển chọn TOP 7+ bài văn hay phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lý Bạch, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như tình cảm mà tác giả gửi gắm vào trong bài thơ
Trước khi đi vào TOP 7+ bài văn hay phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư, chúng ta cùng điểm lại những nội dung chính của bài thơ cần triển khai để phân tích trong bài viết.
Khái quát về tác giả, tác phẩmXa ngắm thác núi Lư
1. Tác giả Lý Bạch
– Lý Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liêm Cư Sĩ, là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Thịnh Đường và Trung Hoa nói chung.
– Quê ông ở Cam Túc nhưng đã theo gia đình về sống ở Tứ Xuyên từ khi mới năm tuổi. Từ nhỏ, ông đã thích ngao du, mong lập nên công danh sự nghiệp, song đường quan nghiệp của ông gặp nhiều trắc trở.
– Lý Bạch được mệnh danh là “Tiên thơ”, thơ ông thể hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng, hình ảnh trong thơ tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Thơ ông hay nhất ở những bài viết về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.
– Đặc điểm thơ Lý Bạch: một tâm hồn tự do, hào phóng; hình ảnh thơ tươi sáng, kì vĩ; ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện; ông thường viết rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.
2. Tác phẩm Xa ngắm thác núi Lư
– Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư được sáng tác vào khoảng năm 734, khi Lý Bạch đang lưu lạc ở vùng Giang Nam, lúc này ông đã ngoài 50 tuổi.
– Bố cục bài thơ gồm có 2 phần:
+ Phần 1 (câu đầu) tả núi Hương Lô.
+ Phần 2 (ba câu còn lại) tả thác núi Lư.
– Nội dung: Bài thơ đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của tác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư, qua đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả.
– Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Hình ảnh thơ tráng lệ, huyền ảo. Dùng nhiều động từ mạnh, táo bạo, gợi hình, gợi cảm. Nghệ thuật so sáng và phóng đại cùng với ngòi bút tả cảnh ngụ tình.
Dàn ý phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư
1. Mở bài
– Giới thiệu bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lý Bạch
– Nêu vấn đề cần phân tích: vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng, trữ tình của thác nước Lư Sơn qua bài thơ.
2. Thân bài
a) Luận điểm 1: Tả đỉnh núi Hương Lô.
– Vị trí: đứng từ xa để ngắm cảnh thác nước
⇒ Quan sát một cách bao quát, toàn diện
– Động từ “sinh”: nảy nở, sinh ra, qua đó cho ta thấy ánh mặt trời xuất hiện như chủ thể làm cho mọi vật sinh sôi, nảy nở
– Đỉnh núi Hương Lô được miêu tả dưới những tia nắng mặt trời chiếu rọi, làn hơi nước phản quang với ánh mặt trời ấy tạo nên những làn khói màu tím vừa rực rỡ vừa kì ảo, đó chính là nét đặc trưng của đỉnh núi Hương Lô
=> Câu thơ đầu gợi ra cái nền, cái khung cảnh đẹp huyền ảo của cảnh vật.
b) Luận điểm 2: Tả thác núi Lư.
– Động từ “quải” (treo) đã biến cảnh vật từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh: nhìn từ xa, đỉnh núi là khói tía mù mịt, chân núi là dòng sông tuôn chảy, khoảng giữa là thác nước treo lơ lửng như giải lụa trắng rủ xuống bất động
– Với hai động từ “phi”, “lưu” cảnh vật đang từ trạng thái tĩnh lại chuyển sang trạng thái động. Thác nước được miêu tả một cách trực tiếp nhưng qua đó ta lại thấy được thế núi cao và sườn dốc đứng
– “Tam thiên xích” lag một con số ước lệ, qua đó làm tăng thêm độ nhanh, sức mạnh và thế đổ của dòng thác
– Phép so sánh, lối nói phóng đại: thác nước – dải Ngân Hà, qua đó cho thấy sự mạnh mẽ, kì vĩ của thiên nhiên
=> Thác núi Lư hiện lên rất đẹp, kì vĩ và mạnh mẽ. Qua đó, giúp chúng ta cảm nhạn được tình yêu thiên nhiên và phần nào đó tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả
c) Đặc sắc nghệ thuật
– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
– Hình ảnh thơ tráng lệ, huyền ảo
– Dùng nhiều động từ mạnh, táo bạo, gợi hình, gợi cảm
– Nghệ thuật so sánh và phóng đại
– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
3. Kết bài
– Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Đánh giá ý nghĩa của bài thơ.
↪ Tham khảo: soạn bài Xa ngắm thác núi Lư
TOP 7+ bài văn mẫu phân tích Xa ngắm thác núi Lư
Để phân tích được bài thơ này thì các em cần cảm thụ được vẻ đẹp thiên nhiên mà Lý Bạch miêu tả qua bài thơ Xa ngắm thác núi Lư, bước đầu nhận biết mối quan hệ gắn bó giữa tình và cảnh trong thơ cổ.
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư mẫu số 1
Bài thơ có tựa đề Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) nhưng câu thơ mở đầu lại không hề nói đến ngọn thác ấy, mà miêu tả làn khói tía (tử yên) đang tỏa lên từ ngọn núi Hương Lô. Làn khói tía được “sinh” ra từ sự “giao duyên” giữa mặt trời và ngọn núi: “Nhật chiếu Hương Lô”. Nhờ sự giao duyên ấy mà không gian ở đây bỗng trở nên thi vị và thật hữu tình… Nhưng cho dù đã đắm mình trong không gian ấy, chúng ta vẫn không quên rằng nhà thơ đang miêu tả ngọn thác núi Lư. Vậy câu mở đầu có phải lạc chủ đề không?
Ai cũng biết thơ Đường, trừ thơ trường thiên, thường có khuôn khổ gò bó, có những quy tắc rất nghiêm ngặt về số câu, số chữ… Bởi thế, để đạt được ý đồ nghệ thuật của mình, nhà thơ luôn phải chọn lựa những chữ rất “đắt” và hàm súc; phải dùng những thủ pháp nghệ thuật như gợi, ước lệ, tượng trưng… Bài thơ của Lí Bạch mà chúng ta đang nói là một bài tứ tuyệt thất ngôn; lại là một bài hay của thơ Đường, thì chắc chắn mỗi câu, mỗi chữ của ông đều có một giá trị nghệ thuật nhất định.
Quả vậy, đọc lại câu thơ ta không chỉ thấy một không gian thi vị, hữu tình mà còn cảm nhận tầm vóc vũ trụ của ngọn Hương Lô kia. Dưới mặt trời đang tỏa nắng là một ngọn núi tựa như một bình hương khổng lồ đang nghi ngút tỏa những làn khói tía vào vũ trụ. Hương Lô là một ngọn núi của dãy Lư Sơn, nơi ngọn thác đang đổ xuống. Vậy thì ở câu thơ này, Lí Bạch không chỉ tả, mà điều cốt yếu là ông muốn gợi mở tầm cao vũ trụ của ngọn thác.
Nếu như câu một là gợi thì câu hai lại tả, nhưng tả thông qua sự cảm nhận mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà thơ: Đứng từ xa mà nhìn lại thì ngọn thác như treo (quải) trên dòng sông phía trước. Động từ “quải” (treo) gợi trí tưởng tượng của người đọc về thế dựng đứng của ngọn thác, tô đậm cảm giác về sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây. Và chính ý đó đã tạo đà cho câu thơ thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích.
Đến đây bức tranh ngọn thác núi Lư được hiện lên với những đường nét rõ ràng nhất. Những động từ “phi” (bay), “trực” (thẳng) có sức biểu hiện mạnh mẽ, mang lại một ấn tượng mạnh về tốc độ và sức lực của dòng chảy đang đổ xuống từ độ cao ba nghìn thước. Như vậy, sự kì vĩ, tầm vóc vũ trụ của ngọn thác mới chỉ được gợi và gợi tả ở câu một và câu hai, thì đến câu ba nó được thể hiện một cách cụ thể: Chẳng những kì vĩ mà còn mang trong mình nó một sức mạnh vô biên, sức mạnh không gì cản được.
Dường như nét bút tả ngọn thác đã đến đỉnh điểm của nó. Và chính điều ấy khiến người đọc phải sững sờ bởi hình ảnh ngọn thác:
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Dải Ngân Hà – một dải màu sáng nhạt với những vì tinh tú nhấp nháy, vắt ngang bầu trời những đêm mùa hạ, không phải là một dòng sông thực, mà chỉ là một dòng sông trong tưởng tượng. Nói cách khác, dòng Ngân Hà chỉ là một hình ảnh tưởng tượng, có tính trừu tượng. Việc nhà thơ mang một cái trừu tượng để so sánh với cái cụ thể đã làm cho cái cụ thể trừu tượng hơn.
Nhưng nhờ đó mà hình ảnh thơ (ngọn thác) trở nên huyền ảo và mang một nét đẹp diệu kì. Trước vẻ đẹp ấy, người đọc bị chông chênh giữa hai chiều nhận thức: Thực – ảo; tiên giới – trần gian;… Điều đó không có gì lạ, mà nó chỉ khẳng định thêm cái cảm nhận về sự giao duyên, gặp gỡ giữa trời và đất mà chúng ta đã nói đến ở câu một mà thôi.
Thơ với người là một. Nét bút bay bổng, mạnh mẽ của Lí Bạch ở đây cũng chính là tâm hồn của nhà thơ. Một tầm vóc kì vĩ, một sức mạnh hào hùng và vẻ đẹp nên thơ cũng chính là những khao khát, ước vọng mà nhà thơ Lí Bạch vẫn thường vươn tới.
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư mẫu số 2
Lý Bạch (701 – 762), là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường. Tên chữ của ông là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cự sĩ, quê ở tĩnh Cam Túc. Lên năm tuổi, ông cùng gia đình định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc đất Miên Châu (Tứ Xuyên). Từ lúc còn trẻ, Lý Bạch đã thích đi du lịch khắp nơi, tìm cách tạo lập công danh sự nghiệp. Suốt đời, ông ấp ủ lí tưởng cứu đời, giúp dân nhưng chưa bao giờ toại nguyện. Lý Bạch có tài sáng tác thơ và ông được người hâm mộ đặt cho biệt hiệu là Thi tiên. Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Hình ảnh trong thơ tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên, điêu luyện. Lý Bạch viết nhiều bài rất hay về đề tài chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Trong mảng viết về thiên nhiên, Xa ngắm thác núi Lư là bài thơ độc đáo có giá trị muôn đời.
Phiên âm chữ Hán:
Vọng Lư Sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
Xa ngắm thác núi Lư
Mặt trời chiếu núi Hương Lô Sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Tên chữ Hán của bài thơ là Vọng Lư Sơn bộc bố, có nghĩa là trông từ xa, thác nước trên núi Lư chảy xuống như một tấm vải treo trước mặt. Tên bài thơ đã thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận cảnh vật và tài hoa của thi sĩ.
Với những hình ảnh tráng lệ, huyền ảo, bài thơ đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư; qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, khoáng đạt của tác giả.
Nhà thơ ngắm thác nước từ xa. Từ điểm nhìn đó, nhà thơ không thể miều tả một cách chi tiết, tỉ mỉ nhưng lại có lợi thế là được thưởng thức toàn cảnh và ông đã miêu tả thành công vẻ đẹp độc đáo của thác Lư Sơn.
Câu thứ nhất:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
Vai trò của nó là phác họa ra cái phông nền hoành tráng, tương xứng với hình ảnh phi thường của dòng thác. Ngọn Hương Lô hiện lên với những đỉnh núi cao chất ngất, quanh năm mây mù bao phủ. Người đời đã đặt tên cho nó là Hương Lô (16 hương). Lý Bạch không phải là người đầu tiên phát hiện ra nét đặc trưng đó. Ba trăm năm trước, trong Lư Sơn kí (ghi chép về Lư Sơn), nhà sư Tuệ Viễn (334 – 417) đã tả: Khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói. Cái mới mà Lý Bạch đem tới cho Hương Lô là miêu tả vẻ đẹp của nó dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời. Hơi nước bốc lên, phản quang ánh sáng mặt trời, đã chuyển thành màu tía lung linh, huyền ảo. Sự thực là hơi khói đã có từ trước, nói đúng hơn là tồn tại thường xuyên, song dưới ngòi bút của Lý Bạch, với động từ sinh, ánh sáng mặt trời xuất hiện như chủ thể làm cho mọi vật trở nên sống động.
Những vẻ đẹp khác nhau của thác nước được tác giả miêu tả trong ba câu tiếp theo:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây).
Câu Dao khan bộc bố quải tiền xuyên thể hiện cảm nhận ban đầu của nhà thơ trước hình ảnh thác nước được ngắm từ xa. Qua cái nhìn đầy thi vị của Lý Bạch, thác nước vốn tuôn đổ ầm ầm từ đỉnh núi cao xuống đã biến thành một dải lụa trắng khổng lồ được treo trên vách núi. Trên đỉnh núi khói tía bốc mịt mù, dưới chân núi dòng sông tuôn chảy, choáng giữa là thác nước treo cao như dải lụa bạch, quả là một bức tranh hùng vĩ, hoành tráng!
Câu này còn có một cách hiểu khác. Quải là treo, tiền xuyên là dòng sông phía trước. Có người cho rằng dòng sông phía trước không phải là vị trí nơi thác đổ xuống, mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy thì cả câu có nghĩa là: Đứng xa trông ngọn thác giống như một dòng sông treo trước mặt. Thật là một hình tượng tuyệt mĩ được tạo nên bởi sức liên tưởng vô hạn của nhà thơ.
Ở bản dịch thơ, câu Xa trông dòng thác trước sông này vì đánh rơi mất chữ treo là chữ quan trọng nhất của câu thơ nên ấn tượng do hình ảnh dòng thác gợi ra biến mất. Trực tiếp tả thác song đồng thời tác giả lại giúp người đọc hình dung được thế núi cao và sườn núi dốc đứng, nên mới có cảnh Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước thật ấn tượng như vậy.
Vẻ đẹp huyền ảo của thác nước được nhà thơ miêu tả trong câu kết. Tác giả đã tỏ ra xuất sắc trong việc dùng các từ Nghi (ngỡ là), lạc (rơi xuống) và hình ảnh Ngân Hà. Ví thác nước giống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây là một so sánh độc đáo đến mức kì lạ. Sông Ngân là dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quang. Sự xuất hiện của hình ảnh Ngân Hà ở cuối bài đã được chuẩn bị từ hai câu đầu. Vì ngọn núi, Hương Lô luôn có mây mù bao phủ nên nhìn xa, thác nước đã được hình dung như một tấm lụa bạch lớn treo rủ, khiến người nhìn dễ liên tưởng tới dải Ngân Hà từ chân mây tuôn xuống.
Mặt khác, trong thần thoại truyền thuyết Trung Hoa, Ngân Hà cũng đã được quan niệm như một dòng sông thực sự. Chữ “lạc” dùng rất đắt vì dòng Ngân Hà vốn nằm theo chiều ngang vắt qua bầu trời, còn dòng thác lại đổ theo chiều thẳng đứng từ đỉnh núi cao xuống mặt đất. Câu thơ cuối cùng này được coi là danh cú (câu thơ, câu văn hay nổi tiếng) vì đã kết hợp được một cách tài tình yếu tố chân thực và yếu tố huyền ảo, đặc tả được cảm giác kì diệu do hình ảnh thác nước gợi lên trong tâm khảm nhà thơ và để lại dư vị đậm đà trong lòng người đọc.
Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lý Bạch ca ngợi một danh thắng của đất nước Trung Hoa. Nhà thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp kì vĩ của thác nước Lư Sơn và gửi gắm vào đó tình yêu thiên nhiên đằm thắm của mình. Văn tức là người. Bài thơ hé lộ cho ta thấy phần nào tầm hồn phong phú, trái tim nhạy cảm và tính cách mạnh mẽ, phóng khoang của bậc Thi tiên họ Lý.
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư mẫu số 3
Lý Bạch nhà thơ kiệt xuất của nền thơ ca Trung Quốc. Thời nhà Đường ông thường được nhắc đến như một vị thánh thơ với tài năng kiệt xuất, ung dung tự tại không màng đến hư danh. Thơ của Lý Bạch được ví như một bức tranh bao gồm cả hình lẫn tình vô cùng khoáng đạt. Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư chính là một trong những bức tranh đầy hình ảnh và âm thanh của Lý Bạch:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Ngao du sơn thủy hữu tình chính là cuộc đời của Lý Bạch. Chính vì lẽ đó mà bài thơ Xa ngắm thác núi Lư đã hội tủ đủ mọi yếu tố những cái điển hình, đẹp nhất của thác núi Lư tuyệt mĩ của bút pháp nghệ thuật của nhà thơ.
Ngay mở đầu bài thơ chính là hình ảnh thác núi Lư từ xa:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dãy núi Lư sơn hùng vĩ, Hương Lô là một ngọn núi thuộc dãy Lư sơn này, từ xa nhìn lại hình ảnh Hương Lô như một chiếc Lư hương vô cùng tuyệt đẹp là nền cho bức tranh thiên nhiên của thác núi Lư. “Nhật chiếu” ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống dưới dòng nước đang ào ào đổ xuống tạo nên một hình ảnh vô cùng tuyệt đẹp, sự khúc xạ ánh sáng càng làm cho vẻ đẹp ấy hoàn mĩ hơn.
Hình ảnh ngọn núi Hương Lô được Lý Bạch quan sát từ xa mang đến cảm giác thật ảo không rõ ràng nhưng lại tạo hiệu ứng vô cùng xuất sắc khi đã miêu tả hình ảnh thác núi Lư đẹp mờ ảo như chốn thiên cung và người cảm nhận được nét đẹp đó chỉ có thể là tiên thơ Lý Bạch mà thôi. Phong cảnh Hương Lô thật đẹp, thật kì diệu nhưng cái sự ảo diệu và thu hút tầm nhìn hơn cả chính là hình ảnh của ngọn thác, điểm nhấn chính của bức tranh thơ:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Chính nhan đề bài thơ đã nói lên toàn cảnh của bài thơ. “Xa ngắm thác” chính là việc đứng từ xa quan sát hình ảnh dòng nước từ thác núi Lư chảy xuống, như dải lụa trắng đang trào xuống. “Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”, bức tranh tưởng chừng như vô tri vô giác chỉ có hình mà không có ảnh, nhưng chỉ một động từ “quải” thôi cũng đã đủ biến một hiện tượng đang hoạt động trở lên tĩnh lặng hơn, tất cả chỉ muốn khẳng định một điều chính là việc từ xa ngắm thác nên chỉ có thể cảm nhận được hình ảnh là chính mà thôi. Dòng thác như dải lụa trắng từ trên trời chảy xuống thật hoành tráng và kỹ vĩ, bức tranh tuyệt đẹp đó tưởng chỉ có vô tri vô giác nhưng đã được thi tiên Lý Bạch miêu tả đầy tiếng động:
Phi lưu trực há tam thiên xích
Câu thơ thứ ba, chính là sự chuyển tiếp trạng thái của dòng thác núi Lư từ hình chuyển sang động. “Phi lưu” dòng nước đổ xuống ào ào tưởng như bay, thác cao dựng đứng cao tận ba nghìn thước “tam thiên xích” chính vì lẽ đó nước đổ xuống như bay chả có gì ngạc nhiên, cách nói phóng đại này tưởng như không có thực nhưng lại chân thực vô cùng.
Bằng con mắt đầy lãng mạn của mình, sự liên tưởng mà chỉ có thi tiên mới có Lý Bạch đã trông thấy:
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Câu thơ cuối đã thể hiện được tài năng và phong cách thơ Lý Bạch. Việc tả thác tưởng chừng như đơn giản như bao bài thơ bài văn khác nhưng tả thác của Lý Bạch thì thật lạ, thật tài tình: “cái ảo và cái thực”; “cái hình và cái âm”; bút pháp nghệ thuật lãng mạn như phá cách mọi giới hạn. “Nghi thi” – cứ ngỡ là…đây là sự hoài nghi nhưng vẫn cho là thật. Sự liên tưởng mà chỉ có Lý Bạch mới có “tưởng như dòng sông tuột khỏi mây” (lạc cửu thiên) mà tuôn xuống. Hình ảnh mây ngang trời lại dòng thác đang đổ xuống, sự trùng hợp hoặc có thể là sự kết hợp của Lý Bạch chính là hình ảnh đẹp nhất bài thơ, ngắm thác chảy mà ngỡ mình đang ở chốn bồng lai tiên cảnh nào đó.
Có lẽ chỉ những người yêu thiên nhiên đến say đắm như Lý Bạch mới có thể cảm nhận và vẽ lên một bức tranh thác nước đẹp đến thế, tuyệt vời đến thế. Mấy người đến thác ngắm cảnh mà bắt được cái hay cái đẹp của thác đặc biệt là bắt gặp được đúng cái hình ảnh thi tiên đã thấy? Khoảnh khắc trôi qua tưởng đã mất nhưng chính thi tiên Lý Bạch đã làm cho hình ảnh đó bất biến với thời gian.
Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư là một trong những tuyệt tác thơ của Lý Bạch, đây chính là bức tranh tả thực vô cùng xuất sắc cho thấy được phong cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ của thác núi Lư. Qua đây ta cũng cảm nhận được tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp của nhà thơ, những vẻ đẹp không những không mất đi mà còn trường tồn bất biến với thời gian.
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư ngắn nhất mẫu số 4
Xa ngắm thác núi Lư là một trong những bài thơ hay nhất của Lý Bạch, được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đã thể hiện thành công vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng, trữ tình của thác nước Lư Sơn, đồng thời thể hiện cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp ấy.
Hai câu đầu, tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh và nhân hóa để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thác nước Lư Sơn. Suối nước Lư chảy quanh co, trắng xóa như mây mù. Thác nước được miêu tả như một con rồng cuộn mình, vẫy vùng, tung bọt trắng xóa. Khung cảnh thác nước hiện lên thật sống động, mạnh mẽ, khiến người đọc không khỏi cảm thấy choáng ngợp.
Hai câu sau, tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh và cảm thán để miêu tả âm thanh của thác nước và cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp ấy. Tiếng thác nước được miêu tả như sấm dậy, tiếng gió reo như tiếng sáo. Nhìn thác nước, lòng người cảm thấy khoan khoái, sảng khoái.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, với ngôn ngữ giàu sức gợi, giàu hình ảnh. Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, nhân hóa, cảm thán. Hình ảnh thác nước được miêu tả thật sinh động, cụ thể, khiến người đọc như đang được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng, trữ tình của thác nước Lư Sơn.
Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư là một bài thơ hay, đã thể hiện thành công vẻ đẹp của thác nước Lư sơn. Bài thơ cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm say mê khám phá của tác giả Lý Bạch.
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư mẫu số 5
Lý Bạch là một trong những nhà thơ lớn nhất của Trung Quốc, nổi tiếng với phong cách thơ phóng khoáng, lãng mạn, yêu thiên nhiên. Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư là một trong những bài thơ hay nhất của Lý Bạch, được sáng tác vào khoảng năm 734, khi ông đang lưu lạc ở vùng Giang Nam. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng, trữ tình của thác nước Lư Sơn, đồng thời thể hiện cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp ấy.
Trước hết, câu thơ mở đầu bài thơ đã vẽ nên khung cảnh của ngọn núi Hương Lô.
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
Với câu thơ đầu tiên đã giúp người đọc cảm nhận được vị trí của người tả cảnh, dường như chủ thể trữ tình đang đứng từ xa ngắm nhìn đỉnh núi và có lẽ bởi thế mà hình ảnh ngọn núi hiện lên toàn cảnh, rõ nét. Ngọn núi Hương Lô được miêu tả dưới ánh sáng của mặt trời và để rồi dưới ánh sáng ấy, làn hơi nước đã phản quang cùng ánh nắng, tạo nên một sắc khói màu tía bủa vây khắp đỉnh núi. Thêm vào đó, với việc sử dụng động từ “sinh” đã làm cho người đọc cảm nhận thấy ánh sáng mặt trời chính là chủ thể mà với tác động của nó vạn vật sinh sôi, nảy nở, phát triển và đổi thay. Như vậy, câu thơ đầu tiên đã vẽ nên khung cảnh của ngọn núi Hương Lô, đó chính là cái nền gợi nên vẻ đẹp huyền ảo của cảnh vật.
Nếu như câu thơ đầu tiên tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của ngọn núi Hương Lô thì ba câu thơ còn lại của bài thơ đã tập trung làm bật nổi hình ảnh thác núi Lư.
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác nước sông này)
Động từ “quải” trong câu thơ thứ hai đã biến cảnh vật từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh, nếu như khi nhìn từ xa lại, đỉnh núi Hương Lô là làn khói tía mù mịt bay, chân núi là dòng sông đang tuôn chảy còn khoảng giữa chân núi và đỉnh núi chính là dòng thác đang treo lơ lửng. Thế nhưng, trong câu thơ tiếp theo, cảnh vật lại chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, điều đó thể hiện rõ nét qua việc tác giả sử dụng liên tiếp hai động từ trong cùng một câu thơ – “phi”, “lưu”. Đồng thời, với câu thơ này, mặc dù tác giả trực tiếp miêu tả thác nước nhưng hơn thế nữa, qua đó giúp người đọc có thể cảm nhận được thế núi cao với sườn núi dốc đứng, bởi lẽ chỉ khi có một đỉnh núi với độ cao và dốc như vậy thì thác nước mới có tốc độ tuôn chảy đến như thế.
Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
Cuối cùng, câu thơ khép lại bài thơ đã vẽ nên một cảnh tượng thiên nhiên mãnh liệt.
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.)
Câu thơ với việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh và phóng đại, nói quá, so sánh thác nước với dải Ngân Hà đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên mãnh liệt, hùng vĩ, để lại sức ám ảnh trong lòng người đọc.
Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư đã thể hiện thành công vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng, trữ tình của thác nước Lư Sơn. Bài thơ cũng thể hiện cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp ấy. Cảm xúc của tác giả được thể hiện qua những hình ảnh, ngôn ngữ giàu sức gợi, khiến người đọc không khỏi cảm thấy rung động.
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư mẫu số 6
Xa ngắm thác núi Lư là lí tưởng về thiên nhiên tươi đẹp
Cùng với Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Lí Bạch là một trong ba nhà thơ lớn nhất, vĩ đại nhất đời Đường. Thơ ông đa dạng về đề tài và cách thể hiện nhưng tựu chung đều mang vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, khoáng đạt, luôn hướng về lí tưởng cái đẹp, thiên nhiên, tình yêu cuộc sống. Xa ngắm thác núi Lư là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ được ông viết vào những năm cuối đời, sau khi người ông phò tá bị giết, ông bị đày rồi được thả, trên đường trở về ông lại được ngao du, thưởng ngoạn thiên nhiên. Tác phẩm viết khi tuổi ông đã cao, hơn nữa lại vừa bị đi đày về nhưng lời thơ vẫn đầy hùng khí đã cho thấy tinh thần hào sảng của ông.
Cả bài thơ cho thấy bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp kì vĩ, lãng mạn. Với điểm nhìn từ xa, trong câu thơ đầu tác giả đã bao quát được toàn bộ bức tranh thiên nhiên: “Nhật chiếu hương lô sinh tử yên”. Khung cảnh thật lung linh, rực rỡ: ánh nắng chiều vào làn nước sinh ra làn khói tía, tựa như những đám mây bồng bềnh trôi, khung cảnh trở nên mờ ảo, huyền bí. Cảnh không tĩnh mà động. Trong nguyên tác chữ “sinh” tạo cho người đọc cảm giác ánh mặt trời làm nảy sinh màu sắc, khung cảnh vì thế mà sinh động hơn.
Sau câu thơ miêu tả bao quát, ba câu thơ tiếp theo đi miêu tả chi tiết, cực tả vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước. Trong câu thơ thứ hai, thác nước như một tấm thảm khổng lồ. Thác nước là sự kết hợp của cái khổng lồ với cái mềm mại, chữ “quải” – treo khiến thác nước trở nên mượt mà, thác nước vừa thực mà lại vừa ảo. Thác nước đang động mà chuyển thành tĩnh. Sang câu thơ tiếp theo thác nước từ trạng thái tĩnh của tấm vải chuyển qua trạng thái động: “Phi lưu trực há tam thiên xích”. Sự hùng vĩ của thác nước được thể qua cả từ ngữ và hình ảnh. Chữ “phi” đã diễn tả được tốc độ nhanh, sức chảy mạnh của dòng nước: “thác nước chảy như bay”. Còn chữ “trực” lại cho thấy thế đứng thẳng của thác nước, thật hùng vĩ biết bao. Hình ảnh “ba nghìn thước” gợi không gian cao vòi vọi. Tất cả ngôn ngữ, hình ảnh đó đã khắc họa thành công sự hùng vĩ của thác núi Lư.
Câu thơ cuối tiếp tục gợi nên vẻ đẹp kì vĩ của nó bằng trường liên tưởng độc đáo: “Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên”. Câu thơ thứ ba và thứ tư thừa tiếp ý của nhau, bổ sung cho nhau: phải là từ chín tầng mây chảy xuống thì mới có tốc độ và cường độ nhanh, mạnh như vậy và ngược lại “thác chảy như bay” theo phương thẳng đứng thì phải là sông Ngân Hà từ “cửu thiên” rơi xuống. Bằng lớp ngôn từ cực tả, tâm hồn phóng khoáng, trí tưởng tượng phong phú, Lí Bạch đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên, thác nước núi Lư vô cùng đẹp đẽ, kì vĩ.
Bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ còn cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, say đắm trước vẻ đẹp của thác nước núi Lư. Chữ “vọng” trong nhan đề bài thơ không chỉ là nhìn từ xa mà còn là sự chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, bị hút hồn trước vẻ đẹp của thác nước. Qua bức tranh này ta còn thấy được tâm hồn rộng lớn, khoáng đạt mà cũng đầy mơ mộng của nhà thơ.
Bài thơ sử dụng hình ảnh thơ tráng lệ, hùng vĩ. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn làm hình ảnh thác núi Lư hiện lên chân thực mà lung linh, huyền ảo, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh làm cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh động, hấp dẫn.
Bằng lớp ngôn ngữ trau chuốt, giàu sức biểu cảm bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của thiên niên. Đồng thời bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn: yêu thiên nhiên, phóng khoáng, lãng mạn của nhà thơ Lí Bạch. Qua đó còn kín đáo bộc lòng yêu quê hương đất nước của tác giả.
↪ Xem thêm: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Xa ngắm thác núi Lư
Phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư mẫu số 7
Xa ngắm thác núi Lư ca ngợi sự kì vĩ của thiên nhiên
Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng đời Đường với phong cách thơ phóng khoáng, thể hiện một tâm hồn yêu tự do, yêu thiên nhiên. Những hình ảnh trong thơ ông luôn khiến người đọc cảm nhận được sự trong lành và kì vĩ. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” là một bài thơ đẹp như vậy, nói lên tình yêu thiên nhiên của Lý Bạch đồng thời ca ngợi sự kì vĩ của thiên nhiên.
Bài thơ đã thể hiện được sự cảm nhận tinh tế và đầy táo bạo về hình ảnh thác núi Lư.
Về phiên âm:
Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trục há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Về phần dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dài Ngân hà tuột khỏi mây.
Phần nhan đề của bài thơ đã nói lên không gian, tầm ngắm của tác giả bằng từ ‘xa” và “ngắm”. Tác giả đứng từ xa và ngắm nhìn vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao của dòng thác núi Lư kì vĩ, mênh mông. Chính nhan đề bài thơ đã nói lên sự tinh tế và đầy tài hoa của Lý Bạch.
Đứng ở phía xa không thể nhìn một cách tỉ mỉ từng cảnh, từng vật nhưng lại có cái nhìn bao quát và tổng thể nhất. Ông đã lấy lợi thế có điểm nhìn này để vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tuyệt vời nhất.
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Một câu thơ cất lên đầy chất thơ, đầy chất thi vị, ánh nắng như đan cài, hòa vào dòng thác kì vĩ , lớn lao như vậy. Dưới ngòi bút của Lý Bạch, thiên nhiên hiện lên sống động và thật lớn lao. Ông đã miêu tả vẻ đẹp của dòng thác trước ánh nắng mặt trời, sự phản quang của nắng đã khiến cho dòng nước chuyển thành màu tía lung linh huyền ảo. Đây thực sự là điểm mới trong cách đánh giá thiên nhiên của Lý Bạch.
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
Nhưng hình thơ thơ táo bạo và đầy sức hút, giống như một bức tranh đẹp đứng chênh vênh một một vách núi hiểm trở. Hình ảnh thác nước hiện lên kì vĩ và vô cùng lớn lao. Ở câu thơ thứ hai, phần dịch thơ đã đánh mất chữ “quải”: so với phần dịch thơ nên sự gợi hình, gợi tượng của câu thơ không còn cuốn hút nữa. Như thế mới có thể thấy được trí tưởng tưởng của nhà thơ thật tuyệt vời mà tinh tế.
Người đọc có thể hình dung được trong bức tranh này có núi cao hiểm trở, có sườn dốc chênh vênh, và có cảnh thác nước “bay thẳng xuống”. Một hình ảnh thơ quá đẹp, quá tuyệt vời khi Lí bạch cảm chừng như “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”. Với động từ mạnh “bay thẳng” đã khẳng định được vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao, hùng vĩ và có phần hiểm trở của thiên nhiên nơi đây.
Tác giả đã lấy một con số cụ thể để ước lệ tượng trưng cho chiều dài của dòng thác. Con số ấy còn gợi lên một vẻ đẹp kì vĩ, hiểm trở, tạo cảm giác ớn lạnh cho người đọc. Và chính người đọc như cảm nhận được dòng thác như đang đổ xuống ngay trước mặt mình. Câu thơ cuối có thể nói là câu thơ đầy ấn tượng đối với người đọc. Sự tinh tế và sự liên tưởng độc đáo của nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh cực kì “độc” và “lạ”. Không phải nhà thơ nào cũng có vốn từ phong phú như vậy để tạo nên hình ảnh thơ mới mẻ như thế.
Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây
Câu thơ lấp lánh một vẻ đẹp huyền ảo, hư hư thực thực cứ đan cài, quyện chặt lấy nhau tạo nên một bức tranh đậm chất thơ. Tác giả ví thác nước như dải Ngân Hà. Một so dánh kì lạ và đầy mới mẻ. Từ ‘tuột” được Lý Bạch sử dụng rất đắc điệu và làm tốt vai trò của mình trong việc chuyển thể nội dung của bài thơ. Câu thơ cuối được coi là điểm nhấn, mà “mắt nhãn” của cả bài thơ vì đã nói lên được cái hồn, cái thần thái của cả bài thơ. Hình ảnh này khiến người đọc thán phục trước tài năng thơ, tài năng ngôn ngữ và tài năng liên tưởng của Lí Bạch.
Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” thực sự là một bài thơ có hình ảnh đẹp, kì vĩ và lớn lao. Thiên nhiên trong thơ Lý Bạch luôn phóng khoáng và kì vĩ như chính con người của ông.
-/-
Trên đây là một số gợi ý làm bài cũng như TOP 7+ bài văn phân tích bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lý Bạch do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp, mong rằng với nội dung tham khảo này các em sẽ có cho mình một bài văn mẫu 7 thật hay nhé!