Giáo dụcLớp 12

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lớp 12 hay nhất (25 Mẫu)

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bao gồm 2 dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng 25 bài văn mẫu hay nhất được THPT Ngô Thì Nhậm chọn lọc từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc sẽ giúp các em trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết và có thêm nhiều ý tưởng mới để từ đó diễn đạt lại theo lối hành văn của chính mình.

Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng 

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lớp 12 hay nhất
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lớp 12 hay nhất

2 Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến lớp 12 chi tiết

Dàn ý phân tích Tây Tiến – Mẫu 1

I. Mở bài

– Giới thiệu chung về nhà thơ Quang Dũng

– Giới thiệu bài thơ Tây Tiến

II. Thân bài

1. Một số nét khái quát

– Tây Tiến: là tên một đoàn quân được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ kết hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, làm hao mòn lực lực giặc Pháp.

– Xuất thân lính Tây Tiến: phần đông là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.

– Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

2. Đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên Tây Bắc

– Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.

– Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:

  • + Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
  • Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên … dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
  • Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
  • Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
  • Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
  • Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.

– Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông …”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em …”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.

– Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.

– Nhận xét: Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng đầy rẫy những hiểm nguy, đó chính là những thử thách đối với những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân.

3. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân, vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc

– Kỉ niệm đêm liên hoan thắm tình quân dân:

  • Không khí đêm liên hoan tưng bừng với mà sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
  • Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

– Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:

  • Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
  • Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

– Nhận xét: nhờ bút pháp lãng mạn, quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt đầm ấm và hình ảnh con người duyên dáng của vùng Tây Bắc.

4. Hình tượng người lính Tây Tiến

– Chân dung người lính được miêu tả chân thực: “đoàn binh không mọc tóc”, ” xanh màu lá”, họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.

– Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.

– Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:

  • Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
  • Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.

– Nhận xét: Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những nét lãng mạn, hào hoa. Họ mang vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.

5. Lời hẹn ước, gửi gắm tình cảm của tác giả

– Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến: “người đi không hẹn ước”, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”.

– Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây Tiến: và vùng rừng núi Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến … / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

III. Kết bài

– Giá trị nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh thơ

– Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính kiên cường, dũng cảm không ngại hi sinh nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến hay nhất, đạt điểm cao
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến hay nhất, đạt điểm cao

Dàn ý phân tích Tây Tiến – Mẫu 2

I. Mở bài

– Nêu vài nét về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến.

II. Thân bài

a) Các khái niệm chung

– Cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng sáng tác dựa trên cái Tôi chủ quan của tác giả, vượt lên trên thực tế, thoát li hiện thực và đề cao cái Tôi.

– Cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945 – 1975:

  • Ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
  • Tin tưởng vào tương lai tươi sáng, chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

– Tinh thần bi tráng: Không né tránh thực tại, tuy buồn thương, gian khổ nhưng không bi lụy, ngược lại vô cùng hào hùng, mạnh mẽ.

b) Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến

* Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến

– Nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với đoàn quân Tây Tiến.

– Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy tươi đẹp, hùng vĩ, nét đẹp trong cuộc sống sinh hoạt của người dân miền núi được nhìn qua con mắt lãng mạn của người nghệ sĩ, người lính Tây Tiến.

  • Cảnh núi non hùng vĩ, nên thơ nhưng cũng không kém phần hiểm nguy, dữ dội: “Sông Mã xa rồi… chơi vơi”, “Dốc lên… ngàn thước xuống”; “đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”,….
  • Cảnh sinh hoạt của nhân dân miền núi: “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhớ ôi… thơm nếp xôi”, “Doanh trại bừng lên… xây hồn thơ”, “Người đi Châu Mộc… hoa đong đưa”,…

=> Trong cái khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn hướng đến những điều tốt đẹp.

* Tinh thần bi tráng trong Tây Tiến

– Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề nhắc đến súng đạn, khung cảnh chiến trường nhưng ta cũng có thể cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…”, “rải rác biên cương mồ viễn xứ”… nhưng vượt lên trên tất cả, họ vẫn “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

=> Hình tượng người chiến sĩ bất khuất, oai phong, lẫm liệt.

– Nhà thơ diễn tả sự hi sinh của những người đồng đội nhưng chúng không hề bi lụy mà lại mang tinh thần bi tráng: “Áo bào thay chiếu… khúc độc hành”.

c) Giá trị của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng

– Hai cảm hứng này hòa quyện, gắn kết với nhau làm nên linh hồn của nhà thơ, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến.

– Chúng góp phần đắc lực vào việc chuyển tải nội dung, tư tưởng của Quang Dũng…

III. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến.

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Tây Tiến

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Tây Tiến
Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Tây Tiến

26 Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến hay nhất, đạt điểm cao

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 1

Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành. Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường.

Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Sơn Tây của mình. Những sáng tác chính của ông gồm có: Mây đầu ô (1986), Thơ văn Quang Dũng (1988). Năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh ông đã viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến sau đổi tên thành Tây Tiến và được in trong tập thơ Mây đầu ô.

Mở đầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ mà mĩ lệ cùng với cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Những người lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc quan của tuổi trẻ :

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! …….

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về những kỷ niệm xưa, tại đơn vị cũ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ cất lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết đầy tiếc nuối và chứa đựng đầy những hoài niệm trong quá khứ huy hoàng. Nhà thơ nhớ Tây Tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi” thật da diết, mênh mông và sâu nặng. Nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả không gian và trái tim người lính.

Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống động với những địa danh “sông Mã”, “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, ” Mai Châu” đây là những địa danh gắn bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính Tây Tiến. Một vùng đất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến đấu của người lính cụ Hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” địa hình núi cao cùng với những lớp sương dày đặc phủ kín lối đi, đoàn quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với cái lạnh cắt da của Tây Bắc. Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể bỏ mạng ngay tức khắc. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt. Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai linh thác gầm thét”, đêm đêm “cọp trêu người”.

Quả là một nơi “rừng thiêng nước độc” thế nhưng những khó khăn ấy cũng chẳng thể nào cản bước chân người lính, họ vẫn đi với sự anh dũng kiên cường và trong đôi mắt người lính thì miền Tây Bắc lại là một vùng đất thơ mộng trữ tình và chứa chan tình người. Những hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, “mưa xa khơi” thật huyền ảo tạo xúc cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. Người dân miền Tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người lính Tây Tiến.

Quang Dũng miêu tả thiên nhiên núi rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế chính là để làm nổi bật lên hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian khổ, hy sinh của họ. Đoàn quân đã đi ròng rã nhiều ngày liền họ thật sự đã kiệt sức, lúc này đây “đoàn quân mỏi” cần được nghỉ ngơi để lấy lại sức lực, tinh thần bước tiếp. Hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói giảm, nói tránh của Quang Dũng, có những người lính đã hy sinh nơi chiến trường chẳng thể nào bước tiếp cùng với đồng đội. Tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi đau quá sâu sắc, làm giảm di ý chí chiến đấu của đoàn quân. Những người lính thật đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho Tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn và rất yêu đời “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài hoa.

Những khổ thơ tiếp theo tác giả gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp, sâu nặng của tình quân và dân trong những đêm liên hoan tưng bừng náo nhiệt:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ……… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng lớp 12 hay nhất (25 Mẫu)

Binh đoàn Tây Tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Sau những ngày chiến đấu vất vả, gian lao “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhảy điệu nhạc “e ấp” của dân tộc thiểu số vùng cao. Vẻ đẹp của con người nơi đây thật lung linh, bí ẩn có chút hoang dại làm say đắm tâm hồn biết bao người lính trẻ hào hoa, lãng tử nơi Hà thành. Cùng với đó là cảnh sông nước Tây Bắc một chiều sương thật lãng mạn nhưng phảng phất nét buồn, như nỗi khắc khoải lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh của dân tộc, trước tình hình chiến sự đang đến hồi cam go quyết liệt.

Đoàn binh tiếp tục cuộc hành quân chiến đấu, những người lính được tác giả khắc họa như những tượng dài hiên ngang bất diệt, chân dung họ hiện lên với vẻ đẹp vừa bi tráng lại rất tài hoa, lãng mạn :

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ………… Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chất bi tráng lẫm liệt được thể hiện với khí thế ngút trời “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” đây là một hình ảnh dữ dội và hết sức mạnh mẽ của người lính, dù ở trong rừng sâu đối diện với căn bệnh sốt rét hoành hành, da có xanh nhợt đi vì bệnh tật thì chưa bao giờ họ thôi quyết tâm, kiên cường chiến đấu. Người lính khoác trên mình bộ quân phục màu xanh lá mang theo bao ước mơ, hy vọng vào một tương lai tươi sáng, một đất nước không còn bóng quân thù. “Mắt trừng”, “dữ oai hùm” thể hiện khí thế ngang tàn, mạnh mẽ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Thế nhưng đau xót thay, người lính Tây Tiến cũng có khi bỏ mạng nơi chiến trường “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, những nấm mồ vô danh nơi biên giới họ nằm xuống khi tuổi đời còn quá trẻ, bỏ lại cả tương lai, bỏ lại cả mẹ già đang trông ngóng nơi quê hương yêu dấu. Người lính thật đáng trân trọng, họ hy sinh cho Tổ quốc mà chẳng một phút nao núng sợ hãi “chẳng tiếc đời xanh”. Sự ra đi của họ khiến cho trời đất phải tiếc thương đưa tiễn, dòng sông Mã lại xuất hiện cuối bài như tấm lòng trân trọng của nhà thơ muốn gửi gắm tiễn đưa người lính ở những phút giây cuối đời, những người lính vô danh ấy đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường khốc liệt.

Chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. Họ đều là những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. Những chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu đương “gửi mộng qua biên giới”, họ mơ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, dịu dàng như nàng Kiều. Tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ.

Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn binh, đó cũng là lời thề trung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc :

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt huyết “người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có “thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với đất nước một lời thề sắc son “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô cùng to lớn: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc.

Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Hình tượng thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến lạc quan, yêu đời.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 2

Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…. Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,

Nào có sá chi đâu ngày trở về.

Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:

Giã nhà đeo bức chiến bào

hay

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi!” diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao:

Ra về nhớ bạn chơi vơi

hoặc:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đọan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên.

Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước, trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt.

Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này – một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:

Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.

Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.

Lao xao sóng vỗ ngọn tùng

Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ….

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến.

Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ.

Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.

Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.

Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì Tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.

Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 3

Chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ thời chiến. Chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng có lẽ ấn tượng, trữ tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Với cách khắc họa hình tượng người lính thành công, người đọc đã không thể quên được hình ảnh những người lính cụ hồ thời kì kháng chiến chống pháp.

Bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến tranh ác liệt nơi chiến trường xưa. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Phù Lao Chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. Quang Dũng cùng rất nhiều thanh niên khác ở Hà Thành đã xếp bút nghiên lên đường ra chiến trường theo tiếng gọi của tổ quốc. Câu thơ cất lên như một tiếng gọi tha thiết về quá khứ từng trải qua. Sông Mã là con sông lớn, in dấu nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa vắng của tác giả. Nỗi nhớ trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”. Một từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt.

Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức về vùng đất chiến tranh ác liệt này:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Với những địa danh quen thuộc như “Sài Khao” và “Mường Lát” gợi nhớ về những năm tháng chiến tranh đó. Hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất thi vị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm nhận được sự thi vị và lắng sâu. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như len lỏi vào sâu trong tim. Một khung cảnh lãng mạn, trữ tình giữa chiến tranh ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm thẳm.

Giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và đất trời được phác họa qua nét bút của tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống gian khổ, cuộc chiến khó khăn của đoàn quân. Từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đã phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng. Có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy mới có thể giành được chiến thắng.

Có một hình ảnh rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên “súng ngửi trời”. Thật thi vị và trữ tình. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh mang tính chất nghệ thuật cao, gợi nên khung cảnh thật nên thơ. Nó hoàn toàn đối lập với cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở ngoài kia.

Chiến địa ác liệt, thiên nhiên hùng vĩ và nguy hiểm là những thử thách mà đoàn quân Tây Tiến cần vượt qua để chiến thắng được kẻ thù. Dù trong mưa bom bão đạn nhưng đoàn quân vẫn luôn lạc quan.

Câu thơ cuối cùng dường như lắng lại, bình dị, êm đềm:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Một câu thơ toàn vần bằng gợi lên những lúc nỗi lòng của đoàn quân không vướng bận bất cứ điều gì. Câu thơ diễn tả trận mưa rơi nhẹ tênh, phủ trắng xóa giữa núi rừng. Màn mưa ấy che kín lối đi, phủ kín những con đường mà đoàn quân đi qua.

Sự tàn khốc ác liệt của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục bên súng mũ bỏ quên đời

Thiên nhiên giữa núi rừng qua nét bút của Quang Dũng đã phần nào gợi lên sự khắc nghiệt, khó khăn, gian khổ, đầy những hiểm ngụy. Và có rất nhiều chiến sỹ, nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, tuổi trẻ dở dang ước mơ dở dang. Sự trầm lắng của câu thơ tạo cho cả bài thơ sự thành kính và thiêng liêng đối với những người đã khuất.

Nối tiếp dòng cảm xúc đó là nỗi nhớ về những năm tháng êm đềm, với những con người bình dị, nghĩa tình nơi đấy. Những kỉ niệm khó lòng quên được:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…

Hình ảnh những mái nhà tranh khi chiều muộn về có những làn khói trắng lan tỏa ra tạo thành từng lớp trắng lảng bảng ở trên núi. Nhớ mùa nếp xôi ấm lòng, gần gũi biết bao nhiêu. Những thước phim đó cứ cuồn cuộn, chảy mãi trong lòng người lính Tây Tiến.

Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên ngày càng rõ nét và chân thực:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm.

Một nét vẽ thật táo bạo, chân thực về lính Tây Tiến. Sự gian khổ, sự khắc nghiệt của thời tiết đã khiến cho những thanh niên Hà Thành trai tráng trở nên mạnh mẽ, chai lì. Mặc dù “không mọc tóc” nhưng nét dữ dằn cũng khiến cho quân giặc phát sợ. Họ vẫn hiên ngang, mạnh mẽ chống chọi lại với quân thù và thời tiết khắc nghiệt/. Dù cuộc chiến có đầy bão giông thì vẫn không khiến cho những người lính thôi mơ mộng, Họ từng là những thanh niên Hà Thành xếp bút nghiên lên đường đi đánh trận, ở nơi xa vẫn có những bóng dáng để họ nhớ, họ mong, làm động lực để họ bước tiếp. Đây là điều đáng trân trọng đối với những người lính.

Quang Dũng nhận ra sự khắc nghiệt của chiến tranh, những mất mát phải đánh đổi, những hi sinh phải đối mặt:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Có lẽ đây là đoạn thơ hào hùng, mang âm hưởng bi tránh nhất bài thơ. Những người chiến sỹ đã anh dũng nằm lại với đồng đội, với đất mẹ. Tuổi xuân của họ còn đó nhưng vì đất nước mà hi sinh thì “chẳng tiếc”. Những con người vô danh nhưng họ luôn sống mãi trong lòng người ở lại.

Họ ra đi nhưng lời hẹn ước hòa bình ngày xưa sẽ để những người còn ở lại tiếp bước mà chiến đấu và cống hiến hết mình.

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng thực sự gieo vào lòng người nhiều cảm xúc. Là sự ngưỡng mộ, khâm phục cũng như xót xa cho những gì đã xảy ra trong chiến tranh.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 4

Quang Dũng là một người nghệ sĩ tài hoa, ông không chỉ làm thơ, viết văn mà còn vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng người ta nhớ nhất về ông vẫn là trên vai trò của một nhà thơ. Thơ ông hồn hậu, phóng khoáng, mang cái lãng mạn, tài hoa. Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất nét vẽ tài hoa trong sáng tác cũng như trong chính tâm hồn ông.

Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ đồng thời cũng là cảm xúc chủ đạo của tác phẩm:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Đối tượng của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Không chỉ nhớ sông Mã mà còn nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, những người đã gắn bó suốt quãng đời gian khổ mà vô cùng hào hùng.Và nỗi nhớ ấy còn bao trùm cả rừng núi – địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Tất cả nỗi nhớ ấy được cô đúc trong nỗi nhớ vô cùng đặc biệt: “Nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

Sau việc khơi nguồn mạch cảm xúc là sự tái hiện lại núi rừng Tây Bắc, người bạn một thuở đã cận kề gắn bó với tác giả. Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… để đưa người đọc bước vào những địa danh heo hút, hoang sơ. Thiên nhiên ấy vô cùng khắc nghiệt, với sương khói mịt mù:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Trên đỉnh Sài Khao, sương dày vùi lấp cả đường đi, vùi lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi rã rời. Con người trở nên hết sức bé nhỏ giữa biển sương dày đặc mênh mông ấy… Ấn tượng tiếp theo được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu, là đèo dốc điệp trùng:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.

Câu thơ chủ yếu dùng thanh trắc tạo nên những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, vẽ nên cái hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên. Nhịp thơ ngắt 4/3 như bẻ đôi câu thơ để tạo độ cao dựng đứng và quanh co của triền dốc núi. Đồng thời ông sử dụng linh hoạt các từ láy giàu sức tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Không chỉ vậy, thiên nhiên ấy còn đầy hoang sơ, bí ẩn:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Chiều chiều, tiếng thác nước gầm thét thị oai sức mạnh hoang sơ bản năng của núi rừng. Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy cao cực độ trong âm thanh gầm thét mạnh mẽ kia. Đêm đến tiếng cọp thấp thoáng đâu đây đe doạ tính mạng con người… Giữa không gian rừng núi hiểm trở, đầy nguy hiểm, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với đầy khó khăn, gian khổ, hi sinh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Họ không chỉ mệt mỏi vì đường xa, mà còn vì đói khát, bệnh tật… nhưng họ vẫn cố gắng tiến bước cho đến lúc buộc phải nằm lại trên dọc đường hành quân. Cách nói giảm nói tránh “không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời” khiến màu sắc tang thương, u buồn vợi bớt. Chính vì thế, câu thơ nói về cái chết nhưng không có màu sắc bi lụy.

Trên con đường hành quân, với nhiều gian lao, vất vả, trước khung cảnh:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

đã khiến người lính quên đi biết bao khó khăn, vất vả và cả sự hi sinh. Trong những ngày dài hành quân, phải xa gia đình, quê hương, xa bạn bè lại chịu biết bao cực khổ, chỉ cần một mái nhà tranh gặp ven đường cũng làm lòng ta ấm lại. Nhà ai, mà ngỡ như chính nhà mình, và ẩn hiện trong đó là làn sương mờ ảo đầy nên thơ, trữ tình. Và hai câu thơ kết đã tái hiện lại một cảnh tượng thật êm ấm:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi ở một bản làng, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Nếu như câu thơ trên dung ba thanh trắc gợi lên những làn khói mỏng manh bay qua từng kẽ lá, thì câu thơ cuối lại sử dụng toàn thành bằng gợi nên sự êm dịu, ấm áp. Đây chính là những kí ức đẹp đẽ nhất, còn mãi lằn sâu trong tiềm thức người lính Tây Tiến.

Ở khổ thơ tiếp theo không khí rộn ràng trong một đêm liên hoan văn nghệ diễn ra vừa vui tươi, vừa ấm áp. Trong đêm liên hoan ấy, đối với nhà thơ, nổi bật nhất chính là hình ảnh:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ.

Chữ “bừng” được xem là nhãn tự của câu thơ, gợi ra ánh sáng của những ngọn đuốc rừng rực như những bông hoa lửa. Ánh sáng càng rực rỡ và bừng sáng hơn khi có sự kết hợp với sự lộng lẫy của những người con gái đẹp vùng sơn cước. Người con gái vốn hàng ngày lam lũ, tần tảo nay hiện lên như những nàng thơ, vô cùng tuyệt mĩ. Hai chữ “kìa em” đã diễn tả đầy đủ tiếng reo vui, kèm với đó là sự ngỡ ngàng của những người lính. Trong tiếng khèn man điệu, người con gái e ấp, tình tứ trong điệu múa khiến biết bao người đắm say. Những người con gái ấy chính là linh hồn của đêm văn nghệ.

Nếu bốn câu thơ trên rực rỡ, lung linh bao nhiêu thì bốn câu cuối trong khổ lại man mác, đượm buồn bấy nhiêu. Khung cảnh thiên nhiên trong buổi chiều chia tay sương giăng mắc bốn phía:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Không gian mờ ảo, vưa hư mà vừa thực. Sông nước, bến bờ lặng lẽ, hoang dại, chỉ có màu lau trắng trải dài tít tắp, phất phơ theo chiều gió thổi. Thiên nhiên như có linh hồn, “hồn lau” hài hòa với “hồn thơ” của những người lính đa cảm. Cũng có thể hiểu “hồn lau” là một ẩn dụ đặc sắc gợi về vẻ đẹp giản dị, gần gũi, hồn hậu của những con người, những người lao động trên sông nước mênh mông. Trên nền thiên nhiên tĩnh lặng và thơ mộng đó nổi bật hình ảnh con người:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

“Dáng người” là một hình ảnh đa nghĩa, có thể hiểu là dáng người con gái, là dáng người chiến sĩ hay dáng của những người dân nơi đây. Nhưng nếu kết hợp với câu thơ dưới thì hình ảnh dáng người ấy phải là người con gái, “hoa đong đưa” cũng như ánh mắt lung liếng, tình tứ của người con gái. Khiến những người lính chân tuy rời mà lòng vẫn thổn thức nhớ thương.

Nếu trong những câu thơ trên hình ảnh những người lính Tây Tiến mới chỉ thấp thoáng xuất hiện thì ở khổ thơ cuối cùng, hình ảnh của họ đã hiện lên vô cùng chân thực, rõ nét. Họ trước hết hiện lên với ngoài hình kì lạ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Đây đều là hậu quả của những trận sốt rét rừng khủng khiếp mà người nào cũng phải trải qua. Trong hồi ức của những người lính Tây Tiến trở về, đoàn quân tử vong vì sốt rét rừng nhiều hơn là vì đánh trận bởi rừng thiêng nước độc mà thuốc men không có. Tác giả không hề che giấu hiện thực, không nhìn nó bằng con mắt màu hồng, mà miêu tả chân thật, chi tiết. Cách nói chủ động: “không mọc tóc” chứ không phải tóc không thể mọc vì sốt rét tạo nên nét dữ dội, ngang tàng, cứng cỏi của người lính Tây Tiến; cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua ngòi bút Quang Dũng lại toát lên vẻ oai phong, hùng dũng.

Tuy nhiên cái nhìn của Quang Dũng không chỉ có hiện thực, mà còn hết sức lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Trái tim những người lính trải qua bao lửa đạn không hề chai sạn, mà vẫn nồng nàn, rạo rực, khát khao yêu đương “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Dáng kiều ấy chẳng phải gì khác chính là hình ảnh của những cô thiếu nữ Hà Thành. Những giấc mơ mang hình dáng kiều thơm đã trở thành động lực để giúp người lính vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; đã thúc giục họ tiến lên phía trước; và cũng là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt qua bom đạn trở về.

Trong quá trình chiến đấu không tránh khỏi những hi sinh, nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là lí tưởng, khát vọng sống cao đẹp:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Dù phải chiến đấu gian khổ, dù biết cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào nhưng họ không hề sờn lòng nản chí, mà quyết tâm càng được nung nấu mạnh mẽ hơn. Đoạn thơ khép lại bằng sự hi sinh đầy anh dũng của họ:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Trong bài thơ, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực khắc nghiệt, dữ dội. Trong chặng đường hành quân, nhiều người lính không thể vượt qua đã gục lên súng mũ bỏ quên đời. Dọc đường Tây Tiến cũng là vô vàn những nấm mồ liệt sĩ mọc lên “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”… Và bây giờ, một lần nữa tác giả nhắc đến sự ra đi của họ Áo bào thay chiếu anh về đất. Người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu để che thân. Thế nhưng tác giả đã cố gắng làm giảm đi tính chất bi thương của những mất mát: Áo bào (áo mặc ngoài của các vị tướng thời xưa) đã khiến họ trở thành những chiến tướng sang trọng; Về đất là cách nói giảm nói tránh thanh thản và vô tư sau khi đã làm tròn nhiệm vụ. Và sông Mã gầm lên tráng khúc vừa dữ dội, vừa hào hùng để tiễn đưa người lính trở về với đất mẹ.

Bốn câu thơ cuối như một lời thề son sắt của người lính Tây Tiến, họ ra đi không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Hai câu thơ cuối là lời khẳng định chắc chắn dù có rời xa nhưng tâm hồn tình cảm của những người lính Tây Tiên vẫn gắn bó máu thịt với những ngày tháng, những địa điểm mà đoàn quân Tây Tiên đã đi qua.

Tây Tiến – bài thơ đã dựng lên một cách đây đủ và chân thực nhất vẻ đẹp của ngươi lính. Họ vừa mang trong mình cái bay bổng, lãng mạn nhưng đồng thời cũng hết sức kiên cường, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh cho độc lập chung của tổ quốc. Để tạo nên sự thành công của tác phẩm cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về nghệ thuật như hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,… Tất cả hòa phối một cách nhịp nhàng đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 5

Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông) anh viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.

Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.

Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.

Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.

Bài thơ gồm bốn đoạn thơ. Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sổng động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thới gian:

Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,… liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm . Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây.

Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.

Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan câu Lí Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thưởng thành thiên!).

Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,… Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miễn tây Tổ quốc.

Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.

Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.

Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.

Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.

Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.

Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xành màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.

Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.

Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã.

Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những còn hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”).

Họ có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:

Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thắm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 6

Quang Dũng là một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng!

Tây Tiến là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.

Tây Tiến nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:

“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.

Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ “nhớ” như hai điểm nhấn gợi tả nỗi nhớ “chơi vơi” cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Những Sài Khao, Mường Lát những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong “sương lấp”, trong “đêm hơi” mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” chưa từng in dấu chân người! Những “cồn mây heo hút”. Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). “Súng ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao ” ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nha ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa.

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”.

Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ “dãi dầu”, trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã “không bước nữa”,. vĩnh biệt đoàn binh, “bỏ quên đời”, bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ “gục lên súng mũ” thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ “chết”, từ “hi sinh” bằng cụm từ “không bước nữa”, “gục lên”…, “bỏ quên đời!”, nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt “gục lên súng mũ…” như vậy!

Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng “gầm thét” của thác. Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật “oai linh”, được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì “gầm thét”, cọp thì “trêu người” như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được “cơm lên khói”, hương vị đậm đà của “mùa em thơm nếp xôi”. Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của “mùa em”. Hai tiếng “nhớ ôi” gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Phần thứ hai bài Tây Tiến gồm có 8 câu nói về “hội đuốc hoa” và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm “hội đuốc hoa”. Chữ “kìa” là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn “man điệu” của núi rừng,có khúc nhạc du dương “xây hồn thơ”. Có dáng điệu duyên dáng “e ấp” của “nàng”, của những “bông hoa rừng” đang múa, đang múa lăm- vông:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ,

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn “man điệu”, qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.

Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến “hồn lau nẻo bến bờ”. Nhớ nhiều, nhớ mãi “dáng người trên độc mộc”, nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.

Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài Tây Tiến đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:

“Người đi Châu mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, bỗng bất ngờ xuất hiện:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: “dữ oai hùm”. Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão), “Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói” (Trương Hán Siêu), “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” (Nguyễn Trãi). Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ như vậy!

Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” ra đi đánh giặc với bao “mộng” và “mơ” tuyệt đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. “Mắt trừng” gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một “dáng kiều thơm”, nơi Hà Nội thân yêu. Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài “Đồng Chí” của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, về giếng nước gốc đa.. Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:

… “Ba năm rồi gửi lại quê hương,

Mái lều gianh,

Tiếng mõ đêm trường,

Luống cày đất đỏ,

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya”…

Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản thì mới thật buồn thay. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung “anh bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến chống Pháp. Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: “Tổ quốc hay là chết” đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với “áo bào thay chiếu” rất bình dị, chẳng có “da ngựa bọc thây” như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản “về đất”, vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ – Tổ quốc thân yêu. Các anh đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai chữ “về đất” rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài “Chiêu hồn liệt sĩ”, như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

“Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội đã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với “tình sông núi”, với quyết tâm “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả “đời xanh” hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự hào!

Sau này trong bài thơ “Sông Lào” cũng nói về những “nấm mồ viễn xứ” của những người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:

“Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ

Gặp nghìn nấm mộ

Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!

Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng

Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ

Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.

Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Sê – kông

Nén hương thơm lẫn với hương rừng

Những cô gái Lào đến thăm phần mộ

Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…”

Đúng là “Có cái chết hóa thành bất tử” (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh!

Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta. Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “Đèo Cả” của Hữu Loan, là “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 7

Tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn gắn bó luôn là một đề tài muôn thuở cho các nhà thơ tìm về miền đất nhiều kí ức. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những sự hi sinh, gian lao vất vả mà người chiến sĩ đã trải qua để mang lại cuộc sống yên bình cho bao người, họ còn bộc lộ những nét đáng yêu, tinh nghịch đậm chất lính. Quang Dũng cũng đã hòa mình vào với “chất lính cụ Hồ” để xây dựng nên bức tượng đài người lính vừa đẹp, vừa hùng tráng mà đầy khí phách:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Bài thơ Tây Tiến như một kí ức đẹp mỗi khi ta nhớ tới Quang Dũng. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa được lâu, tại Phù Lưu Chanh, với nỗi lòng nhớ Tây tiến da diết, ông viết bài “Nhớ Tây Tiến”, sau ông đổi tên thành Tây Tiến. Bài thơ được tin trong tập “Mây đầu ô”. Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thốt lên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Hòa mình vào nỗi nhớ dai dẳng không hồi kết, địa danh Tây Tiến gắn liền với con sông Mã hào hùng nó không chỉ là một người bạn thân thiết với mỗi người lính mà nó còn là một chứng nhân lịch sử. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại ở câu thơ thứ hai nhấn mạnh nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, khi kết hợp với từ láy “chơi vơi” càng tạo điểm nhấn kéo dài nỗi nhớ ấy, nó như thấm nhuần vào từng ngõ ngách tâm trí của nhà thơ. Nỗi nhớ ấy tiếp tục bao trùm lên những câu thơ tiếp theo của Quang Dũng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Trong những khổ thơ này, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến các địa danh đã đi cùng năm tháng với người lính: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua, dừng chân nghỉ ngơi. Nhà thơ đã sử dụng một loạt từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” để miêu tả địa hình khó khăn mà người lính phải hành quân qua. Bên cạnh đó, hình ảnh “súng ngửi trời” như là một chi tiết đắt giá sáng rõ nhất cho cả khổ thơ trên. Súng biểu tượng cho chiến tranh, lại đang “ngửi trời”, khát vọng hòa bình, tự do của loài người. Đây cũng là một nét tinh nghịch của người lính trong thơ Quang Dũng. Đứng trên đỉnh dốc cao, hun hút, họ nhìn xuống “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” thấy thiên nhiên thật hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đậm chất trữ tình “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Chỉ với 8 câu thơ đầu, Quang Dũng đã lột tả được nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Tiến, về người lính Tây Tiến vừa đẹp đẽ lại chân thực. Nhà thơ tiếp tục lia ngòi bút sắc bén của mình để phác họa hình ảnh người lính có những lúc mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân có những lúc tưởng chừng như phải khuất phục trước thiên nhiên hay hi sinh “gục lên mũi súng bỏ quên đời”. Có người cho rằng ý của nhà thơ ở chỗ này thể hiện các anh chiến sĩ do mỏi mệt quá nên gục xuống nghỉ ngơi nhưng cũng có người cho rằng họ hi sinh, họ chìm vào một giấc ngủ ngàn thu tươi đẹp. Nhưng dù nhìn vào khía cạnh nào ta cũng thấy sự khốc liệt của thiên nhiên, của chiến tranh đã đưa đẩy những người chiến sĩ vào vòng xoáy của sự đấu tranh sống còn vì tương lai của đất nước. Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” càng lột tả được sự hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, nơi luôn đầy rẫy những khó khăn, thử thách đang rình rập người lính. Để rồi đoàn quân Tây Tiến vẫn vượt qua:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu Mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ rất đỗi giản dị miêu tả cuộc sống thi vị hàng ngày với hình ảnh “cơm lên khói”,” nếp xôi”. Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về đoàn quân hào hùng ấy với nét lãng mạn, hào hoa pha chút tinh nghịch:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Câu thơ có cả hình ảnh, âm nhạc “khèn”, ánh sáng của ngọn “đuốc”, đối lập hoàn toàn với những cảnh khó khăn nguy hiểm mà người lính đã trải qua ở phần trên. Nhà thơ không chỉ chú trọng tới hình ảnh người lính đã mang màu sắc lãng mạn mà còn khắc họa chân dung bức tượng đài người lính sừng sững oai phong với ngôn ngữ gai góc, sắc nhọn mà chân thực:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Chỉ với 8 câu thơ Quang Dũng đã lột tả được sự gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết núi rừng Tây Bắc với căn bệnh sốt rét hoành hành khiến cho đoàn binh “không mọc được tóc”. Rồi họ vẫn mơ mộng, nhớ về người thân nơi quê nhà, nhớ tới người thân của họ nơi tiền tuyến. Họ không chỉ phải đối mặt với thời tiết kinh hoàng mà họ còn phải đánh đổi cả mạng sống của mình để bảo vệ quê hương. Hình ảnh ẩn dụ “áo bào” thay chiếu như mang một nỗi niềm xót xa. Những người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh thân mình, họ đã anh dũng nằm lại với đất mẹ. Đất mẹ ôm ấp vỗ về họ như những đứa con cần được bao bọc, chở che. Đây là đoạn thơ mang âm hưởng hào hùng bi tráng nhất bài thơ. Đến cả “Sông Mã” cũng phải gầm lên bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn.

“Tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Kết thúc bài thơ là một nỗi buồn còn đọng lại trong lòng người đọc – một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Tây Tiến vẫn như đang mời gọi, gieo vào lòng nhà thơ một cảm giác khó nói thành lời.

Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng, chúng ta có thể hình dung ra hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà tráng lệ đồng thời cũng xây dựng một bức tượng đài người lính hùng dũng đáng ngợi ca, khâm phục. Bằng ngòi bút sắc sảo, giọng thơ sâu lắng nhiều tình cảm, Tây Tiến như một ngọn gió mới thổi vào thơ ca Việt Nam một luồng gió mới – một miền kí ức hào hùng sâu sắc.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 8

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư vang dư hình của nó thì vẫn luôn còn đó, sống mãi bên đời. Người ta sẽ chẳng thể quên “có cái chết đã hóa thành bất tử” khi gặp ở trang thơ Tố Hữu, càng không thể quên hình ảnh người chiến sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” đã in sâu trong thơ Chính Hữu. Tự bao giờ, người lính đã trở thành những tượng đài bất tử như thế trong thơ? Đi qua gian khó, bước tới vinh quang, những người lính Tây Tiến cũng trở thành những hình tượng “còn mãi”, “sống mãi”, “đẹp mãi”. Ta gặp lại họ trong những vần thơ thấm đẫm cảm xúc mà Quang Dũng gửi lại đoàn quân, cùng theo đó là bao nỗi nhớ…

Vốn là một trong những chiến sĩ của đoàn quân, Quang Dũng viết bài thơ bằng tất cả nỗi nhớ một người đồng chí, một người từng cộng khổ và sánh vai, chứ không phải của một người miền xuôi từng lên thăm miền ngược. Nỗi nhớ gửi từ Phù Lưu Chanh gọi về bao cảm xúc…

Nhớ về Tây Tiến, trước hết là nhớ về những tháng ngày đoàn quân ròng rã trên chặng đường hành quân. Nỗi nhớ trào dâng ngay từ những câu mở đầu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Tiếng gọi thân thương đi cùng bước chân kí ức. Sông Mã – nơi chứng kiến và chia sẻ những buồn vui. Sông Mã – nơi đựng đầy những kỉ niệm và hoài ức. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải rộng theo thời gian và ngút ngàn trong không gian, theo những cung đường Tây Bắc.

Hiện lên trong nỗi nhớ là bức tranh về núi rừng Tây Bắc vừa hoang vu, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình. Cái hoành tráng dữ dội hiện lên ngay ở những cái tên mới mẻ lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch; ở những hình ảnh thiên nhiên độc đáo, lạ thường: sương lấp, cồn mây, heo hút, khúc khuỷu…Bằng lối diễn tả độc vận, lối phối thanh bằng trắc linh hoạt, Quang Dũng đã diễn tả thành công cái thế heo hút của đèo cao, cái thế mênh mang của mây rừng. Đọc những câu thơ, ta như mường tượng ra những nơi thâm sơn cùng cốc, nơi hang cùng thủy tận, nơi đoạn đường trúc trắc, nơi đèo cao gồ ghề mà đoàn quân từng đi qua. Trong câu thơ Quang Dũng viết: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ta nhìn thấy cả một dốc núi mở ra, hai miền không gian đối cực nới dài, cao chót vót và sâu khôn cùng. Những hiểm trở ấy của cảnh rừng từng có lần ta gặp trong thơ Thế Lữ:

“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi Với khi thét khúc trường ca dữ dội.”

Nơi rừng thiêng nước độc cũng từng có bao tuổi xanh phải bỏ lại, bao mất mát hi sinh luôn còn đó, để khi nhớ lại người ta vẫn phải nhói lòng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai chữ “dãi dầu” dồn tụ trong đó bao nhiêu gian lao. Nói đến hi sinh, nhà thơ không tô đậm cái buồn thương mà nhấn vào cái kiêu bạc của những người lính vốn xuất thân từ Hà Thành hoa lệ. Bởi thế mà dẫu là bỏ lại tuổi trẻ nơi chiến trường khi đầu hãy còn xanh thì những người lính vẫn phải nhìn thấy trong đó những động lực để bước tiếp.

Và như một lẽ tất nhiên, với những con người nhạy cảm như người lính Tây Tiến, không khi nào họ chỉ nhìn thấy cái khốc tàn của núi rừng. Ngay trong sự hoang vu, hiểm trở, những vẻ đẹp trữ tình vẫn ngời lên lấp lóa dưới đôi mắt tinh tế của những chàng trai Hà Thành. Đó là kí ức “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, là nỗi nhớ thấp thoáng về “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một đêm hơi với hoa về trong tay, nó lãng mạn biết nhường nào. Là “đêm hơi” chứ không phải đêm khuya, cũng không phải đêm sương, dường như nó vừa gợi thời gian, vừa gợi một cảm giác mờ ảo – mờ đi trong tâm hồn người chiến sĩ. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được buông nhẹ ra bởi một loạt những thanh bằng như làm dịu lại nhịp thơ, gợi cảm giác bâng khuâng, nhè nhẹ, vừa gần gũi, vừa ấm áp tình thân, tựa bước chân dừng nghỉ sau những chặng đường dài. Nhớ về cái nên thơ ấy, nhà thơ không bỏ quên cảm giác ấm áp tỏa ra từ hương vị riêng của núi rừng, được gợi lên từ thứ “cơm lên khói” vẫn đượm mùi “thơm nếp xôi”.

Kí ức chiến tranh không chỉ lưu giữ những chiến công, những tàn tích, mà còn lưu giữ bao kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết, về những chặng đường dừng chân yêu thương ngọt ngào. Tây Tiến trên những chặng đường dừng chân sau bao ngày hành quân nhọc nhoài tự bao giờ cũng trở thành một phần không thể bỏ quên trong nỗi nhớ. Hồi ức về những đêm liên hoan dần dần sống dậy:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các cô gái vùng cao đang uốn lượn theo tiếng khèn dìu dặt, bổng trầm như nâng lên hồn rừng sâu núi thẳm. Hai chữ “bừng lên” thật giàu ý nghĩa, giàu sức gợi. Bừng lên trong những ngọn đuốc sáng, bừng lên trong niềm vui người lính Hà Thành đến từ xứ lạ phương xa, bừng lên trong tiếng reo vui khi người phụ nữ bất ngờ hiện ra vừa lộng lẫy, vừa tình tứ. “Đuốc hoa” mà người lính mang về trên tay, là hoa lửa đuốc thắp sáng như ngọn đèn rừng, hay là chúc hoa vẫn rọi sáng niềm tin người chiến sĩ? Những đêm liên hoan cứ ấm nồng như thế không chỉ rực rỡ sắc màu của lửa đuốc, của xiêm áo mà còn rộn rã âm thanh của “khèn lên”, của “nhạc về”. Những câu thơ thắm tình quân dân, tựa như cá gặp nước, tựa như con một nhà. Từng hơn một lần ta gặp thứ tình cảm ấm nồng êm đẹp đó trong thơ:

“Các anh về mái ấm nhà vui Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ”

Hay:

“Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Nhưng nếu những câu thơ của Hoàng Trung Thông và Tố Hữu viết bằng cảm hứng hiện thực với những hình ảnh dịu dàng thì câu thơ của Quang Dũng lại mang một vẻ đẹp bay bổng lãng mạn. Âm hưởng lãng mạn đó còn tiếp tục ngân dài ở những câu thơ sau:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của người nơi đèo cao núi thẳm. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt ngàn sắc trắng hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng người trên độc mộc. Âm điệu thơ ở đây thay đổi, không còn vui tươi như trong đêm liên hoan lửa trại mà dần trở nên man mác bâng khuâng. Hình ảnh thơ cũng không còn rực rỡ tươi sáng mà trở nên ảo mờ, mơ hồ. Những nét dáng mảnh mai duyên dáng từ lâu đã trở thành linh hồn riêng của Tây Bắc. Một Mai Châu mênh mang sương sớm, phơ phất hồn lau, đong đưa dòng nước. Sự quyện hòa giữa cảnh và người qua vài nét chấm phá đã đủ gọi về không khí Tây Bắc đầy lãng mạn, đọng lại trong nỗi nhớ bao cảm xúc chơi vơi. Thấm đẫm trong từng nét vẽ là một hoài niệm sâu nặng khó quên, bâng khuâng không nói hết. Tất cả đã thay bằng lời “có thấy”, “có nhớ” ngọt ngào chân thành.

Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những đoàn binh không mọc tóc:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.

Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:

“Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”

Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hi sinh, nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hi sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hi sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:

“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu. Những câu thơ cuối khép lại bài được viết như những dòng thường ghi trên mộ chí, cũng là lời hẹn thế của một người lính từng gắn bó sâu nặng với đoàn quân:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường đi thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho nhiệm vụ cứu nước. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về.

Tây Tiến là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, vừa chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã góp thêm cho nền thi ca kháng chiến một tuyệt phẩm về người lính mà ai đi qua cũng phải lưu lại những ấn tượng cho riêng mình.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 9

Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và Tây Tiến là một trong những tác phẩm như thế.

Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ” Nhớ Tây Tiến” sau in trong “Mây đầu ô” đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.

“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, “nhớ về rừng núi”. Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần “ơi” và từ láy “chơi vơi”. Bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.

Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã “mỏi” nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng “hoa về trong đêm hơi”. Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:” dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút”. Câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kì vĩ ấy là hình ảnh “súng ngửi trời”. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm đến đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa ………… Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi “anh bạn dãi dầu không bước nữa”. Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa “tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt”. Những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập “cọp trêu người”, “thác gầm thét”. Nhưng không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây “nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Cặp từ sáng tạo “mùa em” đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.

Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa …….. Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng “kìa em”. Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu Mộc trong chiều sương với “hồn lau”, “hoa đong đưa”. Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.

Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” là kết quả của những trận sốt rét rừng. Thời kì này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu “áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không dày”. Chiến sĩ ta nhiều khi chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt ” dữ oai hùm”, “mắt trừng”. Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc “gửi mộng qua biên giới” không làm giảm sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm khổ thơ. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi “chẳng tiếc đời xanh” để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. “Áo bào thay chiếu anh về đất” như một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường đi thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến. Họ ra đi không hề “hẹn ước”. Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần ” một đi không trở lại” của người lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.

Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, Tây Tiến xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 10

Có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn cũng không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng.

Thật ra số phận của Tây Tiến cũng khá truân chuyên. Đã có lúc Tây Tiến được trích dẫn như một dẫn chứng để phê phán cái xu hướng gọi là “tiểu tư sản” trong thơ kháng chiến, một “đối chứng” để khẳng định những gì nên có trong thơ mới. Nhưng rồi Tây Tiến cuối cùng được nhớ lại như một kỷ niệm đẹp của kháng chiến, một tiếng thơ bi tráng của một nền thơ.

Thành công đầu tiên của Quang Dũng là đã chọn cho bài thơ một thể thơ rất hợp: thể bảy chữ, nhưng không phải bảy chữ Đường luật mà là bảy chữ thể hành; một đoạn thơ ăn theo một vần bằng, cứ một câu vần bằng lại một câu vần trắc. Điệu thơ ấy, lại cộng với cách dùng từ hơi cổ kính một chút của Quang Dũng, khiến cho bài thơ ngay khi vừa đọc lên, đã có một không khí vừa man mác bâng khuâng vừa lãng mạn hào hùng. Nếu Quang Dũng sử dụng một thể thơ khác, kể cả thất ngôn tứ tuyệt trường thiên như ở “Mắt người Sơn Tây”, điệu thơ sẽ khác đi, không khí bài thơ cũng sẽ khác đi, sẽ buồn hơn, và sẽ không còn là Tây Tiến nữa. Nhưng ở đây không phải là vấn đề lựa chọn, cảm hứng nghệ thuật của Quang Dũng, nhu cầu bên trong của nhà thơ, đã tìm đúng cái dạng hình phải có cho sự thổ lộ của mình, để Tây Tiến ra đời và sống cuộc đời đầy thăng trầm nhưng mãnh liệt của nó. Hình như có lúc nhan đề bài thơ gồm những ba chữ kia: “Nhớ Tây Tiến”. Cái nhan đề ấy hơi thừa nhưng lại rõ nghĩa. Tây Tiến là một cảm hứng bắt nguồn từ kỷ niệm, kỷ niệm về một đoạn đời chiến đấu, về một miền đất, kỷ niệm về những người đồng đội, cả những kỷ niệm khó quên về chính mình. Trong đời có những lúc nào đó, kỷ niệm bỗng sống dậy với những đường nét và sắc màu nóng bỏng để gợi lên những cảm xúc và hoài niệm vô tận. Kỷ niệm về Tây Tiến, về cuộc hành quân tiến đánh giặc bên kia biên giới Việt – Lào, đã bắt đầu như thế:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Nhớ chơi vơi! Hai tiếng “chơi vơi” dùng ở đây thì thực là đắc địa. Nhớ chơi vơi là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, hình như nhẹ tênh tênh mà nặng vô cùng, bởi không đo nó được, không cân nó được, chỉ biết lửng lơ, đầy ắp, mênh mông, nó ám ảnh tâm trí mình, nó da diết thương nhớ vô cùng. Nhớ chơi vơi ít ai nói như thế; hình như trong bài ca dao cũng có và chỉ có một lần nỗi nhớ như thế xuất hiện:

Ra về nhớ bạn chơi vơi…

Trong bài thơ Quang Dũng, hai tiếng chơi vơi này lại ăn vần với tiếng “ơi” ở câu trên, nên càng bộc lộ hết sắc thái ngữ nghĩa và sức khơi gợi của chúng, càng trở nên như một tiếng vang tức thời bật lên từ cõi nhớ: nhớ Tây Tiến nhớ ngay về rừng núi.

Ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến là về rừng núi. Cả một đoạn thơ đầu gồm 14 câu đều dành cho kỷ niệm về rừng núi một vùng bát ngát miền Tây, một vùng biên giới Việt Lào. Mà rừng núi mới dữ dội, khắc nghiệt làm sao: núi cao, dốc thẳm, sương dày, mưa mịt mù trời đất, thác gầm, cọp dữ,… Miền Tây, ấy là nơi ngự trị của vẻ thâm u, hoang dã, những thử thách ghê gớm đặt ra trước con người, thiên nhiên ở đây luôn là một mối đe dọa, một sức mạnh sẵn sàng vồ lấy con người, nuốt chửng con người. Ta chớ quên rằng, vào cái mùa xuân Tây Tiến ấy, những người lính Tây Tiến như Quang Dũng chỉ vừa mới ra đi từ một mái trường hoặc một góc phố nào đó của Hà Nội – Thăng Long, nơi có Hồ Gươm, Tháp Búp, Tháp Nghiên, có liễu Hồ Tây, có ba mươi sáu phố phường, cả những cuộc chiến đấu trên chiến lũy ác liệt mà vẫn pha nét hào hoa… Ấn tượng trước miền Tây vì thế càng ghê gớm:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…

Từng chi tiết: sương dốc, mây, mưa… đều được Quang Dũng đưa về với ấn tượng mạnh nhất của nó. Sương thì dày đến “lấp” cả đoàn quân, dốc thì đã “khúc khuỷu” lại “thăm thẳm “, đã nghìn thước lên cao lại “nghìn thước xuống”, “cồn mây” thì heo hút và cao đến “súng ngửi trời”, mưa đến mức những ngôi nhà như bồng bênh trên biển khơi… Những từ địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch xa lạ càng làm tăng ấn tượng xa ngái, hoang sơ lên một bậc nữa.

Đọc mấy câu thơ sau đây:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thẳm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Tự nhiên thấy rợn cả người, cứ như đọc mấy câu thơ trong “Thục dạo nan” của Lý Bạch:

Thục dạo chi nan, nan ư thướng thanh niên!

( Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)

hoặc như khi đọc Chinh phụ ngâm mà đến câu:

Hình khe thế núi gần xa

Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao…

Tây Tiến là một cuộc hành quân cực kỳ gian khổ, gian khổ đến độ:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Gian khổ tưởng chừng như đã vượt qua giới hạn chịu đựng của con người. Những người gục xuống trên đường đi, gục xuống khi chân còn đi, chỉ khi “không bước nữa”, không thể bước lên nữa mới “gục lên súng mũ”, và thế là “bỏ quên đời” chứ không phải nằm xuống, ngã xuống. Cái ý thơ này dẫu buồn mà vẫn không bi đát, bởi vì ở đây con người vẫn vượt lên mình, dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng không khuất phục, và cho đến khi chết, vẫn chết trong cuộc hành trình. Thật là một hình ảnh vừa bi vừa hùng. Nó đúng với cái không khí thời đại của đất nước đang bước vào một cuộc chiến đấu mà mỗi người chỉ có hai tay không và một tấm lòng, phải đương đầu với súng đạn bom pháo của kẻ thù và chiến đấu cho một lời thề thiêng liêng: “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành ngày đó:

Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi

Là có sá chi đâu ngày trở về…

Đừng đưa những tiêu chuẩn tinh thần lạc quan cách mạng hay gì gì đó của những những năm sau này mà đo đạc hay phê phán tinh thần của lớp người ấy. Bởi vì ở họ, ở mỗi người chiến sĩ lên đường ngày ấy, đều có một hình ảnh và một tâm trạng của Kinh Kha sang Tần:

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn

Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn

(Gió hiu hắt chờ, sông Dịch lạnh tanh

Tráng sĩ một đi chừ, chẳng trở về)

Ôi cái lãng mạn đẹp đẽ của một thời! Đừng gọi đó là anh hùng cá nhân. Anh hùng thì có nhưng cá nhân thì không, bởi cái anh hùng ấy vô tư lắm.

Trong đoạn thơ đầu này, nếu Quang Dũng có nói quá lên về cái ghê gớm của núi rừng (mà sự thật là không quá) thì cũng chỉ là để nói lên cái hào hùng của con người chứ không phải để hạ thấp nó.

Rồi giữa những kỷ niệm khổ và đau thế, đoạn thơ bỗng khép lại bằng một kỷ niệm thật ấm áp, như một tiếng hát vui bỗng vút lên. Cái khổ cái buồn thật đáng nhớ, vì thế cái ngọt bùi giữa bao nhiêu buồn khổ ấy lại càng đáng ghi nhớ hơn:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Điều vui gợi nhớ điều vui, Quang Dũng dành cả phần thứ hai gồm tám câu thơ cho những kỷ niệm về tình người xứ bạn:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Hình ảnh một cuộc liên hoan văn nghệ đã thành truyền thống trong cuộc kháng chiến chống Pháp được nhắc đến với vài ba nét tiêu biểu: đuốc, hoa, điệu múa, tiếng khèn những chi tiết có màu sắc tả thực mà vẫn có chút gì đó rất mộng, rất ảo. Hai tiếng “kìa em” vừa ngỡ ngàng vừa trìu mến.

Một nét chấm phá về nhân dân xứ bạn lại được định hình rất rõ trên tấm ảnh thời gian:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Quang Dũng đã dành phần cuối của bài thơ cho hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, hình ảnh mà tác giả muốn ca ngợi một cách khác thường là sau khi đã nói đến những nét hoặc khác thường hoặc độc đáo của cuộc Tây Tiến gian khổ hào hùng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Nếu cần sự độc đáo thì mấy từ “không mọc tóc” đã đạt đến chỗ tột cùng của độc đáo, nhưng như thế thì có chân thật không? Hình ảnh anh bộ đội có trở nên quái đản không? Không! Bởi vì, đây là hình ảnh anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời, hình ảnh như một dấu ấn không thể phai của những chàng trai từ thành phố, từ dưới các mái trường ” xếp bút nghiêng” bước vào chiến đấu, với một lòng yêu nước hoàn toàn vô tư và một chút lãng mạn của một khách chính phu và một chiến sĩ”Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. Hình ảnh anh bộ đội trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến ấy chưa có thể hoàn toàn thoát khỏi hình ảnh người anh hùng mà văn thơ lãng mạn đã tạo nên, cả từ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn hay “Chí khí anh hùng” của Nguyễn Công Trứ. Mà đã có “đoàn binh không mọc tóc” thì tất nhiên cũng có được “quần xanh màu lá dữ oai hùm”. Hơn nữa cái vẻ “dữ oai hùm ” ấy cũng hoàn toàn tương xứng một ý thơ của đoạn đầu:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến đã được dựng lên như thế thì tất phải có hai câu thơ này:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Mấy câu thơ sau thì thật buồn:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Đó là hình ảnh tất nhiên của một cuộc chiến tranh. Câu thơ đầu đọng lại như một bức tranh buồn thảm bởi tất cả bảy tiếng – “rải rác – biên cương – mồ viễn xứ” đều hàm chứa một lượng thông tin lớn. Câu thơ này nếu đứng một mình thì ấn tượng bi thảm thật đến vô cùng. Nhưng từ cái bi thảm ấy, những câu thơ sau lại nâng nó lên thành bi tráng chứ không còn bi thảm nữa. Nó bi tráng bởi Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người đã chết:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Cách nhìn cách phát biểu của nhà thơ cũng xuất phát từ cái bi tráng ấy. Riêng chi tiết thực này: người tử sĩ được mai táng trong chính quần áo của mình (không có cả chiếu), Quang Dũng đã nói khác đi. Nhà thơ không nói áo mà nói “áo bào”, và khi nói “áo bào” thì ta không còn nghĩ đến “áo” nữa mà nghĩ đến một cái gì đó đẹp và hùng tráng hơn rất nhiều. Nói “áo bào” không phải là thi vị hóa hay “tiểu tư sản”, “mộng rớt” như có người đã nói. Vả lại “áo bào” chứ không phải “chiến bào”, chiến bào thì nghe cổ quá, không phù hợp, còn “áo bào” thì lại mới, rất đúng (Một sự kết hợp ngẫu nhiên giữa áo và bào, coi như một đóng góp về từ vựng của Quang Dũng)- Người tráng sĩ thời phong kiến coi “da ngựa bọc thây” là một niềm vinh quang thì với người lính bảo vệ đất nước ngày nay, “áo bào thay chiếu anh về đất” là một hình ánh đầy sức mạnh ngợi ca, vả lại, Quang Dũng còn rất tinh tế khi dùng từ “về”: “anh về đất” không từ nào thay thế cho từ này được. “Về đất” không chỉ là được chôn xuống đất mà còn là hành động “tựu nghĩa” của người anh hùng đã hoàn thành nhiệm vụ, còn là niềm trân trọng yêu thương, của đất nước, của đồng đội. Bi tráng nhất là câu thơ cuối đoạn này:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Buồn đấy nhưng sao mà hùng tráng quá! Quang Dũng đã kết thúc Tây Tiến bằng một khổ thơ tứ tuyệt:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

“Không hẹn ước” rồi lại “thăm thẳm một chia phôi”, Quang Dũng khẳng định lại ý niệm “nhất khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Đã nói nhiều điều về Tây Tiến, đã nhắc lại nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu sắc nhất, bền vững nhất về Tây Tiến là cái tinh thần ấy. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.

“Tây Tiến mùa xuân ấy” đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lich sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn cái thuở gian khó và thiếu thốn đến nhường ấy nhưng cũng không lãng mạn và hào hùng đến nhường ấy. Không có cái thuở ấy thì sẽ không có bài như Tây Tiến và tất nhiên không có cái hồn thơ, cái tài thơ của Quang Dũng thì cũng sẽ không có Tây Tiến.

Bài Thơ Tây Tiến Quang Dũng - Phân tích bài thơ Tây Tiến
Bài Thơ Tây Tiến Quang Dũng – Phân tích bài thơ Tây Tiến

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 11

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và Tây Tiến là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông – Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành Tây Tiến vì cả bài thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ gợi lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.

Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. Tây Tiến ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.

Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi Nhớ chiếu bạn trải Nhớ chăn bạn nằm”

Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…- địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và man dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc họa rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ ” súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gập lại:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”

“Hình khe thế núi gần xa Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”

8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.

Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.

Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)

Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói rơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn… Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.

Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác bên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”

Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” – âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:”Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân”

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của Dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông Á.

Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. Ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh “mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới và Hà Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt “biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”. Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những mảnh chiếu cuốn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ. Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo con đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.

Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 12

Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:

Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.

Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thành Hóa sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà. Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.

Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.

Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.

Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.

Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn anh hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.

Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.

Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.

Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.

Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan của Lý Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!).

Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ. Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền tây tổ quốc.

Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:

“Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.

Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.

Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên từ tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.

Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ………. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.

Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa đựng một sự thật nghiệt ngã.

Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ.

Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn.

Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”).

Họ có vẻ tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 13

“Có một không gian nào, Đo chiều dài nỗi nhớ? Có khoảng mênh mông nào Sâu thẳm hơn tình thương?”

(Trần Đình Chính)

​Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ thương mà Hoàng Cầm đã gửi lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là nỗi nhớ thương của người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Đôi khi đó còn là nỗi nhớ thương trong tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho người bên này trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Và Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi đặt tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ Tây Tiến.

Nói về Quang Dũng là ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính của ông – Tây Tiến. Có lẽ do nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, với nhiệm vụ phối hợp với Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến năm 1984, Tây Tiến giải thể, thành lập Trung đoàn 52, Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh – 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi nhớ về đơn vị cũ của mình, ông sáng tác thành công bài thơ với cái tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng một thời gian sau, khi in lại trong trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu đề vì suốt cả bài thơ là mạch dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, cồn cào, chỉ với hai từ Tây Tiến cũng đủ để gợi lên cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, đó là nỗi nhớ.

​Bài thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình của một thời Tây Tiến đã qua! Nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai câu đầu của nhà thơ được thốt lên thành tiếng gọi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã đề cập đến hình ảnh sông Mã. Và ta cũng thấy rằng, sông Mã xuất hiện ở đầu tác phẩm và gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng với nhau để thể hiện một điều rằng sông Mã gắn liền với suốt đoạn đường hành quân của người lính Tây Tiến từ vùng địa bàn này sang vùng địa bàn khác. Mặt khác, con sông Mã ấy còn được nâng tầm để trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ thù và những chiến công vẻ vang của người lính Tây Tiến. Như nhà thơ Phan Quế đã nhận xét: “Câu thơ như một tuyết bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ tứ thơ”. Tây Tiến không chỉ để gọi tên đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri kỷ” để nhà thơ có thể giãi bày tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào trong tâm trí Quang Dũng, khiến cho nỗi nhớ ấy cứ bồng bềnh như một dải lụa, vương vấn trong lòng người đọc mãi không nguôi. Nỗi nhớ ấy đâu chỉ riêng về dòng sông Mã, mà đó còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng nhà thơ trải qua mọi khó khăn gian khổ, nỗi nhớ ấy cũng đồng thời là nỗi nhớ về địa bàn hoạt động, là nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng vừa trữ tình Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” đã khắc họa nên cái hồn của câu thơ. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”

Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, tiếc nuối về một thời đã xa, về những khoảng thời gian, những kỷ niệm của một thời tươi đẹp, bởi những điều ấy sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu, không cuối, không có thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bâng khuâng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi chẳng yên. Vần “ơi!” kết hợp với từ “chơi vơi” đó là tiếng gọi tha thiết về đoàn binh Tây Tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ không nổi hình nổi khối, khi cụ thể, lúc chìm khuất trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ – nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thế giới mênh mông của những hoài niệm. ​Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu,…Tất cả đều là những nơi họ từng đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, những địa danh ấy đã in đậm dấu chân của đoàn binh Tây Tiến. Càng nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ thương lại càng da diết, mà càng da diết thì lại tạo cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.

​Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân gian nan, vất vả. Tuy thời tiết sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi đây chắc chắn phải là sương. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ che lấp luôn cả đoàn quân Tây Tiến đang ngày đêm vượt núi, băng sông khiến họ không nhìn rõ mặt nhau. Động từ “lấp” làm ta như có cảm giác chính sương đã khiến cho đoàn quân khó khăn thêm phần khó khăn hơn, bị trĩu xuống trong mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản lòng nào, bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương để khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng Tây Bắc. Cũng miêu tả sương, Chế Lan Viên đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ​Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở ​Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”

Nhưng cũng thật bất ngờ, trong cái gian truân, vất vả ấy vẫn có nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào lúc đêm phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính. Nhưng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác Hồ đã từng nói: “Con người ta là hoa đất, con người ta là đẹp nhất”, mặt khác hình ảnh hoa là một hình ảnh ẩn dụ chỉ những bó đuốc bình thường đang chập chờn, lung linh, huyền ảo mà người lính cầm trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân nung nấu. Cái hay của nhà thơ là không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm hơi”. Cách dùng từ ngữ đã chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

​Ngoài sự giá lạnh của sương thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về thiên nhiên miền Tây Bắc. Quang Dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm, tuy hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, huyền ảo:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng người trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Tác giả sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua. Với hàng loạt những từ láy tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành quân luôn có sự nguy hiểm đang rình rập. “Khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc. “Thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác giả lại dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo khi không sử dụng từ “chót vót”, bởi như thế thì người đọc có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó ai có thể hình dung được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại một cảm giác chân thật như thế thì điểm nhìn của anh phải ở từ dưới lên mới có thể thấy dốc khúc khuỷu, nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu thăm thăm, mà để có được cái nhìn như vậy thì buộc các anh phải trải nghiệm, phải hành quân đi lên những ngọn núi, con dốc đầy nguy hiểm ấy. Kết hợp với nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ giúp bạn đọc hình dung các anh đang phải treo mình trên những triền núi đá, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu có 7 chữ thì đã tận 5 thanh trắc, gợi nên cảm giác chênh vênh, gập ghềnh, vô cùng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ Quang Dũng, làm ta liên tưởng đến tiếng nhạc trong bài hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, không có bóng người. Quang Dũng đã viết “súng ngửi trời” chứ không phải là “súng chạm trời”, bởi “chạm” hay “đụng” thì ý câu thơ sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên, chinh phục nơi mà ít người lui tới. Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi, mũi súng của các anh dường như đã chạm đến đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực nhưng qua cách nói này làm tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính Tây Tiến, đồng thời đây cũng là những giây phút đùa vui, tếu táo, có nét tinh nghịch của người đồng đội trẻ với nhau. Quang Dũng sử dụng phép đối ở câu thơ thứ ba, đối “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cách đột ngột tạo thành hai vế đối lập nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất như xa “ngàn thước’ vạn dặm. Dẫu vậy, những người lính vẫn âm thầm tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy, phóng mắt nhìn ra xa để rồi chợt vỡ òa vui sướng trước cảnh thôn quê êm đềm trải dài trước mắt: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện, cứ bồng bềnh giữa biển khơi của mưa và sương đọng lại. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó như một bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc nét nhưng cũng có những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. “Nhà ai” là những mái nhà, bản làng của người vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là địa điểm nghỉ chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:

“Các anh về mái ấm nhà vui Tiếng hát câu cười Rộn ràng xóm nhỏ Các anh về tưng bừng trước ngõ Lớp đàn em hớn hở theo sau Mẹ già bị rịn áo nâu Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”

Đó là cảm giác bình yên của người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao. Và vui hơn nữa khi các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng ấm.

​Bốn câu thơ này được phối hợp với nhau rất đặc biệt, sau ba câu thơ được vẽ bằng nét gân guốc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Không phải ngẫu nhiên mà tài năng hội họa của Quang Dũng lại được mọi người yêu mến đến vậy. Bởi quy luật sử dụng những gam màu trong hội họa là giữa những gam màu nóng phải pha chút gam màu lạnh để tạo sự hài hòa cho bức tranh, thì ở đây nhà thơ cũng sử dụng đúng như vậy trong thơ ca của mình từ các thanh bằng – trắc. Không chỉ là tranh mà những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau những nốt lên cao lại là nốt trầm thấp, bởi vậy nói như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm âm nhạc trong miệng” cũng là một nhận xét thật tinh tế.

Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc nhưng ta vẫn thấy ở các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Tây Tiến đã từng có một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi tác phẩm đã đề cập đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh, đó là viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết phục lòng người thì trước hết phải chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng Quang Dũng không nề hà, né tránh sự thật đau thương. Vì vậy mà Tây Tiến được một lần nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng ” anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy “dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác giả không viết “bị gục xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù có ra đi, các anh vẫn không quên mình vẫn là một người lính, dù có gục cũng phải “gục lên” súng mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng chiến. Họ đã hy sinh trên chặng đường hành quân, đã có những người lính nằm xuống, rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò đùa, có người ra đi thì có người hi sinh, đó là điều rất đỗi bình thường. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” là cách nói giảm nhẹ sự mất mát, tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. Cách nói giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của những người lính Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như một nén nhang tâm tình gửi lại.

​Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là để thử thách bước chân của người lính :

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gầm thét dữ dội. Ở nơi xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn người, cọp ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của người lính thì bóng nổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.

​Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ này, chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua. Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá những gian khổ, kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt những năm tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng trại ở một bản làng có tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay quần ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung cảnh đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa em”thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các anh bộ đội cụ Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước. Cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, Chế Lan Viên đã viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:

“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

Nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

​Mười bốn câu đầu của bài thơ Tây Tiến một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật là hình ảnh chiến sĩ đầy bản lĩnh và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu thơ của Giang Nam:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông”

​Cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn, nhường bước cho một thế giới hoàn toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ thứ hai. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền Tây Bắc. Mở đầu phần hai là sự tiếp nối cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, trở thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh Tây Tiến. Trên con đường hành quân gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân tình của người dân. Đối với Quang Dũng cũng như những người lính, không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân với ánh lửa sáng bừng luôn là những kỉ niệm khó có thể quên:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

​Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không gian ở bốn câu thơ không còn rộng lớn như đoạn thơ đầu, mà không gian giờ đây được thu hẹp lại thành “doanh trại” – một không gian bình yên, được coi là mái nhà của người lính. Ở đây, những người lính không phải gồng mình lên để chiến thắng những khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ thực sự được thư giãn. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, ngập tràn ánh sáng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng” cũng có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Ở đây, Quang Dũng đã có cách ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc – một biểu tượng hạnh phúc của các đôi uyên ương, là từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Nhưng thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường trong những đêm giao lưu văn nghệ của người lính Tây Tiến, khi có gió thổi qua làm cho những bó đuốc ấy phát ra các tia lửa và nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì lại trở thành đuốc hoa, khiến cho ta liên tưởng đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết sức yêu đời, tình nghịch, phong độ và tài hoa của người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là những bộ trang phục đẹp của người con gái miền cao, nhưng ta có thể hiểu đây là hình ảnh vô cùng vui tươi, tinh nghịch của người lính khi các anh mặc những bộ xiêm y của phụ nữ cùng nhau vui đùa, nhảy múa xung quanh ngọn lửa trại. Từ xa xưa, những chiếc khèn bè đã được dùng làm nhạc đệm trong hầu hết các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, điệu múa lăm vông, hát đối, giao duyên, trong các dịp lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn dùng để gọi bạn tình đêm khuya của những chàng trai cô gái Lào khi yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, náo nức cả không gian yên ắng. Khi tiếng khèn cất lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió hát, hiện nên vẻ hoang sơ,hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, Quang Dũng đã không khỏi say sưa và quyện vào tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tính sơ khai mà đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Từ “man điệu” mà tác giả sử dụng ở đây cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Trong những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp, có cả âm nhạc, có những điệu múa, điệu nhảy vui tươi và không khí ở đây là không khí say mê ngây ngất. Điều đó được chứng tỏ khi ban đầu ông dùng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ “nàng”. Từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc cõi thần tiên với một không khí say mê đến ngây ngất. Những thiếu nữ Mường,Thái xinh đẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây cả nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng những người lính trẻ. Địa danh Viêng Chăn không phải là địa danh của Việt Nam, mà đó là thủ đô của Lào. Ta nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Họ không chỉ chiến đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất bạn Lào. “Nhạc về” tạo nên độ phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn người lính trở nên thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những phút giây ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hành quân phía trước.

Ở đoạn thơ này, tác giả đã làm xuất hiện một thế giới khác của Tây Bắc, thiên nhiên giờ đây không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà nó hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Ngòi bút của Quang Dũng có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn thì vẫn có những đường nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Tất cả làm cho bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây hiện lên rất rõ.

​So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đã đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một không gian bảng làng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng thị hóa. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

“Người đi” chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh của một “chiều sương” cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương lúc này không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương bình thường mở ảo, nó gợi màu sắc bảng lảng, khói sương và có chút man mác buồn. Địa danh duy nhất trong khổ hai chính là Châu Mộc, bởi ở đây có cảnh sắc thiên nhiên rất đẹp, nơi đây có núi sông diệu lệ, có lung lũng lúa chín vàng, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ. Mở ra ở đó là một không gian buổi chiều được giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra như một miền cổ tích, chính vì vậy mà Châu Mộc là nơi để lại cho các anh nhiều ấn tượng, kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” ở câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ như bị trĩu xuống như một nút nhấn. Nữ thi sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ về “hồn lau”, nhớ về cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời, những cây lau giăng khắp mọi nẻo bến bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. Trong văn chương Nguyễn Tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô giác, bởi đó là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng khuếch tán vào cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng có hồn của nhà thơ, Ta nhớ thơ Chế Lan Viên:

“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với Thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi Suốt một đời với gió giao tranh”

Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy, có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong ký ức. Sương mờ giăng khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại như một bờ tiền sử, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ cây gỗ lớn dài, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc ấy có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều để lại trong lòng Quang Dũng một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu. Ai nói rằng đất Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Câu thơ cuối được tác giả dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ láy hoa “đong đưa” chứ không phải là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi nếu viết “hoa đung đưa” thì cảnh vật ở đây vô tri vô giác, gợi đến một sự chuyển động về cơ học khô khan, còn “hoa đong đưa” thì lại có hồn người, thể hiện sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông hoa lau trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên mặt nước sóng sánh, chòng chành. Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người, cánh hoa ấy như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn các anh vượt sông đi đánh giặc. Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm đà màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy như trước mắt mình một bức tranh sơn thủy hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến và gắn bó với mảnh đất miền Tây trong tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.

​Tám câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của tác giả đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong bài tổng thể bài thơ.

​Giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh người lính Tây Tiến với những gian khổ thiếu thốn được thể hiện qua khổ thơ thứ ba. Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói đến gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đó là bức tượng đài bi tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn sàng ra đi với lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ trên nói về ngoại hình của người lính Tây Tiến, mang vẻ đẹp ở đây là viết về cái ốm nhưng không hề yếu. Nhà thơ miêu tả, khắc tạc cả một tập thể của mình, những con người anh hùng được tác giả gọi bằng cái tên khá thú vị – “Đoàn binh không mọc tóc”, cái hào hùng hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “đào binh” thay vì là “quân ấy” nhằm gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng định một lực lượng đông đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt – “Tiểu đội xe không kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước.

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết bệnh thì nhiều, có những con suối khiến họ rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa nữa là người lính Tây Tiến họ tự cạo trọc đầu trở thành những anh “vệ trọc” để giữ vệ sinh trong cuộc kháng chiến thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc đánh giáp lá cà. Và nhà thơ còn đề cập đến một căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương của thời kì kháng chiến chống Pháp, căn bệnh khiến cho các anh bị rụng tóc đó là bệnh sốt rét rừng. Một căn bệnh nguy hiểm đã hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết đường chết bệnh còn nhiều hơn là chết trận. Thơ ca kháng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự nguy hiểm của căn bệnh này, không chỉ người lính trong Tây Tiến mà ngày trong cả bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu cũng có nhắc đến:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Quang Dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”, bởi “không mọc tóc” được ông sắp xếp từ ngữ để chỉ cái ngang tàng, ngạo nghễ, tinh thần vượt lên trên sự khốc liệt của cuộc chiến ở người lính nhưng có nét hóm hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn của tác giả chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong trang thơ của Quang Dũng đó là vẻ đẹp của những anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhưng chẳng hề yếu.

Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “Cá nước” của nhà thơ Tố Hữu:

“Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế”

Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”

Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới phải chết vì căn bệnh ác liệt này. Thế nhưng một lần nữa thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng, màu xanh ấy không còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó trở thành màu xanh của áo lính, màu xanh của lá cây ngụy trang, xanh sắc mạ non, xanh lũy tre làng. Quang Dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” một cách rất sáng tạo, tạo nên âm hưởng mạnh mẽ cho câu thơ khiến người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần, khí thế oai hùng khiến cho kẻ địch khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời Tây Bắc, đạp đổ mọi gian khổ, khó khăn để tiến về phía trước, họ mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt như mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh rộng lớn. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập giữa “quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn, khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương nhận xét: “Quân xanh màu lá, màu áo hay màu da? Chắc cả hai! Chỗ này tả lính rất khéo, nói được lính ôm mà không yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng lưu lại là dữ oai hùm”. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến”.

Dưới ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, các chiến sĩ không còn là nạn nhân mà trở nên thật chủ động, ngạo nghễ: không mọc tóc, da xanh xao là để thích nghi với hoàn cảnh chiến đấu. Vũ Quần Phương có nhận xét: Quang Dũng miêu tả lính Tây Tiến ốm mà không hề yếu. Đầu không mọc tóc không phải là hình ảnh gây cười hay nói chính xác hơn là cười mà xót xa, không cầm được nước mắt, bởi răng tóc là gốc con người, ai cũng muốn chăm sóc cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. Từ biệt Hà Thành ra đi chiến đấu khi màu tóc còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây họ chấp nhận hy sinh mái tóc, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân vĩnh viễn của Tổ quốc.

​Khó khăn gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn. Nếu hai câu thơ trên như nét khắc, nét chạm vào không gian của tác giả để tạo nên bức tượng đài với ngoại hình ốm mà không yêu, thì hai câu thơ sau, tác giả lại nói về vẻ đẹp tâm hồn của họ. Và tâm hồn chính là sức mạnh nội tâm, là khí phách của những người lính Tây Tiến. Dù cuộc sống có vất vả thiếu thốn nhưng không vì thế mà từ bỏ lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính Tây Tiến đồng thời xảy ra. Đó là “mắt trừng”, đó là “gửi mộng”. Hai câu thơ nhốt trọn hai thế giới, hai giấc mộng của người lính Tây Tiến. Người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ”. Vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt trừng đã gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh mở to nhìn thẳng về phía quân thù mà bắn với chí khí thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình.Ban ngày các anh gửi ánh mắt trừng đầy căm thù tới kẻ địch. Hình ảnh “mắt trừng” là ánh mắt mở to, đầy dữ dằn hướng về phía trước, ánh lên sự quyết tâm, khát vọng chiến đấu giành chiến thắng. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. Một hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai phong lẫm liệt, kiêu hùng của đoàn binh như trong bài thơ “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn từng viết:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ Bay đừng hòng khuất phục đời ta Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.

Nhiều người cho rằng: “dáng kiều thơm” là nỗi nhớ của Quang Dũng về quán kiều trên phố Hàng Bông, nơi mà ông hay lui đến để đàm đạo văn chương. Hay có người cho rằng đó là những người lính đang nhớ về những thiếu nữ Hà Thành, nhớ người yêu của mình với vẻ đẹp “sắc nước hương trời”, với các chiến sĩ thì nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, chứ không phải nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ cao cả, nhớ để mà thối chí nản lòng. Vậy mà một thời câu thơ “đẹp một cách lãng mạn”như thế này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dồi. Từng một thời bị phê phán bởi thói tiểu tư sản, nhưng thực ra nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ. Quang Dũng đã tạo nên một nét tương phản hết sức đặc sắc. Những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong nỗi nhớ về một dáng kiều thơm. Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Tại sao cấm những người lính xuất thân từ thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, trong khi những người lính xuất thân từ nông dân thì lại được phép nhớ giếng nước, nhớ gốc đa, nhớ người thân của họ. Vấn đề là nỗi nhớ ấy có ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ hay không? Hay họ vẫn hiên ngang chắp tay súng tiêu diệt kẻ thù. Có lẽ đa phần người lính Tây Tiến đều là học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, tuổi đời còn rất trẻ nên hành trang mang theo khi ra chiến trường không chỉ có súng đạn mà còn là một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ. Nỗi nhớ ấy cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong bài “Đất nước”:

“Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Tuy nhiên, thơ hay ta không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi vẻ đẹp của bài thơ ấy, ta phải truy theo nghĩa chung. Dù có đến quán kiều như Quang Dũng, dù có nhớ dáng hình yêu kiều của người con gái đi chăng nữa thì tất cả những người lính đều nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội với những con đường nồng nàn hoa sữa:

“Từ thuở mang gươm đi mở cõi Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 14

Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945 -1954, Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.

Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nhà thơ gọi tên sông Mã – con sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào dĩ vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nỗi nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:

“Ra về nhớ mãi chơi vơi”

Hay Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”

Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bâng khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dường như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.

Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: “những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nét cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, đó là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nên đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nét phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của Tây Tiến nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khuỷu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi súng chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là một dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước…Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên Tây Bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.

Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.

Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục súng mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, súng vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bắt gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

(Lê Anh Xuân)

Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền Tây Bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Thiên nhiên miền Tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây Tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền Tây Bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đẫ viết về cuộc hành quân của những người lính Tây Tiến bằng chính sự thấu hiểu của một người từng trải.

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi ma như vẫn còn tươi mới đây thôi.

Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo từ bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”

Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.

Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ “đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.

Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người lính không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là màu xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.

Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “mắt trừng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây Tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc, ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính Tây Tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hùng hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính Tây Tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tàng, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.

Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20

Thì làm gì còn tổ quốc”

(Trường ca những người đi tới biển)

Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Tây Tiến gầm lên khúc độc hành”

Chiếc “áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính Tây Tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đây Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.

Những người lính Tây Tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.

Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây Tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống Pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 15

Quang Dũng là một nhà thơ rất đặc biệt, bởi ông không chỉ là một nhà thơ cầm bút sáng tác mà còn là một người lính cầm súng đánh giặc. Có lẽ bởi vì vậy mà những bài thơ của Quang Dũng luôn gắn liền với hình ảnh những người lính, cũng là những người đồng đội của ông. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả thực, bài thơ đã khắc họa thật thành công hình ảnh đoàn binh Tây Tiến với khí thế hiên ngang, tâm hồn thơ mộng trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết với đoàn quân của mình được vang lên trong tâm thức của nhà thơ:

“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”

Nhớ về đồng đội của mình, nhà thơ nhớ ngay đến con sông Mã, nó là con sông đã cùng những người chiến sĩ đi qua bao khó khăn, thử thách, là chứng nhân lịch sử cho cuộc chiến đấu anh dũng, oai hùng của các anh. Bởi lẽ, dòng sông Mã là con sông chảy dọc theo một loạt các địa điểm mà những người lính hành quân ở vùng biên giới phía Bắc: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn…. Mỗi một nơi dừng chân mà người lính đi qua, họ có thể không nhớ hết nhưng hình ảnh con sông luôn in hằn trong tâm thức của những người chiến sĩ. Nhớ về sông Mã, nhà thơ cất tiêng gọi thân thương: “Tây Tiến ơi!” Nỗi nhớ như tràn về, nhà thơ nhớ núi rừng, nhớ những người bạn đồng hành trong những năm tháng gian lao, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt được. Bao nhiêu kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của Quang Dũng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

Nếu ở hai câu thơ đầu, khi kí ức chưa rõ ràng, nhà thơ nhớ về hình ảnh hiện hữu nhiều nhất là con sông Mã thì ở đây, mọi thứ đã dần hiện ra rõ nét hơn. Tác giả nhắc lại những tên làng, tên bản, nơi những người chiến sĩ dừng chân. Đêm xuống, đoàn binh Tây Tiến đã thấm mệt sau cả một ngày dài chinh chiến. Trong khoảnh khắc dừng chân ngắn ngủi, người lính vẫn cảm nhận được thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc thật thơ mộng, trữ tình “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Những chặng đường hành quân khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt được khắc họa ở các câu thơ tiếp theo:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” như vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên với địa hình hiểm trở, như thách thức sự chịu đựng của con người. Núi rừng Tây Bắc hoang vu, khó lường với những khó khăn chồng chất dọc trên đường hành quân của người lính. Nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập: “Ngàn thước lên cao” – “Ngàn thước xuống”, gợi tả độ cao cũng như độ sâu hiểm hóc, chỉ một bước sẩy chân cũng có thể để lại hậu quả khôn lường. Nhưng trong khó khăn ấy, qua con mắt của người lính, ta vẫn thấy có chút gì đó thật thơ mộng “súng ngửi trời”. Đứng trên độ cao có thể nhìn thấy mọi cảnh vật, người lính đánh mắt nhìn ra phía xa, thấy một căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ với quê hương của mình: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Phải chịu đựng vô vàn những thách thức, đã có lúc người lính gục xuống:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Cụm từ “bỏ quên đời” cho thấy khí thế bất khuất, oai hùng của các anh, trong phút giây nghỉ chân dọc đường, người lính quên hết mọi âu lo bộn bề của cuộc sống. Hình ảnh thơ còn ngụ ý nói đến cái chết của những người lính, họ đã hi sinh vì Tổ quốc nhưng nhà thơ lại miêu tả sự hi sinh ấy thật hiên ngang. Những tưởng bao khó khăn của người lính chỉ dừng lại ở đó, nhưng Quang Dũng còn hé lộ thêm cho người đọc những hiểm nguy khác mà đoàn binh Tây Tiến phải đối mặt:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa khắc họa nhưng hiểm nguy đe dọa tính mạng người lính. Vượt lên nghịch cảnh đó, người chiến sĩ nhớ đến những gì đã thúc đẩy các anh có động lực để bước tiếp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ cuối của khổ thơ đầu tiên là hình ảnh thơ đầy thi vị. Nỗi nhớ lại cất thành lời “nhớ ôi” là một nỗi nhớ da diết của người lính, các anh nhớ về những bữa cơm thơm mùi khói, mùi nếp của những người dân nơi núi rừng Tây Bắc đã tiếp đón các anh. Dù thiếu thốn nhưng họ vẫn chiêu đãi các anh bằng những gì chân thành nhất, làm sao quên được những bữa cơm thắm đượm tình dân – quân chỉ có trong lịch sử.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ là những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn nghệ:

“Doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”

Cụm từ “bừng lên” gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người chiến sĩ cùng với người dân thắp sáng ngọn đuốc, làm nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh “ngọn đuốc hoa”. Câu chữ, lời thơ tình tứ “kìa em” cho thấy cách xưng hô thân mật, gợi tả tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. Người lính say mê những khúc hát, điệu nhảy của người dân tộc ở nơi đây. Đó là những khúc hát dân ca Thái, dân ca Lào. Tất cả như xây đắp nên tâm hồn người lính, khiến cho họ trở nên lãng mạn, bay bổng hơn bao giờ hết. Chất thơ của người chiến sĩ được thể hiện qua cái nhìn với thiên nhiên ở 4 câu thơ tiếp theo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Hình ảnh “người đi” là sự chia tay của người lính với những người dân đã cưu mang họ, người lính ra đi trong một chiều sương mờ ảo. Trong làn sương ấy thấp thoáng những hình ảnh “cỏ lau”, “dáng người trên độc mộc” và đặc biệt là hình ảnh “hoa đong đưa”. Thiên nhiên hiện lên thật buồn, đó là nỗi buồn man mác, lưu luyến khi phải chia xa. Người lính phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ.

Nhà thơ Quang Dũng miêu tả hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến thật ngang tàn ở khổ thơ cuối:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chân dung người lính hiện lên thật khác lạ “không mọc tóc”. Nhà thơ đã đảo từ “không” lên phía trước, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc” cho thấy tinh thần bất khuất, hiên ngang của người chiến sĩ Tây Tiến. Quân xanh màu lá ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. Như vậy, người lính phải chịu những cơn sốt rét rừng, khiến cho làn da của họ không còn hồng hào mà trở nên xanh xao, gầy guộc cùng với mái tóc rụng hết. Trong hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn thản nhiên, ung dung với khí thế ngang tàn, không thèm mọc tóc.

Nhưng nhà thơ Quang Dũng không chỉ miêu tả chân dung người lính Tây Tiến mà còn cho thấy tâm hồn của họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Người lính nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm thức của người chiến sĩ hiện ra hình ảnh “dáng kiều thơm”, đó có lẽ là hình ảnh người yêu, người đang mong ngóng ngày họ trở về. Nhưng họ cũng chẳng rõ ngày mình trở về có được toàn vẹn hay không:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên, khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn trước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước là minh chứng cho việc các anh đã chiến đấu hết mình. Ở nơi chiến trường kia, biết bao người lính đã hy sinh không tiếc tuổi xuân của mình cho dân tộc. Hình ảnh “áo bào thay chiếu” cho thấy sự tiếc thương của nhà thơ dành cho họ, các anh đã yên tâm về với đất mẹ thân thương, để được đất mẹ chở che mãi mãi. Chứng kiến chặng đường của người lính, nay lại chứng kiến cả cái chết của các anh, sông Mã như gầm lên đau xót, tiếng thét vang lên mang âm hưởng tiếc thương sâu sắc với cuộc đời còn dài ở phía trước của họ. Nhưng dù có biết trước rằng mình có thể sẽ hy sinh, người lính Tây Tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đã lấy đi tâm hồn, chiếm được trái tim của các anh mất rồi:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Bài thơ Tây Tiến với ba khổ thơ, lần lượt khắc họa những khó khăn, những khoảnh khắc vui tươi cũng như chân dung và tâm hồn người lính. Qua đó làm hiện lên cho ta hình ảnh một đoàn binh oai hùng, bất khuất trong thời kì chiến tranh. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 16

Trong quãng đời người lính của Quang Dũng và có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy – những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến chắc chắn là quãng thời gian đáng nhớ nhất, in dấu sâu đậm hơn. Và thật là may mắn cho Quang Dũng và cho chúng ta, bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc, bao nhiêu vẻ đẹp và cả sự bi tráng của một quãng đời không thổ quên ở nơi miền Tây Tổ quốc cùng những người đồng đội đã được nhà thơ lưu giữ mãi mãi với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc: Tây Tiến. Bài thơ gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng, để khi nói tới Quang Dũng là nhớ ngay tới Tây Tiến, mặc dù ông cũng còn có những thi phẩm đặc sắc khác.

Bài thơ được hình thành và kết tinh từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính nhà thơ trong đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh thành những hình ảnh sống động. Thường thì những hình ảnh trong kí ức được gợi ra khó mà có một trật tự rõ ràng, nó có thể xáo trộn trình tự thời gian, không gian nhưng vẫn có một trình tự khác, đó là mạch cảm xúc của chủ thể. Ở đây mạch hồi tưởng đã làm lần lượt hiện lên những hình ảnh về Tây Tiến theo một trình tự vận động của tâm lí. Khởi đầu là hình ảnh những cuộc hành quân dãi dầu gian khổ giữa một khung cảnh miền Tây Tổ quốc hoang sơ, hùng vĩ, bí ẩn. Tiếp đó nỗi nhớ gợi về những hình ảnh tươi đẹp, rực rỡ, mềm mại và thơ mộng. Nổi bật lên trong đó là hình ảnh những thiếu nữ miền Tây trong đêm liên hoan lửa trại và vẻ đẹp huyền ảo trong sương khói buổi chiều tiễn biệt nơi Châu Mộc. Đến đây nỗi nhớ phải được kết tinh lại trong sự khắc hoạ tập trung, cận cảnh bức chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh của họ. Nỗi nhớ đã đi trọn mạch hồi tưởng của nhà thơ, đến kết thúc, tác giả muốn gửi trọn hồn mình lên với Tây Tiến và mảnh đất miền Tây. Nếu xem hành động sáng tạo thi ca là một sự giải toả những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ (cảm xúc ấy được ngưng kết từ sự sống đã chất chứa trải nghiệm của chính tác giả) thì Tây Tiến có thể coi là một ví dụ điển hình.

Bài thơ bắt đầu bằng nỗi nhớ, nỗi nhớ chất đầy trong lòng nhà thơ, cất lên thành lời:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”

Câu thơ vang lên như một lời bộc-bạch, lại như lời gọi trong đó chứa đựng cả sự nhớ nhung, tiếc nuối. Câu thơ bảy chữ mà có bốn chữ là tên riêng, và đó cũng là nơi gửi, chốn về của nỗi nhớ vùng đất miền Tây (mà sông Mã là đại diện) và đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ mở đầu này đã định hướng cho toàn bộ cảm xúc của bài thơ. Toàn bài sẽ là sự thể hiện cụ thể của hai hình tượng kết đọng nỗi nhớ của tác giả: miền Tây và người lính Tây Tiến.

Nỗi nhớ về một miền rừng núi đưa nhà thơ vào trạng thái đặc biệt, được gọi tên là nỗi “nhớ chơi vơi”. Trong nỗi nhớ ấy mọi kí ức hiện lên thành hình ảnh khi thì rõ nét, khi lại mờ ảo, nhưng đều sống động, lung linh.

Hình ảnh hiện lên trước hết là những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng của miền Tây:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Câu thơ đầu bảy chữ có đến năm chữ là thanh trắc (sắc, hỏi), gợi tả rất thành công con đường hành quân với những đèo dốc quanh co, khúc khuỷu, lên cao mãi. Câu thơ tiếp theo vẽ ra được độ cao thăm thẳm của đỉnh núi ngập vào trong những cồn mây. “Súng ngửi trời” vừa rất thực, lại vừa là cách nói rất tự nhiên, đậm chất lính. Câu thơ thứ ba như được ngắt làm đôi, vẽ ra hai chặng của con đường hành quân: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Câu thứ tư chỉ toàn thanh bằng chủ yếu là thanh không, mở ra một không gian xa, rộng ở bên dưới tầm mắt. Trong màn mưa phủ khắp đất trời, thấp thoáng hiện lên một vài đốm nhà, như bồng bềnh trên một biển mưa giăng khắp núi rừng. Bốn câu thơ tả cuộc hành quân này thuộc số những câu đặc sắc nhất của bài thơ. Bút pháp tạo hình gần với lối vẽ tranh thuỷ mặc, vừa làm nổi lên một vài điểm nhấn trên bức tranh bằng các chi tiết đặc tả, lại vừa tạo được không gian với ba chiều: cao, rộng, xa, bằng những nét vẽ mờ ảo, những khoảng trắng.

Những cuộc hành quân gian khổ, khắc nghiệt, triển miên đã khiến các chiến sĩ phải vắt kiệt sức lực và không ít người đã ngã xuống trên con đường hành quân. Cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng không hề bỏ qua sự khốc liệt ấy.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Lâu nay, hai câu thơ này vẫn được hiểu là nói về sự hi sinh của người lính trên đường hành quân. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây chỉ là hình ảnh vẽ sự mệt mỏi, kiệt sức với những giây phút thiếp đi của người lính giữa chặng hành quân. Dù là cách hiểu nào thì cũng đểu nói lên sự gian khổ, khắc nghiệt của những cuộc hành quân. Cần chú ý giọng điệu và từ ngữ ở hai câu thơ này: vừa thấm thìa, có một chút xót xa, nhưng lại có cái cứng rắn, hơi chút ngang tàng (bỏ quên đời). Cái dữ dội, hoang sơ và âm u, bí ẩn của thiên nhiên miền Tây được diễn tả rất ấn tượng trong các câu thơ 11, 12:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Đó cũng là những ấn tượng in đậm trong kí ức người lính Tây Tiến về miền Tây qua những cuộc hành quân, đặc biệt là ở những chiều, những đêm – có lẽ chính bởi trong những thời khắc này, cái hoang dã, bí ẩn, thâm u của rừng núi mới hiện ra rõ nhất. Hai câu cuối của đoạn 1 tạo một bước ngoặt về hình ảnh và cảm xúc, đồng thời lại chuẩn bị cho đoạn 2. Điểm đến của các cuộc hành quân, cũng là nơi đoàn quân có thể dừng lại nghỉ ngơi, thường là những làng bản. Một bữa cơm nóng bốc khói, hương vị ngọt thơm của xôi nếp, đó là niềm mong mỏi, niềm vui ấm áp của người lính sau một chặng dài hành quân. Bây giờ nó đã hiện ra trong kí ức, trong nỗi nhớ như có cả hương vị ngọt ngào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Cần chú ý nét đặc sắc của câu thơ cuối đoạn 1: các kết hợp từ mới mẻ, việc lặp lại phụ âm đầu ở hai từ “Mai Châu”, “mùa em”, câu thơ gồm hầu hết các tiếng có thanh bằng gợi cảm giác vương vấn, lan toả. Đoạn 2 của bài thơ mở ra những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên và con người nơi miền Tây: nét đẹp thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên và cái đẹp của tình quân dân thắm thiết, đậm đà. Một đêm liên hoan thắm tình quân dân được tả bằng những hình ảnh lung linh, rực rỡ dưới ánh đuốc và say sưa, lôi cuốn trong tiếng nhạc, điệu khèn. Những chữ bừng lên, hội đuốc hoa, kìa em liên tiếp nhau đã diễn tả niềm hào hứng, say sưa, ngỡ ngàng, thích thú của người lính trong đêm liên hoan và trước sự xuất hiện của các cô gái trong những bộ trang phục dân tộc rực rỡ. Bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp quyến rũ đầy tình tứ: Các cô gái dân tộc hiện ra đẹp lộng lẫy trong xiêm y rực rỡ, dưới ánh lửa đuốc lung linh, nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp; tất cả những vẻ đẹp ấy càng sống động, lôi cuốn trong tiếng khèn, điệu nhạc đặc trưng của các dân tộc. Chất tình tứ còn được thể hiện ở những hình ảnh, từ ngữ gợi liên tưởng đến một lễ cưới, hội đuốc hoa, nàng e ấp. Câu thơ “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” có thể gợi cho thấy cuộc liên hoan này diễn ra ở bên kia biên giới Việt – Lào. Nên nhớ rằng địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không chỉ ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam mà còn ở cả nhiều vùng thuộc các Xiêng Khoảng của Lào (ở đoạn kết bài có câu: “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”).

Bốn câu thơ tiếp theo (từ câu 19 đến 22) tả một cuộc tiễn đưa người đi Châu Mộc trong một chiều sương. Những câu thơ này lại mở ra một vẻ đẹp thật thơ mộng của thiên nhiên, cảnh vật đều nhoè mờ nhưng dường như chính vì thế mà có hồn hơn, mềm mại hơn. Những bông lau chập chờn, lay động trên những bến bờ như cũng có hồn, hay chính tâm hồn nhà thơ đã nhập cảm vào cảnh vật mà thấy được hồn của cảnh trong mỗi bông lau khẽ lay động, phơ phất. Cũng như vậy, những bông hoa dập dềnh trên dòng nước lũ cũng mang hồn cảnh vật, quyến luyến, tình tứ (hoa đong đưa chứ không phải là đung đưa). Nổi lên trên nền cảnh của bức tranh thiên nhiên thơ mộng là hình ảnh một dáng người vững chãi trên con thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp rắn rỏi, khỏe khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mềm mại.

Bút pháp trong đoạn 2 cũng có những biến đổi so với đoạn 1. Nét bút linh động, biến ảo, sử dụng ánh sáng và âm thanh tạo nên vẻ lung linh và nồng nàn tình cảm của một đêm liên hoan quân dân. Ở những câu thơ về một chiều Châu Mộc, vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng trong chiều sương của ngàn lau, thác lũ lại được vẽ bằng những nét bút tinh tế, mềm mại như những nét vẽ trong một bức tranh lụa hay tranh thuỷ mặc xen với đôi nét chấm phá tạo ấn tượng.

Cao trào trong mạch cảm xúc của bài thơ và cũng là hình ảnh trung tâm trong nỗi nhớ về Tây Tiến của tác giả là ở đoạn 3, khắc hoạ hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, lẫm liệt và bi tráng. Bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ bằng những nét có vẻ phi thường, khác lạ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

Cảm hứng lãng mạn, anh hùng đã giúp cho nhà thơ phát hiện và khắc hoạ được vẻ đẹp kiêu hùng của người lính, vượt lên, xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn. Hai câu thơ có âm hưởng độc đáo. Chữ đoàn binh có âm vang và mạnh hơn chữ đoàn quân, còn không mọc tóc thì gợi ra nét ngang tàng, độc đáo, như là người lính không cần, không thèm mọc tóc (mà thực ra thì chủ yếu là vì sốt rét làm rụng hết tóc). Câu thơ tạo được một hình ảnh mang vẻ hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến. Câu tiếp theo: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” càng tỏ đậm thêm hình ảnh ấy. “Xanh màu lá” là nước da xanh xao do sốt rét, thiếu thốn, gian khổ nhưng qua cảm hứng anh hùng và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ dữ dội của núi rừng chứ không hề gợi lên vẻ tiều tụy, ốm yếu.

Hai câu thơ tiếp theo lại bổ sung một nét đẹp khác cho hình ảnh người lính Tây Tiến: nét hào hoa của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn giàu mơ mộng. Trong những ngày tháng chiến đấu ở nơi núi rừng miền Tây xa thẳm và cực kì gian lao, khắc nghiệt, Hà Nội với những dáng kiều thơm vẫn hiện về trong giấc mơ là nỗi nhớ da diết, là cõi đi về trong mộng. Người lính cách mạng trong thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã từng bộc lộ nỗi nhớ bồn chồn về đôi mắt người yêu giữa đêm dài hành quân.

Nhưng Tây Tiến thuộc số ít những bài thơ nói về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng. Cái chết, dù là sự hi sinh, cũng không thể nào không gợi lên cảm xúc bi thương. Hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương viễn xứ lại càng nhân lên cảm xúc bi thương ấy. Nhưng câu thơ tiếp đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận, mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đây không phải là một cách nói của thi ca mà thực sự đã là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ Việt Nam trong những năm kháng chiến.

Cũng hiếm có trong thơ những câu thơ tả trực tiếp giờ phút vĩnh biệt những người đồng đội, như hai câu:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Người lính ngã xuống nơi chiến trường thiếu thốn, đồng đội chỉ có thể khâm liệm bằng chính áo quần đơn sơ của những chiến sĩ ấy (“Áo bào thay chiếu” cũng có người hiểu là dùng chiếu thay cho áo bào bọc thây, nhưng cách hiểu ấy có lẽ không đúng với hiện thực của đoàn quân Tây Tiến). Chữ áo bào gợi lên một nét cổ kính, trang trọng, nhưng không quá xa cách. Chữ về gợi tình cảm gần gũi, yêu thương: người lính hi sinh là trở về với đất mẹ, trong lòng Tổ quốc. Trong giây phút thiêng liêng về với đất mẹ của những linh hồn chiến sĩ, cũng là giây phút vĩnh quyết những người đồng đội, vang lên tiếng gầm của dòng sông Mã như một khúc độc hành bi tráng. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang Dũng đã truyền được vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót trong lòng người chiến sĩ khi phải vĩnh biệt đồng đội. Nhiều nhà thơ cũng dùng hình ảnh thiên nhiên để nói về sự hi sinh của người chiến sĩ. Tố Hữu khẳng định sự bất tử của những người cách mạng đã hi sinh bằng những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, trường tồn: “Những hồn Trần Phú vô danh – Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn”. Vũ Cao mượn hình ảnh bông hoa để bất tử hoá sự hi sinh của cô gái làng Xuân Dục:

“Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi đóa hoa thơm.”

Còn Nguyễn Đức Mậu thì ví cây trầm với cuộc đời người chiến sĩ:

“Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị

Thân hi sinh thơm đất, thơm trời.”

Những hình ảnh biểu tượng như thế thiên về ngợi ca sự cao cả và bất tử của sự hi sinh, làm mờ đi nỗi đau mất mát. Với hình ảnh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, Quang Dũng nói được nỗi đau thương ghê gớm nhưng không bi luỵ mà mãnh liệt, đầy sức mạnh.

Đến đây, mạch hồi tưởng những kỉ niệm về Tây Tiến đã đi trong quá trình vận động của nó, và nhà thơ lại trở về với hiện tại. Hiện tại, đó là sự xa cách vời vợi với những người đồng đội cũ, với mảnh đất miền Tây Tổ quốc:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Đó là sự xa cách dằng dặc trong không gian và thời gian. Nhưng vượt lên mọi sự xa cách, Tây Tiến đã trở thành một phần không thể chia lìa trong tâm hồn nhà thơ. Hay nói một cách mạnh mẽ và thấm thía hơn, thì tâm hồn nhà thơ đã mãi mãi lưu luyến với mảnh đất miền Tây, với Tây Tiến. Câu thơ chuyển sang dùng đại từ phiếm chỉ “ai”, bởi điều đó không chỉ riêng cho nhà thơ mà cũng là chung của tất cả những ai đã từng gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây.

Tây Tiến là một thi phẩm xuất sắc, kết tinh tâm hồn tài hoa và tài năng sáng tạo của cây bút thơ Quang Dũng trên nhiều phương diện nghệ thuật: hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh trong bài thơ khá đa dạng và dược sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Trong bài thơ có hai loại hình ảnh chính: thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng thời còn có hình ảnh về cuộc sống của đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến. Xem xét kĩ hơn, có thể nhận thấy ở mỗi loại hình ảnh (thiên nhiên, con người) cũng lại có hai dạng chính, tạo nên hai sắc thái thẩm mĩ phối hợp, bổ sung cho nhau. Thiên nhiên thì có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ (“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời”; “Chiều chiều oai linh thác gầm thét – Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”). Bên cạnh đó lại có những hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, đong đưa bóng hoa… (“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi – Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Châu Mộc chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”, “dòng nước lũ hoa đong đưa”). Hình ảnh con người cũng hiện ra với nhiều sắc thái, mà chủ yếu là hào hùng và hào hoa. Hào hùng là ở ý chí, tư thế hiên ngang, vượt lên và coi thường những gian khổ, thiếu thốn, hi sinh. Còn hào hoa là ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng. Tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp trong miêu tả, dựng hình ảnh. Có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây. Nếu hình dung theo cách của hội hoạ thì có thể thấy hai bút pháp chính: có những nét bút mạnh, bạo, khoẻ, lại có những nét vờn mềm mại tạo nên vẻ đẹp ẩn hiện mờ nhòe.

Đặc sắc trong ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hoà trộn của nhiều sắc thái phong cách với những lớp từ vựng đặc trưng. Có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính (chủ yếu là ở đoạn 3 miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ; lại có lớp từ ngữ thông tục, sinh động của tiếng nói hằng ngày, in đậm trong phong cách người lính: nhớ chơi vơi, súng ngửi trời, anh hạn, bỏ quên đời, cọp trêu người, …). Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ của bài thơ là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai Châu mùa em, hoa đong đưa, dáng kiều thơm, về đất, …). Sử dụng địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ của bài thơ. Các địa danh vừa tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người, lại vừa gợi được sự hấp dẫn của xứ lạ phương xa.

Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc. Ở đoạn 1, giọng chủ đạo là tha thiết, bồi hồi được cất lên thành những tiếng gọi, những từ cảm thán (“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”). Ở đoạn 2, khi tái hiện kỉ niệm về những đêm liên hoan thắm tình quân dân thì giọng thơ chuyển sang hồn nhiên tươi vui, rồi lại bâng khuâng, man mác khi gợi lại cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ nơi Châu Mộc. Giọng thơ trở nên trang trọng, kiêu hùng., rồi lắng xuống bi tráng ở đoạn 3, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh của họ. Ở đoạn cuối, giọng thơ trở lại bâng khuâng, đau đáu một nỗi nhớ da diết trong sự xa cách, chia phôi với những người đồng đội và miền Tây.

Tây Tiến là một đài kỉ niệm bất hủ bằng thơ, khắc ghi những hình ảnh và rung động của một thời hào hùng, khốc liệt, của một thế hệ trẻ đã từng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 17

“Có một bài ca không bao giờ quên…”

Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đó là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị… tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.

Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”

Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến? Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi” ! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi”

Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lí. Cũng vẫn sử dụng vần “ơi”, câu thơ có sức lan toả rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.

Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi: “Nhớ về rừng núi…”. Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu. Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:

“Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng, chí không mòn !”

Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.”

Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.

Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ. Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa”

Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:

“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:

“Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. Những khó khăn lại đến:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ… tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ. Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt tác giả:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da xanh xao “màu lá”. Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:

“Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.”

Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ sống để chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:

“Mắt trừng gởi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây không làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hoà mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !

Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ.”

Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừng núi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu phương gởi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương ? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sự ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngủ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hoà vào đất mẹ. Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi.”

Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến! Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 18

Những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các tác giả thời kì này. Là một gương mặt nổi bật của văn học giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, Quang Dũng mang trong mình thần thái, cốt cách rất riêng: vừa đậm chất cứng cỏi, khiên cường của một người lính, đồng thời cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa. Hai tính chất tưởng chừng như đối lập, khó có thể hòa hợp với nhau lại được Quang Dũng kiến tạo một cách hoàn hảo qua bài thơ Tây Tiến. Chất bi tráng và lãng mạn chính là điểm nổi bật tạo nên thành công cho tác phẩm này.

Cảm hứng lãng mạn có thể coi là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này. Cảm hứng lãng mạn được hiểu là cảm hứng tìm kiếm và khẳng định cái tôi cá nhân độc đáo, phi thường, đầy lí tưởng hóa. Bởi vậy, trong các tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn thường phát huy trí tưởng tượng phong phú, sử dụng các thủ pháp khoa trương, phóng đại, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, tạo hình. Để từ đó càng làm nổi bật hơn nữa cái tôi cá nhân của tác giả. Văn học giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, cảm hứng lãng mạn được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất trong chân dung những người lính, người chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.

Tây Tiến là bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, ngay từ những câu thơ đầu tiên nỗi nhớ da diết, ngập tràn đã bủa vây lấy toàn bộ tác phẩm:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Nỗi nhớ man mác mà sâu đậm trải dài trong hai câu thơ đầu, và cứ thế tạo nên mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Tây Tiến được sáng tác khi ông đã rời binh đoàn của mình và nhận nhiệm vụ khác nhưng những năm tháng chiến đấu bên đồng đội là những năm tháng đẹp đẽ khiến ông không thể nào quên. Cũng bởi vậy mà ban đầu bài thơ này có tên là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó mới được chỉnh lí lại thành Tây Tiến – cô đọng súc tích hơn. Dù chữ nhớ trong nhan đề bài thơ đã được lược bớt đi, nhưng cũng không thể nào làm vơi bớt nỗi nhớ của ông đối với mảnh đất và con người nơi đây. Chữ “ơi” thật thân thương, da diết, như lời tâm tình với núi rừng, với quê hương, bản quán của mình. Và nỗi nhớ ấy nhân mãi lên, để đến câu thơ thứ hai, ông khẳng định trực tiếp “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Cách ông dùng từ cũng thật đặc biệt và đầy lãng mạn “nhớ chơi vơi”. Nhớ chơi vơi là gì? Là nỗi nhớ da diết, buâng khuâng trong lòng, nhẹ nhàng mà thấm đượm, khiến người ta khắc khoải chẳng thể nào quên.

Dưới đôi bàn tay tài hoa của Quang Dũng thiên nhiên nơi đây hiện lên vừa dữ dội, oai linh vừa thơ mộng, đẹp đẽ. Những cung đường đèo với vực sâu thăm thẳm khiến bất cứ ai đi qua cũng phải run lên sợ hãi, được tác giả tái hiện qua hệ thống ngôn từ giàu chất tạo hình:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Hay:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Từ hiện thực khách quan, nhưng bằng con mắt lãng mạn, đầy tài hoa của người nghệ sĩ, ông đã vẻ nên khung cảnh vô cùng độc đáo, hùng vĩ, dữ dội. Những làn mây nặng trĩu, trắng xóa sà xuống khiến cả đoàn quân phải hành quân trong mờ mịt cùng với những ngọn núi trùng điệp, nối tiếp nhau, không khỏi khiến họ rã rời trong cái lạnh của núi rừng. Không chỉ vậy, những người lính còn phải đối mặt với thác cao, vực sâu. Ba câu thơ được ngắt nhịp 4/3, sử dụng đa phần thanh trắc gợi nên cái gân guốc rắn rỏi của đoàn quân và còn gợi lên cái hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên. Người đọc hình dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc khuỷu gập ghềnh đường đi lên, rồi lại thăm thẳm hun hút đường đi xuống. Ngoài ra ông sử dụng linh hoạt các từ láy giàu sức tạo hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan mà người lính phải đối mặt. Không chỉ phải trải qua khí hậu, địa hình khắc nghiệt, mà họ còn phải đối mặt với những loài thú dữ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường hịch cọp trêu người”. Tất cả những từ láy, cách ngắt nhịp đó đã cho ta thấy sự kiên cường, anh dũng của người lính, họ phải trải qua bao nhiêu khó khăn mới có thể tiến tới thành công.

Nhưng thiên nhiên ấy không chỉ có sự hoang sơ, hùng vĩ mà bên cạnh đó còn là một thiên nhiên hết sức thơ mộng, trữ tình. Cuộc sống con người, và khung cảnh thiên nhiên là một nét chấm phá đặc biệt, đem đến sự ấm áp, lãng mạn cho con người. Sau những gian nan, vất vả, người lính mới có cơ hội nghỉ ngơi, mới được cảm nhận hơi ấm của gia đình để có thêm động lực tiếp tục lên đường. Những người dân Thái, Mường,… được miêu tả đầy tinh tế, lãng mạn qua hình ảnh những người con gái trẻ tuổi, xuân thì trong điệu nhảy e ấp, đầy tình tứ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ…”. Còn khung cảnh thiên nhiên lại được Quang Dũng phác họa trong buổi chiều sương lãng đãng trước giờ phút chia tay: Người đi châu mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ…”. Cả không gian trở nên mơ hồ, huyền ảo, vừa hư vừa thực khi có những màn sương giăng mắc. Bến bờ như trở về thời tiên sử, chỉ có hàng lau trắng trải dài đến vô tận. Giản dị, gần gũi mà ấm áp lòng người, đây chính là không gian họ tiễn biệt nhau, trao gửi nhau những lời chúc, những tình ý, tiếp sức cho họ lên đường.

Không chỉ dừng lại ở đó cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm còn được thể hiện trong việc ông sử dụng linh hoạt các thủ pháp lãng mạn, phóng đại, cường điệu, khiến người đọc ấn tượng sâu sắc về cái hùng vĩ, hào hùng của thiên nhiên và con người nơi đây.

Không chỉ có những nét vẽ lãng mạn, mà Tây Tiến còn mang trong mình cả tinh thần bi tráng. Tinh thần bi tráng có thể hiểu là việc miêu tả hiện thực một cách trần trụi, không né tránh, không tô hồng hiện thực khắc khổ. Cái bi đó không phải là bi lụy, yếu đuối mà mà bi tráng, đầy hào hùng, lẫm liệt. Đoàn binh tây Tiến cũng được Quang Dũng khắc họa như vậy. Nói đến cái chết, khó khăn, nhưng không hề oán trách mà đầy kiêu dũng, hào hùng.

Tính chất bi tráng của đoàn binh Tây Tiến trước hết là ở ngoại hình. Họ được Quang Dũng giới thiệu vô cùng độc đáo: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oại hùm”. Hai câu thơ vừa cho thấy dáng vẻ vừa cho thấy cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ của họ. Những cách nhìn nhận lại rất ngàng tàng, trẻ trung, đậm chất lính, ẩn chứa trong đó là sức mạnh tinh thần lớn lao, uy phong, lẫm liệt. Không chỉ vậy họ còn có thế giới nội tậm vô cùng phong phú. Đôi mắt trừng lên chứa chan lòng căm thù giặc, dữ dội, mạnh mẽ gắn liền với sự hùng tráng của nhân vật trữ tình, nhưng lại cũng rất lãng mạn với giấc mơ về những cô thiếu nữ Hà Thành.

Tác phẩm có nói đến cái chết, có đau thương, mất mát, nhưng không hề bi lụy: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đã biết bao người đã anh dũng ngã xuống vì độc lập của đất nước, nhưng tuyệt nhiên không một ai hối tiếc, bởi họ đang phấn đấu cho lí tưởng cao đẹp nhất của cuộc đời mình. Dù trở về đất mẹ, không một manh chiếu bọc thân, chỉ có tấm áo sờn rách đưa anh về đất nhưng Quang Dũng đã biến hiện thực khắc nghiệt, bi thương đó thành cuộc tiễn đưa đầy bi tráng của con người và thiên nhiên: “Áo bào thay chiếu, anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Anh đã mang cả thân hình, cả tâm hồn hóa thân vào dáng hình xứ sở.

Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã được Quang Dũng vận dụng một cách tài tình, nâng đỡ nhau tạo nên một tác phẩm bất hủ. Tác giả đã đem đến bức tranh chân dung chân thực nhất, đầy đủ nhất về cuộc sống, chiến đấu của những người lính, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ tuổi hào hoa, yêu nước, yêu đời. Sự hòa quyện giữa các yếu tố này đã tạo nên sự thành công của tác phẩm trong lòng bạn đọc.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 19

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác heo may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” Đất nước – Nguyễn Đình Thi

Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu của những chàng trai Hà thành thì ở bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng sẽ là người tái hiện trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ. Mà chỉ gọi Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết văn, làm thơ cho đến vẽ tranh, soạn nhạc. Đa tài là thế nhưng đời sống của ông vẫn luôn xoay quanh những câu chuyện bình dị, giản đơn. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có thể nói để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ Tây Tiến. Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong mấy thập kỷ. Tây Tiến đã đưa tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật của người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.

“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể chưa được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần Phương đã dành những lời này để nói về hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng, bởi thơ ông được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương thép, chưa rắn rỏi như súng đạn nơi biên cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy mà vẫn được truyền lưu rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh chân thực, làm sao có thể ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho đến cuối năm 1948 thì phải chuyển đơn vị. Nỗi nhớ ngày một dâng trào và dòng cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh (Hà Tây). Về sau, bài thơ được chính tác giả đổi tên thành Tây Tiến và chính thức in lần đầu trong tập “Mây đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con trai mình là Quang Vĩnh về sự thay đổi này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để chữ nhớ là thừa, không cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, Tây Tiến nghĩa là đoàn quân tiến về phía tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng hơn nhiều, nỗi nhớ da diết hơn nhiều.

Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến cuộc vận động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi dấu bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một lời gọi tha thiết:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay còn được gọi là sông La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, bao giọt nước mắt ly tan hay vỡ òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm, điệp từ “nhớ” lúc này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi nhớ, ta có thể hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vuu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ, “nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con đường hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo độc đáo, nỗi nhớ không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền ảo như một làn sương hoài niệm chẳng lúc nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” Nhị Hồ – Xuân Diệu

Là một sự sắp xếp khéo léo hay tình cơ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”, “vơi” “hơi” cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở rộng chiều kích cho nỗi nhớ. phải chăng là một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu tâm tư để mời gọi, hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu của tôi đi, họ đã mạnh mẽ chiến đấu đến chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu thơ sau”

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều thấy được vẻ heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó khăn, thử thách chờ chực, ý chí người lính ra sao. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và “đoàn quân mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu, họ hành quân trong sương mù lạnh giá, sương giăng che lấp cả đoàn như phủ lên những tâm hồn mỏi mệt một lớp chăn mềm mại, chỉ là sao khắc nghiệt quá, một chữ “mỏi” mà khiến bài thơ như có hồn tâm sự. Cũng bởi vì một chữ “mỏi” mà bao cuộc tranh luận xảy ra giữa những người cầm bút giành lại giá trị chân chính cho tác phẩm. Khắc nghiệt là thế nhưng “hoa về trong đêm hơi” lại là một hình ảnh lãng mạn biết bao. Có người nói “hoa” ở đây là hương hoa rừng con vương vấn, có người lại cho rằng tác giả ví người lính là bông hoa thơm dịu, tinh khiết kia, kì thực có một chút không hợp. Nhưng nếu nói “hoa” trong bài thơ, là ánh sáng chập chờn, phập phồng của ngọn đuốc thì thực sự khiến hình ảnh thơ trở nên đẹp đẽ vô cùng. Đoàn quân trong đêm tối “đỏ đuốc từng đoàn” đi đến đâu tan sương đến đó, như những bông hoa đỏ trong đêm vượt màn sương nở rộ vậy. Một câu thơ mà vừa bi tráng, vừa lãng mạn, chỉ có thể là con triện riêng của Quang Dũng mà thôi.

Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài hòa chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng khoáng của ông. Nói như nhà thơ Vân Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây qua đỉnh Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông chiến trận qua ngòi bút Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.

Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để khắc họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian khổ. Ngang tầm với núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ được gieo thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo leo, gập ghềnh. Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người lính vất vả, từng hơi thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Đảo ngữ một cách khéo léo đã giúp cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh đậm chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức ngập vào những cồn mây trắng như ngọn đuốc hiên ngang phía sau tàn sương mà chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng vừa thấy được sự tinh nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô cùng, vô tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc dựng đứng, lên tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao nhiêu là gian khó. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà nhìn lưng chừng sườn núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra một không gian xa và rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về phía xa, trong màn sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh tưởng phút chốc lại trở nên lãng mạn biết bao, đâu còn những khung cảnh trần trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một trong những bằng chứng thi trung hữu họa vô cùng đắt giá của Quang Dũng.

Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con đường hành quân của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp gam màu nóng lạnh đã gợi ra những nét vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ nhờ vậy mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là lấy cái nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.

Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật tàn khốc của chiến tranh:

“Lúc nào tôi cũng nghĩ một ngày Bỏ súng về ôm những gốc cây Tìm hốt hết thịt xương đồng loại Ôm thật đầy trên những cánh tay” Trong đêm mưa tiền đồn – Nguyên Dương Quang

Là những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước mắt chực rơi nhưng phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành những cảm xúc chân thành nhất để viết:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới vai kề vai mà quay đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau thương của những người lính. Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm đang dần ngã xuống. Các anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở một tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn dành cho núi song vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt hướng về đồng đội lần cuối. Bom đạn mù mịt che đi những người mà anh yêu quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ, toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của âu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê Anh Xuân cũng có những câu thơ:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” Dáng đứng Việt Nam

Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng động đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi ngày dài mà bộ đội đối mặt với gian nan nơi rừng núi Tây Bắc. Chiều cho đến đêm là lúc màn sương bắt đầu bao phủ, trời cứ thế tối dần mà không biết dưới chân mình là gì. Nhất là “tháng chạp màn sương trùm Đất Nước”, nguy hiểm chồng chất nguy hiểm, thế mà: “thác gầm thét” thử thách nỗi sợ của con người. Địa danh Mường Hịch được tác giả khéo léo đưa vào câu thơ, hai tiếng nặng trịch như tiếng chân hổ bước trong đêm. Hiện thực “hiểm ác” lại một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa của người dân Tây Bắc.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài niệm mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân thật vừa trữ tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã khắc họa tình quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân dân thì có lần Quang Dũng chứng kiến người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống, đồng đội anh lúc ấy bị thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang Dũng cầm súng trên tay để bảo vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em” đây là một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn quân Tây Tiến đối với những con người nơi đây.

Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với đó là nỗi nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi nhớ “chơi vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng định “nhớ ôi Tây Tiến” là cảm xúc chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước từng bước hiên ngang chẳng hề lo sợ.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn Tây Tiến cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo từ bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng với những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần này là hoa chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được sống hay không nên cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng với câu hỏi tu từ “tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những người lính, vừa ngạc nhiên, thú vị vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã gợi ra nét thanh thoát e thẹn ngại ngùng của những cô gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ thiêng liêng tiến về phía trước phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy mà “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí phách của người lính. Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là một buổi chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn bước qua nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm trong sự hoài niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện những khoảng lặng như thế. Tác giả hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng định. Quang Dũng đã xuất sắc để người đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường trực trong tâm trí ông. Các cụm từ như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh sinh động hơn hẳn. Độc giả có thể hình dung cả vạn bông lau phất phơ theo gió như có hồn người tiễn chân các anh ra trận. Phía xa là những cô gái Thái với dáng hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc vượt qua dòng lũ sông Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn tình từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh thoát luôn tạo cảm hứng cho Quang Dũng

“Lá tím lá xanh đường gội nắng Hoa vàng nhạt nhạt nhớ phiêu lưu Lối đi khác khỏi lời chim nói Ve vãn tương tư mảnh gió chiều” Giang hồ – Quang Dũng

Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người đọc thế giới của cái đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến “ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”, chất thơ và chất nhạc được Quang Dũng hòa quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu du dương không cần người sướng. Nếu rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Và thơ của Quang Dũng thì vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.

Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng thêm phi thường, bi tráng

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùng Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức của nhà thơ, lại nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc phi-lô-dốp của mình. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của mình lắm. Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh còn xông pha chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện mạo mới chẳng còn dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu xanh lá ngụy trang trong lối đánh du kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của người lính chịu cơn sốt rét nhưng vẫn kiên cường.

Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành tựu văn cường bất khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ tợn, oai phong của “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về chiến tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa cảm thương vừa khâm phục những người lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài thơ, sau khi dùng như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những câu thơ của một tâm hồn lãng mạn, tài hoa.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang tấc, tâm hồn họ lại nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng” vừa là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có thể hình dung về người lính trong những đêm nhớ nhà, nhớ quê, họ trằn trọc với tấm chân tình đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường hành quân ngày mai. Mặt khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của người lính, họ có thể ngã xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao giờ dập tắt được. Đều là những chàng trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên đi mối tình chóng vánh mới nở ở quê nhà yêu dấu để bước chân lên đường chiến đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới bảo vệ được người mình yêu, mới cho người mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc. Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám xuất hiện trong đêm mơ. Câu thơ có vậy mà đã gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức họ không cấm thanh niên họ đọc Werther mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ đọc Romeo et Juliette mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy mình thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” Hai câu thơ diễn tả tâm trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi nỗi nhớ qua biên giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ mong chiến thắng.

Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba đã khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là một trong những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp Quả là không sai.

Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ trong giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua Tây Tiến, lý tưởng quên mình đó không còn sự bi lụy, thê lương

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương thì ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở đầu câu thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm bức tranh nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đối mặt với bom đạn tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát thịt. Cuộc đời của những chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã phụ lòng chờ đợi của những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình cho sự nghiệp của Tổ quốc. Đúng, đó chính là tinh thần trong câu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng hay khói lửa cũng chẳng làm mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái chết

“Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ vẫn được xem như những vị quan thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận nơi sa trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần thơ của Quang Dũng.

Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ trở về đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa “sông Mã gầm lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ đang hào hùng bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. “Sông Mã cọp gầm”, ngay cả chúa rừng xanh cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi như dâng một khúc ca hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho khí thế đoàn quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì quê hương, vì trả thù.

Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân thực cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách. “Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng).

Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng hồi ức:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần quyết chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía sau. Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy “thăm thẳm” khiến ta bất giác rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra lời đanh thép như thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại, đồng đội vẫn tiếp tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ nữa. Ông dùng sự dứt khoát để dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh thần quyết thắng của cả toàn quân. “Mùa xuân ấy” hẳn là mùa xuân thành lập, mùa xuân hi vọng chiến thắng của đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị nhưng một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ, chẳng cần trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu hùng mấy thập kỷ, Tây Tiến vẫn luôn là một rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn lôi cuốn và những bí ẩn trong câu thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ một lần nữa”.

Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang tầm chiến lũy”, cho thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá. Bản viết tay với những con chữ nguệch ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn nguyên, đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng núi Tây Bắc và những đêm ngày vất cả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy. “Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của hào khí ấy”. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế, sau này chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 20

Thầy Chu Văn Sơn từng nói: “Người ta thường nói cuộc đời mỗi một người nghệ sĩ thường gắn với một vùng đất, một vùng văn hoá thẩm định nhất định. Nếu Hoàng Cầm yêu dòng sông Đuống lấp lánh hiền hoà, Thanh Hải xao xuyến với dòng sông Hương xanh biếc, Tế Hanh tha thiết nhớ con sông quê hương thì Quang Dũng trong những năm tháng gắn bó với đoàn binh Tây Tiến lại kết thân với dòng sông Mã”. Và quả thật Tây Tiến đã thể hiện nỗi nhớ của mình qua bài thơ Tây Tiến, vũng văn hoá gắn với tên tuổi của ông chính là Tây Bắc.

Mở đầu bài thơ Tây Tiến nhà thơ đa tài ấy đã cất lên những nỗi nhớ thương tại Phù Lưu Chanh. Dù không ở Tây bắc nhưng hồn nhà thơ như nhớ lại biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp và nỗi nhớ ấy như một sự chứng minh cho sự trân trọng của nhà thơ cho những năm tháng gian nan mà hào hùng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Hình ảnh con sông Mã gắn liền với những kỉ niệm của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã xa rồi Tây Tiến cũng xa rồi chỉ còn mình nhà thơ và nôi nhớ đồng đội. Tiếng ơi kết hợp với “chơi vơi” giống như một tiếng gọi tha thiết. Đồng thời nó cũng làm cho những kỉ niệm kia dội vào không gian như đánh thức biết bao nhiêu là niềm vui nỗi buồn sự khổ cực.

Nhớ rừng núi Tây Bắc nhà thơ lại nhớ đến những địa danh như Saì Khao, Mường Lát. Hai địa danh ấy gắn liền với những cuộc hành quân của họ. Đoàn quân Tây Tiến phải ra đi từ lúc còn tờ mờ sáng và về lúc đêm tối đã bủa vây. Tiếng “hơi” kia để chỉ cái đêm nhẹ sau những cuộc hành quân vất vả hay nó chỉ hơi sương đã buông xuống cả khu rừng. Hình ảnh hoa về là những người chiến sĩ hay cũng chính là những bó đuốc trong đêm sáng rực.

Nhà thơ tiếp tục nhớ đến những phút giây hành quân vượt qua mọi khó khăn của địa hình. Một bức tranh thiên nhiên tây bắc hùng vĩ hiện lên thật sự rất đẹp:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Bốn câu thơ như điểm sáng của bài thơ khi vừa thể hiện được vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc vừa thể hiện được ý chí cao ngất không chịu lùi bước khuất phục của những người chiến binh Tây Tiến. Ba câu thơ đầu hầu như là vần trắc khiến cho câu thơ khi đọc lên cũng mang đầy những trúc trắc. Điều đó thể hiện sự gian nan khó khăn mà Tây Tiến phải vượt qua trên chiến trường. Từ láy “khúc khuỷu” thăm thẳm như lột tả hết độ cao độ sau của núi rừng Tây bắc.

Thế nhưng người lính Tây Tiến vẫn kiên cường vượt qua để cho ngọn súng kia dương cao như chạm mây ngửi trời. hình ảnh nhân hoá ấy làm cho cây súng của chiến binh Tây Tiến dũng mãnh hơn biết nhường nào. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống thế mà không biết một ngày những người lính ấy phải len bao nhiêu lần và xuống bao nhiêu lần.

Thế rồi nhà thơ bất ngờ kết thúc bằng một câu toàn văn bằng thể hiện sự êm ả sau những trận đánh hành quân ấy. Sau những giây phút kiên cường chống lại những khẩu súng viên đạn của địch thì các chiến sĩ lại được về với tình dân quân ấm áp, những trận mưa như làm cho tâm hồn con người trở nên thanh bình hơn.

Sự hi sinh của những người Tây Tiến cũng được tác giả nói giảm nói tránh đi để nhường lại cho những nỗi nhớ và tránh những mất mát đau buồn:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Không nói là hi sinh cũng không nói là chết mà nhà thơ nói là dãi dầu, buồn nên không bước nữa. Qua cách nói như vậy ta cũng thấy được những người Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Họ sẵn sàng hi sinh để đổi lại một đất nước sạch bóng quân thù. Những người chiến binh cứ thế gục lên súng mũ bỏ quên đời. thế nhưng cái bỏ quên ấy lại làm nên một đất nước hôm nay.

Thiên nhiên Tây bắc lại hiện lên với hình ảnh của thú dữ. giọng thơ như hóm hỉnh khi nói cọp trêu người. sau bao vất vả người lính Tây Tiến lại về với Mai Châu thơm nếp xôi.

Trong những tháng năm ấy Quang Dũng không chỉ được sống trong tình bè đông chí mà còn được sống trong tình quân dân thắm thiết vui tươi.

Trước hết là cảnh cùng nhau liên hoan văn nghệ với những người con gái Viên Chăn xinh tươi e ấp:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, từ “kia” thể hiện sự ngạc nhiên của người chiến sĩ trước vẻ đẹp của những người con gái Lào trong trang phục xiêm áo truyền thống. Những tiếng khèn cất lên thì nàng bắt đầu e ấp múa. Tiếng nhạc điệu múa ấy như gửi về Viên Chăn thủ đô thương nhớ của Lào. Các chiến sĩ như được thả mình vào trong những giây phút vui vẻ của hội thế.

Thế nhưng cuộc vui nào cũng có chia tay và người chiến sĩ Tây Tiến sau những phút giây vui vẻ ấy lại phải lên đường làm nhiệm vụ:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến ra đi trong chiều sương, cái không gian ấy như thể hiện cho bao nhiêu gian nan mà các anh sắp phải đối mặt, cái không gian ấy cũng nói lên tâm trạng của kẻ ở người đi buồn thương tiếc nuối. Người ra đi thiên nhiên cũng buồn, lau như có hồn mà nẻo bến bờ rũ xuống như ngả chào người chiến sĩ. Người ở lại buồn chèo thuyền độc mộc đưa các anh qua sông. Những dòng nước lũ với hoa trôi đong đưa. Cảnh vật cũng như có hồn,có thần biết buồn biết thương cho những người chiến sĩ.

Khổ thơ tiếp theo Quang Dũng miêu tả đến những đồng chí trong đoàn quân Tây Tiến ấy:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Tất cả những nét ngoại hình ấy cho ta thấy được những gian nan vất vả mà người Tây Tiến phải trải qua. Không mọc tóc la do điều kiện chiến tranh rừng thiêng nước độc làm cho các chiến sĩ rụng hết tóc hay là do chính các chiến sĩ cạo trọc đi để tiện cho chiến đâu. Quân xanh kia là màu áo, màu ba lô con cóc mũ tai bèo hay là sự xanh xao do thiếu thốn. Tóm lại dù hiểu theo cách nào thì nhà thơ cũng muốn người đọc thấy được đoàn quân Tây Tiến tuy ốm nhưng không yếu vẫn dữ như chúa tể của muôn loài.

Hình ảnh mắt trừng như thể hiện được những cái tức giận của các chiến sĩ với kẻ thù mong muốn biên giới sạch bóng quân thù. Hay hình ảnh mắt trừng ấy cũng là không ngủ được khi mơ về những dáng kiều thơm của Hà Thành. Câu thơ ấy được coi là mộng rớt buồn rơi, vì thế mà có thời Tây Tiến đã bị cấm nhưng về sau chính giá trị của nó đã làm nên sức sống đến ngày hôm nay.

Trong trận chiến ác liệt ấy không biết bao nhiêu người chiến sĩ Tây Tiến đã hi sinh, nhưng họ sống đã đẹp chết đi cũng tác vào lịch sử những nét đẹp về bức tượng đài bất hủ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Họ hi sinh nhưng không được chôn cắt đàng hoàng bởi chiến tranh người chết như ngả dạ. Chính vì thế mà rải rác biên cương là những nấm mộ tuềnh toàng sơ sài khắp nơi. Thế nhưng họ đã quyết chí lên đường thì không hề tiếc thời trai trẻ. Họ sống có lý tưởng vững chắc. Và khi họ mất đi một mảnh chiếu che người cũng trở thành áo bào để anh về với cát bụi. Con sông mã gầm lên như thể hiện nỗi tiếc thương những người chiến sĩ ấy.

Có thể nói nhà thơ đã sử dụng những từ hán việt làm sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng hơn. Và thành công của Quang Dũng là đã xây dựng lên bức tượng đài bất hủ của người lính bằng thơ. Và giờ đây khi lên Tây bắc thì hồn về Sầm Nứa nơi có những kỉ niệm những đồng đội chứ không về xuôi.

Như vậy qua đây ta thấy Quang Dũng đã bày nỏ lòng nhớ nhung vô hạn đến đơn vị cũ của mình. Tây Tiến cái tên ấy sẽ chẳng bao giờ bị lu mờ bởi thời gian mà nó cứ mãi sáng chói bất hủ trong lòng mỗi con người. Những lí tưởng, những hi sinh của họ sẽ luôn là công lao lớn cho dân tộc.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 21

Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn cũ và sáng tác ra bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến “sông Mã” và đoàn quân Tây Tiến với một tiếng gọi thật tha thiết, trìu mến. Tiếp đến, điệp từ “nhớ” đã cho thấy cảm xúc chủ đạo của bài thơ – nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng. Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông” gợi về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ. Từ láy “khúc khủy”, “thăm thẳm” nhằm khắc họa hình ảnh con dốc hiểm trở. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn hiên ngang – mũi súng trên vai được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời”. Họ hành quân trong đêm mưa không biết mệt mỏi, trong tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng của đại ngàn. Sau những đêm hành quân gian khổ, họ dừng chân bên xóm làng, mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ.

Đến khổ thơ thứ hai, Quang Dũng đã khắc họa đêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong. Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là tả thực những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc.

Khổ thơ thứ ba là bức chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát:

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Ở nơi chiến trường gian khổ, mọi công việc sinh hoạt đều diễn ra một cách đơn giản nhất. Chính vì vậy, họ đã chủ động chọn cách cắt đi mái tóc của mình để thuận tiện cho cuộc sống. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” còn nói về một thực tế khốc liệt nơi chiến trường. Những cơn sốt rét rừng khiến cho người lính bị rụng hết tóc. Tiếp đến là hình ảnh ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu cho người đọc. Cách thứ nhất đó là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai đó chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Cả hai cách hiểu đều cho thấy sự khó khăn mà người lính đã phải trải qua trong chiến đấu.

Họ không chỉ dũng cảm, mà còn rất thơ mộng. Những người lính Tây Tiến đều xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ xung phong vào nơi chiến trường trận mạc trở thành những người lính nhưng vẫn mang giữ tâm hồn của những chàng sinh viên. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” – đó là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Nhiều nhà nghiên cứu khi đọc câu thơ này của Quang Dũng đã cho rằng nó mang cái “buồn rớt, mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản. Nhưng ở đây không phải vậy, qua hình ảnh trên, nhà thơ muốn khắc họa nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương của người lính Tây Tiến.

Bốn câu thơ sau khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến. Nghệ thuật đảo ngữ: “Rải rác” – “biên cương mồ viễn xứ” kết hợp với từ láy “rải rác” và từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khiến cho giọng thơ bỗng nhiên trở nên trang trọng hơn. Hình ảnh này gợi ra đây không chỉ là một cái chết mà là nhiều cái chết. Khắp nơi trên mảnh đất này đều có mộ của những chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng dù đồng đội của các anh đã ra đi, nhưng các anh vẫn nguyện đem thân mình dâng hiến cho tổ quốc. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định. Những người lính nguyện đem thân mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Các anh chẳng tiếc nuối những năm tháng tuổi trẻ. Nhưng làm sao mà không tiếc nuối cho được? Họ mới chỉ là những chàng trai tuổi mười tám đôi mươi còn nhiều thơ mộng. Nhưng vì lý tưởng cách mạng người lính vẫn nguyện hy sinh tất cả. Hình ảnh “áo bào” gợi ra hai cách hiểu sâu sắc. Những người lính khi ra đi, đồng đội của các anh không có gì để chôn cất nên các anh phải dùng những chiếc áo còn nguyên vẹn thay thế. Nhưng “áo bào” con mang ý nghĩa thiêng liêng – đó là tấm chiến báo khoác lên mình những chiến tướng. Người lính ra đi nhưng họ đã để lại những chiến công vang dội giống như những vị tướng thời xưa. Với hình ảnh này, người lính đã được bất tử hóa. Các anh không chết đâu, các anh vẫn mãi sống trong lòng của người dân Việt Nam. Cuối cùng là hình ảnh con sông Mã: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Trước sự hy sinh ấy, con sông Mã – con sống gắn bó với cuộc sống người lính Tây Tiến tại núi rừng Tây Bắc dường như cũng không thể im lặng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sông Mã vốn là vật vô tri vô giác lại được nhân hóa qua động từ “gầm”. Cái chết của các anh khiến cho thiên nhiên cũng phải thương xót mà vang lên khúc tráng ca tiễn biệt.

Khổ thơ cuối cùng là lời Khái quát những ngày Tây Tiến và những kỷ niệm không thể nào phai. Tây Tiến người đi không hẹn trước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi” như một lời báo hiệu về sự ra đi mà không có lời hẹn trước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc. Hai câu thơ cuối: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” gợi nhắc về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến không thể nào phai mờ.

Như vậy, bài thơ Tây Tiến đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 22

“Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không? Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa. Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già… Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhòa sắc ban.”

(Nhớ Tây Bắc, Phạm Ngọc San)

Chẳng biết tự bao giờ, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt là với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).

Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng khuâng hụt hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của núi rừng Tây Bắc, ngân vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm thấm tràn đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên mênh mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi Nhớ chiếu bạn trải Nhớ chăn bạn nằm”

Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không đúng. Hai chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó diễn tả những thứ như không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.

Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến đã hành quân qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng bảng lảng trùm lên con sông, ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm, tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp đập thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống.

Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn, khốc liệt.

Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một ẩn số đối với con người.

Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.

“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:

“Đèo cao thì mặc đèo cao Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”

Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có cảm giác những ngôi nhà trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.

Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”. Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt, khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc cho nên rất nhiều chiến sĩ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ dở dang:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục bên súng mũ bỏ quên đời”

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.

Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm áp tình quân dân:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.

Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.

“Khèn lên man điệu nàng e ấp”

Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu của Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.

Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.

Cách sử dụng từ ngữ ” hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng với nhau, sao lại là ” hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc ” Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, ” hoa đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng như là đang hấp dẫn những người trên đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức t­ượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi liền với nước mắt và đau thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là ” không mọc tóc” chứ không phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không yếu. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng là mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc lập công, mơ giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, nhưng bóng dáng duyên xinh. Hẳn họ không phải là những người lính khô khan cứng rắn à còn rất lãng mạn.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà nhiều người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm đượm tư tưởng và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh cống hiến. Tình cảm gắn bó máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể là thành viên của binh đoàn Tây Tiến, hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Sự chiến đấu vì lý tưởng cao cả tinh thần Tây Tiến thì bất diệt.

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây Tiến là lịch sử. Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử của một dân tộc. Và lịch sử của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần một giống nòi. Nó đã biến đoàn quân thành bất tử.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 23

“Chiến tranh – Người lính” là đề tài muôn thuở trong các sáng tác thơ ca của nhiều nhà thơ. Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì đến Quang Dũng, ông đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn, đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Quang Dũng được biết đến là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…thế nhưng phải nói đến ông là một hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế nhưng đầy lãng mạn. Ông đã rất thành công khi viết về đề tài người lính và Tây Tiến là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa thể hiện nỗi nhớ da diết của chính nhà thơ về cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của người lính binh đoàn Tây Tiến, vừa ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước của những người chiến sĩ Cách mạng thời kháng chiến chống Pháp.

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là những thanh niên tri thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm Nứa. Sau khi dời đơn vị cũ chưa được bao lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này, lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau nhà thơ đổi lại thành Tây Tiến. Tây Tiến, tên gọi ấy của bài thơ gợi lên âm hưởng quân hành vào thời đặc biệt phát triển những khúc hát Nam Tiến, Tiến quân ca, …Phải chăng nhà thơ đã xóa mất chữ Nhớ để khiến cảm giác về hành khúc mạnh mẽ hơn? Nỗi nhớ da diết ấy luôn rạo rực, hiện lên trong từng câu thơ, từng nét bút của Quang Dũng – đó là nét cảm hứng lãng mạn xuyên suốt tác phẩm.

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về những con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất mộng mơ, trữ tình qua 14 câu thơ dạt dào cảm xúc. Hai câu thơ đầu chính là nỗi nhớ về Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ và cũng là nguồn cảm xúc chủ đạo bao quát toàn bài :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh con sông Mã hiện lên trong tâm thức nhà thơ, con sông gắn liền với chặng đường hành quân dài đằng đẵng của những người lính. Câu thơ cảm thán “ơi!” và điệp từ “nhớ” như đang khắc họa đậm nét hơn về nỗi nhớ: Nhớ đồng đội, nhớ núi rừng Tây bắc. “Nhớ chơi vơi”, hai tiếng chơi vơi ở đây được nhà thơ sử dụng rất đắt –đó là nỗi nhớ không có hình, không có tượng tưởng chừng nhẹ tênh mà nặng nề vô cùng. Bởi nó không đo được, chỉ biết lửng lơ, đầy ắp, ám ảnh trong tâm trí thi nhân. Trong thơ văn rất ít ai diễn tả cảm xúc như thế, ca dao cũng chỉ có một lần nhắc về nỗi nhớ ấy “Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Nỗi nhớ về dòng sông Mã –một chứng nhân lịch sử, nỗi nhớ về Trung đoàn tây tiến năm nào đã trải qua biết bao gian khổ cùng nhà thơ cũng chính là nỗi nhớ da diết về núi rừng Tây Bắc. Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cho người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ khi nhớ về những năm tháng xưa.

Khi những kí ức mãnh liệt, nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Chính vì thế mà từ câu thơ thứ ba, những hình ảnh sống động như xuất hiện trong hiện tại, chính điều này đã làm cho bài thơ phảng phất dáng dấp của một khúc quân hành hơn là một hồi tưởng. Và cứ như thế, từng kí ức lại ùa về được Quang Dũng vẽ lại bằng một bức tranh thơ qua sáu câu thơ tiếp theo- đó là bức tranh hùng vĩ, dữ dội nhưng đầy thơ mộng của núi rừng Tây Bắc :

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Trong đoạn thơ trên, hàng loạt tên bản làng, địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến được nhà thơ nhắc tới: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…tất cả đều là những địa danh in đậm dấu chân đoàn quân Tây Tiến anh hùng. Không phải ngẫu nhiên mà Quang Dũng lại nhắc về những địa điểm ấy mà đó là cảm hứng của cả một thời Cách mạng phát hiện ra đất nước “Những tên làng, tên núi, tên sông / Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc”, một nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã viết như thế !

Tây Tiến dẫn con người lên đến độ cao, vào chốn thâm u của biên giới. Ấn tượng đầu tiên về núi rừng Tây Bắc chính là sương: sương muối, sương lạnh, sương mù phủ khắp nơi, che lấp luôn cả đoàn quân đang vội vã hành quân ngày đêm vượt ải núi rừng. Cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nghỉ của câu thơ rơi vào động từ “lấp” và kết thúc ở từ “mỏi”, ta như có cảm giác chính sương đã làm cho đoàn quân thêm phần khó khăn, vất vả. Thế nhưng trong cái gian truân ấy lại xuất hiện nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào đêm khuya, phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính trẻ.

Bức tranh thiên nhiên ấy còn hùng vĩ và dữ dội hơn cả khi suốt chặng đường hành quân của người lính chỉ toàn dốc đèo hiểm trở: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Câu thơ tạo nên cảm giác trúc trắc, chênh vênh, vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng con người. Câu thơ được nhà thơ sử dụng toàn thanh trắc lại càng tạo thêm hiệu ứng, tạo thêm chất nhạc cho bài thơ. Điệp từ “dốc” cùng với cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nhấn của câu thơ rơi vài từ dốc giúp ta hình dung được độ dốc, đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc cứ thế lên cao rồi xuống thấp đang thử thách sự kiên nhẫn, dũng cảm của những người lính đi qua đây. Những con dốc cao đến độ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” làm cho độ nguy hiểm càng tăng lên. Biện pháp nhân hóa đã làm tăng hiệu quả diễn đạt cho câu thơ. Cách nói “súng ngửi trời” thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của người lính Tây Tiến, họ là những chiến binh dũng cảm đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên. Từ đó cho thấy vẻ đẹp của con người lúc này sánh ngang với tầm cao của vũ trụ. Chính vì nét hiên ngang ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi bật lên đầy thách thức :

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Hết lên cao lại xuống thấp, câu thơ tạo thành hai vế tiểu đối như bị bẻ đôi làm cho con dốc hiện lên với chiều cao, chiều sâu, rợn ngợp, chót vót. Câu thơ hoàn toàn không đề cập đến con người nhưng ta vẫn thấy rất rõ bóng người mệt mỏi, bao quanh họ là những nguy hiểm đang đe dọa dình dập. Dẫu vậy mà những người lính ấy vẫn âm thầm, kiên trì vượt qua để rồi vỡ òa trước cảnh thôn quê êm đềm phía trước :

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ được dệt lên bởi những thanh bằng như kéo dài thêm con đường hành quân của người lính nhưng lại tạo cảm giác êm ái nhẹ nhàng, không còn “khúc khuỷu”, nguy hiểm khi vượt đèo, vượt dốc. Nhà thơ Xuân diệu đã từng nhận xét về bài thơ Tây Tiến “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm nhạc trong miệng”. Quả thật không sai, đọc sáu câu thơ trên ta thấy rất rõ nét tài năng của nhà thơ Quang Dũng ta vừa thấy được nét đẹp dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên vừa thấy được vẻ đẹp trữ tình, đầy chất lãng mạn qua ngòi bút miêu tả ấn tượng của ông. Qua những nét vẽ bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã bày tỏ nỗi nhớ da diết của mình khi liên tưởng về những hồi ức cũ, đó là nỗi nhớ luôn hiện lên trong tâm trí ông suốt một thời gian dài.

Hết nhớ về thiên nhiên, cảnh vật nơi rừng núi nguy hiểm, Quang Dũng lại nhớ về những đồng đội cũ đã cùng ông vượt qua bao gian khổ hành quân. Cũng từ đó hình ảnh người lính lại hiện lên với bao khó khăn, gian khổ, thiếu thốn :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Bốn câu thơ đã miêu tả rõ nét sự hi sinh giữa bao gian khổ, thiếu thốn của những người lính Tây Tiến. Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Trong những gian khổ, các anh phải “dãi dầu”, có những người “không bước nữa”, đã “gục lên súng mũ bỏ quên đời” vùi thân mình nơi rừng núi âm u…Cách nói giảm nói tránh của tác giả về sự hi sinh để nói về sự hi sinh của những người lính, phần nào giảm đi sự bi lụy mà thay vào đó là chất bi tráng, hào hùng. Dù có mất mát, đau thương thì họ vẫn dũng cảm, tiến về phía trước bởi ở đó là nền độc lập, tự do của nước nhà. Đọc những câu thơ trên của nhà thơ Quang Dũng ta lại liên tưởng tới cứ như khi đọc mấy câu thơ trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch:

“Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!”

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)

Tây Bắc đâu chỉ có rừng núi cheo leo, nguy hiểm mà còn biết bao thách thức của núi rừng với cái vẻ hoang sơ, bí ẩn: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”. Biện pháp nhân hóa “cọp trêu ngươi- thác gầm thét” làm tăng thêm phần dữ dội, hoang vu, bí hiểm của núi rừng. Điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm” đã gợi ra một không gian và thời gian về khuya với những nguy hiểm luôn dình dập người lính. Trên chặng đường hành quân từ Pha Luông về Mường Hịch, nguy hiểm lúc nào cũng dình dập họ nhưng ở những người lính ấy vẫn hiện lên vẻ lạc quan, hóm hỉnh, nhưng cũng rất gan dạ, kiên cường, sống hết mình vì lí tưởng cao đẹp.

Đoạn thơ kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ về những bản làng Tây Bắc thân yêu :

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Sự chuyển biến của tứ thơ còn thể hiện qua sự chuyển biến về hình ảnh. Vẫn là hình ảnh sương khói trong sáu câu thơ đầu nhưng giờ đây đã là “cơm lên khói”. Tất cả ấm lại, giờ đây sau chặng đường hành quân vất vả chỉ còn là ánh sáng, là ngọn lửa ấm áp nơi bản làng. Cụm từ “nhớ ôi” như chứa đựng tình cảm dạt dào cũng như tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Sau chặng đường hành quân vất vả, họ dừng chân và quay quần cùng với niềm vui, hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm mùi gạo mới. Tình cảm quân dân gắn kết yêu thương nhau hiện lên một cách gần gũi, chân thật qua ngòi bút của tác giả. “Mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn từ của nhà thơ Quang Dũng để chỉ vẻ đẹp của những cô thôn nữ Mai Châu xinh đẹp, đảm đang. Tất cả đã hòa quyện vào nhau để tạo nên nỗi nhớ bâng khuâng đọng lại trong lòng tác giả.

Mười bốn câu thơ đầu tiên đã để lại một ấn tượng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ nhân hóa, điệp từ, phép đối cùng những động từ mạnh, từ láy tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao…Tất cả đã tạo nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc qua nỗi nhớ của nhà thơ vừa dữ dội, hùng vĩ nhưng rất đỗi thơ mộng, từ đó hiện lên vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến.

Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ thấm tình quân dân và cảnh chia tay trên bến sông tĩnh lặng của những người lính. Không còn là cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở nữa mà ở tám câu thơ này đều là những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng :

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Trên con đường hành quân đầy gian khổ, những người lính Tây Tiến dừng chân dựng trại và được sự đón tiếp nồng hậu, thân tình của người dân. Đối với Quang Dũng nói riêng và những người lính nói chung, không khí vui tươi của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình gắn kết quân nhân là kỉ niệm khó quên vô cùng. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng, náo nhiệt, ấm áp. Ở đây, nhà thơ đã có cách ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. Đuốc hoa trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc-biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Có lẽ nhà nhà muốn gợi lên sự ấm áp, niềm vui trong lòng các chiến sĩ trẻ. Trong cuộc đời đầy ắp sự lung linh chất thơ như vậy, nhưng những nhà thơ có thể chớp lấy nó như Quang Dũng lại không nhiều.

Trong cái tưng bừng của không khí lễ hội ấy, hình ảnh những cô gái hiện lên thật lộng lẫy với những bộ ‘xiêm áo” nhiều màu sắc. Hai từ “kìa em” cùng câu hỏi tu từ “tự bao giờ” như nhấn mạnh sự ngạc nhiên và hào hứng trước vẻ đẹp của những cô sơn ca núi rừng. Đó là một vẻ đẹp đến ngỡ ngàng, vẻ đẹp e ấp của những cô gái nơi đây. Tiếng khèn, tiếng nhạc lại thi nhau hòa âm, tạo cho tâm hồn người lính thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là sự lạc quan, yêu đời, là động lực giúp họ tiếp tục chiến đấu vì lí tưởng bảo vệ đất nước.

Miên man trong dòng hồi tưởng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, nhà thơ tiếp tục nhớ về những cảnh sắc đẹp đẽ, nên thơ nơi núi rừng Tây Bắc. Đó là khung cảnh chia tay trên miền sông nước hoang vắng, tĩnh lặng, có đôi nét buồn thi vị :

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

“Người đi’ là những người lính trẻ Tây Tiến, họ ra đi vào không gian buổi chiều, xung quanh đều là sương khói. “Sương ở đây không phải là “sương lấp” mà là không gian núi rừng mờ trong sương. Hình ảnh “chiều sương ấy” làm hiện lên trong ta nhiều liên tưởng về một miền kí ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Sự xuất hiện của câu hỏi tu từ với các động từ “có thấy”, “có nhớ” như khắc sâu vào trong lòng người đọc cảm giác xao xuyến khó tả, nó như gợi hỏi tới những người đồng chí, đồng đội, hoặc cũng là hỏi chính nhà thơ có nhớ tới mảnh đất đã từng vào sinh ra tử này không? Biện pháp nhân hóa “hồn lau” gợi cảm giác hoang vắng nhưng vẫn rất giàu chất thơ bởi cảnh vật nơi đây đều có hồn. Hồn lau có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là tâm trạng buổi chia tay nhuốm lên cả hoa lau, cảnh vật xung quanh, nghĩa thứ hai cuộc đời người lính gắn với hoa lau, nay xa rồi nên xao xuyến, bâng khuâng.

Khung cảnh trữ tình ấy đã làm nền cho sự xuất hiện của con người “Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Ở đây người đọc có thể liên tưởng tới những cô gái vùng cao duyên dáng hay những người dân với tình cảm gắn bó gần gũi với những người lính trẻ. Câu thơ cuối khép lại khổ thơ là hình ảnh “hoa trôi đong đưa”như khắc sâu vào lòng người nỗi nhớ khôn nguôi.

Đoạn thơ thứ hai là một khúc nhạc đầy chất họa. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh tiếng khèn, cũng chính là tâm trạng của người lính. Hình ảnh thơ được tạo nên bởi những đường nét tài hoa, độc đáo mang chất trữ tình, lãng mạn của nhà thơ đã phần nào cho thấy tâm hồn đầy lạc quan, yêu đời của những người lính trẻ và tinh thần gắn kết quân nhân bền chặt.

Bên cạnh tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ da diết của mình về cảnh vật, đồng đội thì ở bài thơ Tây Tiến, nhà thơ còn tập trung khắc họa hình tượng người lính đầy bi tráng, oai hùng. Nếu như có hình tượng người lính mang nét đẹp chân thực như trong thơ Chính Hữu hay Nguyên Hồng thì ở đây hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng còn mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng được thể hiện qua dáng vẻ, tinh thần, lí tưởng và sự hi sinh. Và hình tượng ấy được nhà thơ tái hiện rõ nét qua khổ thơ thứ ba đầy hào hùng :

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng. Ta cũng từng bắt gặp những khó khăn của người lính trong thơ Tố Hữu:

“Giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ”

Bởi xuất thân từ những học sinh, sinh viên lại ra đi từ Hà Nội, chính vì vậy mà trong cuộc sống gian khổ những người chiến sĩ trẻ ấy vẫn hiện lên những tâm hồn mang nhiều nét “mộng và mơ”. Họ đều là những chàng trai Hà Thành lạc quan, yêu đời nhưng vô cùng dũng cảm, luôn hướng về lí tưởng cao đẹp “khi đất nước cần, chúng tôi sẵn sàng đứng lên”. Hình ảnh “mắt trừng” gợi lên cho người đọc liên tưởng về đôi mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù của những người lính trẻ. Đôi mắt ấy gửi mộng qua biên giới, đôi mắt ấy thao thức nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội thơm mùi hoa sữa. Điều đó cho ta thấy rằng những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi theo tiếng gọi của tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng mạn.

Hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã nêu bật lên lí tưởng của những người lính “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 khiến trọng tâm rơi vào chữ mồ, gợi nên ý niệm về cái chết. Ngoài ra tác giả còn khéo léo sử dụng từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” không chỉ gợi nên cảm giác cổ kính mà còn gợi cả không gian xa xôi nơi biên cương hẻo lánh, nơi những chiến sĩ trẻ làm nhiệm vụ. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự thật khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết một cách chân thực không né tránh đúng như nhà thơ Trần Lê Văn từng nhận xét “Tây Tiến phảng phất nét buồn đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy”. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời xanh tuổi trẻ biết báo hiệu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh” cất lên đầy hào khí đồng thời mang vẻ đẹp của lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của người lính. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành ngày đó:

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi Nào có sá chi đâu ngày trở về…”

Hai câu thơ cuối, nhà thơ đã viết về sự hi sinh bi tráng của người lính trên chiến trường

Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa cho sự hi sinh quên mình của người lính. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh “da ngựa bọc thây” đầy vinh quang thì người lính tây tiến với hình ảnh “áo bào thay chiếu” đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là “áo bào”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi” mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Quang Dũng cũng từng tâm sự rằng “Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là theo cách nói của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Con sông Mã lại hiện lên như một chứng nhân lịch sử, người bạn đồng hành của người lính Tây Tiến, nhưng giờ đây nó như đang cảm thương, gầm lên khúc độc hành đưa tiễn những người lính về nơi an nghỉ cuối cùng.

Đoạn thơ cuối cũng như khép lại nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ, tác gải cũng thể hiện tình cảm của mình về đoàn quân Tây Tiến, đồng đội trong những năm tháng gắn bó chiến đấu một cách đầu trân trọng. Đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Hai câu thơ đầu đã thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:

Tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Qua cách nói “một chia phôi”, “không hẹn trước”, tác giả đã thể hiện sự thương mến, cảm phục và nỗi xót xa về những người vệ quốc quân ra đi không trở về. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình.

Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

“Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại. Câu thơ với sự kết hợp linh hoạt các thanh bằng như một bản hòa âm đầy da diết về cuộc đời người lính, dù họ ngã xuống ở đâu thì vẫn sẽ có những người đồng đội tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Câu thơ còn vang vọng âm hưởng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” …

Bằng việc sử dụng bút pháp sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn, âm hưởng bi tráng, hào hùng bài thơ Tây Tiến đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa mang vẻ hào hùng nhưng đầy lạc quan, yêu đời. Họ là những người lính trẻ mang trong mình lí tưởng cao đẹp, quyết hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Bài thơ còn thể hiện tài hoa trong cách sử dụng các động từ mạnh, các từ láy mang tính biểu cảm cao và các biện pháp điệp từ, nhân hóa. Đọc bài thơ ta liền nhớ tới những câu thơ về người lính Tây Tiến được nhà thơ Giang Nam viết

Tây Tiến biên cương mờ lửa khói Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy con người ấy Sống mãi muôn đời với núi sông

Quả đúng như Nguyễn Đình Thi đã nhận xét “Quang Dũng đã đem đến tượng đài người lính Tây Tiến giữa ngàn non ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc …”. Vừa thể hiện thành công bức tranh thiên nhiên Tây Bắc oai hùng, dữ dội, nhà thơ còn khắc họa lên hình tượng người lính đầy bi tráng, nhưng cũng rất đỗi lạc quan, yêu đời. Tây Tiến là đóa hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ ca những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, là một bài thơ vừa có giá trị về nội dung và nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư về sự hi sinh quên mình của những con người dũng cảm, kiên cường ấy đến mãi muôn đời sau.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 24

Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn. Thơ của ông thường viết về thời kỳ kháng chiến với sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp con người, đặc biệt là vẻ đẹp của người lính. Bài thơ Tây Tiến chính là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

Tây Tiến sáng tác năm 1948 gợi cảm hứng từ nỗi nhớ về thiên nhiên và người chiến binh Tây Tiến. Gợi tả về những vẻ đẹp ấy, ngòi bút Quang Dũng đã thể hiện rất xuất sắc với sự chứa chan về cảm xúc.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hai câu thơ đầu gợi lên toàn bộ cảm xúc về nỗi nhớ và hoài niệm của tác phẩm. Câu thơ thứ nhất sử dụng nhịp 2/2/3 là tiếng gọi thân thương với cảm xúc nhớ nhung dâng trào . Quang Dũng gọi tên sông Mã vì sông Mã chính là địa danh gắn với chặng đường hành quân và chứng kiến bao kỷ niệm vui buồn. Câu thơ thứ hai là nỗi nhớ chơi vơi không thể định hình được cứ mãi luẩn quẩn trong tâm trí nhà thơ và vẽ về điều gì đó xa xôi, mất mát, hụt hẫng. Sài Khao, Sương Lát là những địa danh rất nổi tiếng ở Tây Bắc được tác giả sử dụng để gợi lên nỗi nhớ chơi vơi của mình. “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” là câu thơ với toàn thanh bằng độc đáo tái hiện hình ảnh hoa hiện ra mờ mờ trong sương.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Bức tranh thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp hùng vĩ , hiểm trở với những khu vực đồi núi cao, vực thẳm: “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, “súng ngửi trời” cùng với âm thanh rùng rợn khiến cho sự dữ dội ấy được tăng lên hàng ngàn lần. Bên cạnh đó, thiên nhiên nơi đây cũng rất êm dịu, huyền ảo “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, người lính được hòa mình vào cuộc sống gia đình, quây quần bên bếp lửa chiều tối. Đoạn thơ tiếp theo vẻ nên hình ảnh người lính anh dũng, hào hoa và cũng rất đỗi lãng mạn:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Người lính phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách, hi sinh. Dù can trường trong gian khổ nhưng trên con đường hành quân không ít người phải hy sinh nơi núi cao, vực thẳm. Họ hi sinh trong tư thế hiên ngang, vẫn cầm chắc súng trên tay: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa, gục lên súng mũ bỏ quên đời!” Vẻ hoang dại của núi rừng tây bắc luôn là hiểm nguy của biết bao con người: “đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Tuy nhiên người lính vẫn mang trong mình một tâm hồn hào hoa, lãng mạn, họ hòa mình vào thiên nhiên để trút bỏ mọi nhọc nhằn thể xác. Cái nhìn lãng mạn đã giúp Quang Dũng tạo nên màu sắc bi tráng trong hình ảnh người lính Tây Tiến.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Buổi liên hoan văn nghệ với hình ảnh ánh lửa bập bùng xua tan cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng và thể hiện được sự rạo rực, niềm vui trong lòng người. Chính trong không khí âm nhạc, vũ điệu đã góp phần chắp cánh cho tâm hồn hào hoa, lãng mạn của người chiến sĩ. Tiếp theo là hình ảnh không gian sông nước tĩnh lặng và đầy thi vị.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Quang Dũng sử dụng bút pháp mềm mại, tinh tế như để chia sẻ buồn vui với người chiến sĩ trên con đường hành quân. Trong màn sương mờ với từng mảng ký ức của hoài niệm, đó là một sáng tạo mới về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn của nhà thơ.

“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Con đường hành quân thật gian khổ biết bao khi người lính phải đối diện với những căn bệnh nguy hiểm. Bằng thủ pháp đảo ngữ, Quang Dũng nhấn mạnh vẻ đẹp của từng người chiến binh, thông qua cách miêu tả của tác giả những căn bệnh đó không còn đáng sợ nữa. Hai câu thơ tiếp theo là vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của những chàng trai Hà Nội. Người lính dù có ở bất cứ nơi nào vẫn luôn hướng về quê hương thân yêu của mình.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cái chết của người lính là cái chết oai hùng mang tầm sử thi, đó chính là lý tưởng cao cả nhất trong cuộc hành trình gian khổ của người lính. Hiện thực nơi đây thật khốc liệt nhưng lại rất hào hùng và không trở nên quá bi lụy.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Cuộc hành trình chiến đấu của người lính là một hành trình dài và khó khăn, thử thách. Người lính ra đi tìm đường bảo vệ tổ quốc phải trải qua bao thử thách của tự nhiên, của quân thù tưởng chừng như không thể hẹn ước ngày gặp lại. Quang Dũng đã kết thúc bài thơ với nhịp thơ chậm và tràn đầy cảm xúc.

Bài thơ sử dụng các biện pháp tu từ sáng tạo, bút pháp lãng mạn, từ ngữ chọn lọc, độc đáo đã thể hiện vẻ đẹp của người lính trên con đường hành quân và ngợi ca ý chí chiến đấu cao cả của họ.

Tây Tiến là bài thơ hay và sẽ mãi ghi dấu trong lòng người đọc về hình ảnh người chiến sĩ anh dũng vượt mọi khó khăn, hiểm nguy để bảo vệ biên cương tổ quốc.

Phân tích bài thơ Tây Tiến – Mẫu 25

Trong thời kì đấu tranh chống giặc cứu nước, người lính trở thành một hình tượng trung tâm được nhiều người nghệ sĩ đi vào khai thác, thể hiện. Tây Tiến của Quang Dũng cũng là một trong số những sáng tác như thế. Tác phẩm đã thực sự thành công khi đi vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến trong thời kì kháng chiến chống Pháp trong đó vẻ đẹp bi tráng là vẻ đẹp nổi bật để lại trong người đọc nhiều xúc cảm.

Tây Tiến là bài thơ viết về binh đoàn Tây Tiến nơi nhà thơ đã từng sống và chiến đấu. Những người lính trong binh đoàn phần đông là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn về mọi mặt nhưng vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Ở họ có vẻ đẹp tinh nghịch hào hoa của chàng trai đất Hà thành nhưng cũng thật kiêu hùng, can đảm trong cuộc chiến đấu. Miêu tả về họ, Quang Dũng sử dụng bút pháp lãng mạn và cảm hứng ngợi ca khiến cho dù trải qua đau thương, gian khổ thì người lính vẫn hiện lên mang vẻ đẹp thật đặc biệt: bi tráng mà không hề bi lụy.

Chất bi tráng ở đây trước hết có được là do được đặt trên nền của bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà diễm lệ, thơ mộng mà đầy hoang sơ, bí ẩn. Mảnh đất Tây Bắc vừa là môi trường sống và chiến đấu của người lính nhưng cũng vừa mang trong mình vẻ đẹp riêng. Con người đặt trong đó vừa chan hòa, giao cảm với thiên nhiên lại vừa đối lập và bị thiên nhiên thử thách. Trước cái heo hút của cồn mây, cái gập ghềnh của “dốc thăm thẳm”, của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, người lính vẫn vượt lên trên, giành về mình thế chủ động. Chinh phục đỉnh cao để nhìn lên và phát hiện ra một hình ảnh đầy dí dỏm: “súng ngửi trời”. Vượt qua núi đá gập ghềnh để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mờ ảo đầy màu sắc của “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Vượt qua ái mệt mỏi của chặng đường hành quân, mở rộng lòng mình ra đón nhận vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên, của một cánh hoa về trong đêm hơi… Bằng cách đặt nhân vật vào bức tranh thiên nhiên như vậy, Quang Dũng đã khẳng định vẻ đẹp dũng cảm kiên cường nhưng cũng đầu tinh nghịch, lãng mạn của người lính Tây Tiến.

Cũng trong thiên nhiên đó, người lính Tây Tiến xuất hiện với tầm vóc bi tráng, khác thường:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Gian khổ của chiến tranh đã làm cho hình hài người lính trở nên tiều tụy thế nhưng dưới con mắt lạc quan, đầy sức mạnh và niềm vui sống nó lại trở thành nét rất riêng, thành cái “uy” của họ. Cụm từ miêu tả “dữ oai hùm” vừa thể hiện sức mạnh oai phong lẫm liệt của những người đang cầm súng bảo vệ quê hương, lại vừa ẩn chứa sau đó nét lạc quan, hài hước của họ. Bài thơ xuất hiện một hình ảnh đối lập độc đáo:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

Người lính được khắc họa trong sự hài hòa giữa một chàng trai Hà thành tâm hồn lãng mạn và một người lính dũng cảm kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Chúng không hề đối lập mà bổ sung cho nhau, tôn vẻ đẹp của nhau lên.

Những khó khăn mà người lính phải đối mặt là vô cùng, nhiều khi là cả cái chết. Ấy vậy mà khi nói về cái chết, Quang Dũng đã nói đến họ trong những hình ảnh thật đặc biệt:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Tư thế “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bi tráng, thanh thản, dung dị mà đầy tính truyền cảm. Nó phảng phất chất nghệ sĩ, tài tử, kiêu hùng khi từ giã cuộc sống của người chiến sĩ. Đã ngã xuống mà vãn như tư thế cùng đồng đội tiếp bước hành quân. Đến mảng hồi ức này, ta cảm thấy trong lời thơ của Quang Dũng có sự trầm lắng, xót xa nhưng tuyệt đối không hề bi lụy. Nó làm ta nhớ đến tư thế của anh giải phóng quân thời chống Mĩ hi sinh trên đường bay Tân Sơn Nhất.

“Anh giải phóng quân Trên đường bay Tân Sơn Nhất

Tì súng trên xác trực thăng Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Ngợi ca người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề ngần ngại khi nói đến cái chết của họ. Bởi chính trong cái chết, người chiến sĩ hiện lên càng đẹp đẽ:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Cõi chết trong cách nhìn của Quang Dũng tức cũng là cái nhìn của tất cả những người lính Tây Tiến cũng khác thường và tạo hình dữ dội. Nó nói lên cái tột cùng cơ cực lẫn cái lẫm liệt kiêu hùng. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn, “rải rác biên cương mồ viễn xứ” là điều người lính luôn thấu hiểu. Nhưng không vì thế mà nó làm nhụt đi ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Mỗi người lính Tây Tiến đều tâm niệm: “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, nghĩa là họ tình nguyện cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước, cống hiến thanh thản và trọn vẹn mà không đòi hỏi nhận lại một điều gì cả.

Cái chết thiếu thốn không vì thế mà làm giảm đi vẻ đẹp của người lính. Người chiến sĩ ra đi như một vị anh hùng thần thoại:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Tấm áo trước nay người lính vẫn thường hay mặc trở thành “áo bào” đưa anh về với đất mẹ. Và sự ra đi có chứng kiến, tiễn đưa của núi sông, trời đất. Khúc gầm dữ dội của dòng sông khiến cho cái chết trở nên hào hùng. Nó là khúc bi ca tiễn đưa những con người gần gũi nhưng cũng thật vĩ đại.

Người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng thể hiện trong những gian khổ mất mát, đau thương to lớn, nhưng tinh thần lại hiên ngang, bất khuất, coi thường gian khổ, coi thường cái chết; thể hiện trong cái khổ mà vẫn đẹp, chết mà vẫn hùng của người chiến sĩ.

Làm nên vẻ đẹp bi tráng này, điều đầu tiên phải kể đến là cảm hứng và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng khi xây dựng hình tượng nhân vật. Cảm hứng lãng mạn hướng tới những cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng của cộng đồng, của dân tộc. Chính nó đã tạo ra ở nhà thơ cái nhìn có tính anh hùng cổ điển trong hình ảnh người lính, đặc biệt trước cái chết của họ. Bút pháp lãng mạn khắc họa người lính Tây Tiến ở những nét phi thường, kết hợp với sắc thái bi tráng trong hình tượng tạo nên tính sử thi đặc biệt của bài thơ, đúc kết lại trong lòng người đọc những tình cảm tốt đẹp.

Góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến còn ở giọng điệu thơ hào sảng với hình ảnh chi tiết có ấn tượng mạnh mẽ. Thiên nhiên và con người vừa đối lập lại vừa đồng điệu. Sự đối lập trong hệ thống hình ảnh, giữa thực tế chiến đấu và đời sống tinh thần phong phú, tinh tế, nhạy cảm; giữa những khó khăn gian khổ với niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tất cả làm nên hình tượng về người lính Tây Tiến còn lại mãi với thời gian.

Tây Tiến là bài thơ ngợi ca hình tượng người lính trong thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm, khi “những ngày vui sao cả nước lên đường” đi chiến đấu: “Lớp cha trước lớp con sau / Đã thành chiến sĩ chung câu quân hành”. Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần yêu nước và chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam, thêm một “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ…”

********************

Trên đây là 25 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng sẽ giúp các em có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt. Đồng thời, các em sẽ biết cách làm văn thế nào cho mượt, cho hay để hoàn thiện bài phân tích Tây Tiến của mình trở nên cuốn hút, sinh động hơn.

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo Dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button