Giáo dục

Tìm ví dụ chứng minh sự giản dị trong thơ văn của Bác – Văn mẫu 7

Đề bài: Tìm ví dụ chứng minh sự giản dị trong thơ văn của Bác

Lập dàn ý

1. Mở bài:

Bạn đang xem: Tìm ví dụ chứng minh sự giản dị trong thơ văn của Bác – Văn mẫu 7

– Hồ Chủ tịch là vị lãnh tụ vĩ đại của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.

– Trong đời sống, tác phong của Bác rất tự nhiên, giản dị.

– Lời nói và bài viết để tuyên truyền các mạng của Bác cũng rât giản dị, trong sáng vì Bác muốn mọi người dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo.

2. Thân bài:

* Lấy một số dẫn chứng để chứng minh.

a) Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp:

– Bác viết nhiều bài ca để giác ngộ, vận động quần chúng tham gia cách mạng, đoàn kết đánh giặc cứu nước. (Bài ca Việt Minh, Bài ca sợi chỉ, Bài ca binh lính, Bài ca đoàn kết…)

– Thơ chúc tết 1947 là lời kêu gọi đồng bào quyết tâm kháng chiến, bảo vệ chủ quyền tự do, độc lập vừa giành được từ tay Pháp, Nhật.

– Mừng xuân: 1949 là lời động viên nhân dân cả nước thi đua đánh giặc, thi đua sản xuất, là niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng.

b) Thời kì chống Mĩ cứu nước:

– Bài thơ chúc Tết năm 1956, Bác Hồ hào nhân dân cả nước sát cánh đồng lòng. Miền Bắc thi đua xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam giữ vững thành đồng… Và khẳng định nước nhà sẽ hòa bình, thống nhất.

– Mừng xuân 1969 là bài thơ xuân cuối cùng của Bác. Bài thơ tổng kết ngắn gọn và chính xác tình hình năm cũ, mở ra một tương lai tươi sáng của cách mạng trong năm mới, đồng thời chỉ rõ mục tiêu phấn đấu là đánh cho Mĩ cút, ngụy nhào để giải phóng miền Nam, Bắc – Nam sum họp một nhà.

3. Kết bài:

– Thơ Bác chính là con người Bác: giản dị mà vĩ đại, sâu sắc, hào hùng.

– Dân tộc Việt Nam tự hào được sống và chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, của Bác Hồ kính yêu.

Bài phân tích từ bạn Thu Huyền – HSG Văn

Kể từ khi hình thành xã hội loài người cho đến nay, mất ngàn năm đã trôi qua. Từ thực tế cuộc sống, con người đã đúc kết được vô vàn kinh nghiệm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Những kinh nghiệm đó được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua các hình thức truyền miệng hay sách vở. Muốn tiếp thu được kho tàng kiến thức phong phú, đa dạng của người xưa để lại, chỉ có một con đường duy nhất là học tập. Bể học không bờ (Khổng Tử), cho nên chúng ta phải học tập suốt đời để không ngừng bồi bổ, nâng cao kiến thức cho kịp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật trong thời đại ngày nay.

Lê – nin vị lãnh tụ vĩ đại của phong trào cách mạng vô sản Nga đầu thế kỉ XX đã có lời khuyên thật sáng suốt cho mọi người: Học! Học nữa! Học mãi! Qua lời khuyên này, Lê – nin khẳng định tầm quan trọng lớn lao của việc học tập và nhấn mạnh rằng việc học tập phải được duy trì suốt cả cuộc đời.

Bên cạnh quyền được sống tự do, con người còn có quyền được ăn no, mặc ấm và được học hành. Học tập vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi. Việc học tập tạo nên giá trị tinh thần và mang lại những hiệu quả vật chất lớn lao. Phải trải qua một quá trình học tập lâu dài và gian khổ thì con người mới trở nên hoàn thiện.

Tại sao chúng ta phải học? Câu trả lời thật đơn giản: Có học thì mới tiếp thu được tri thức và có tri thức chúng ta mới có thể làm tốt mọi việc. Thực tế cho thấy trình độ văn hóa rất quan trọng. Ví dụ như cùng đứng trước một công việc hay một vấn đề nào đó thì người có trình độ cao hơn sẽ có cách giải quyết nhanh chóng và hợp lí hơn. Cho nên, muốn mọi việc đạt được hiệu quả tốt, bắt buộc chúng ta phải học. Lí thuyết sẽ soi sáng thực tế, giúp ta tiết kiệm công sức, rút ngắn được thời gian mò mẫm, thử nghiệm. Tất nhiên, chất lượng công việc cũng sẽ được nâng lên.

Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì việc học tập lại càng quan trọng. Nếu chúng ta dễ dàng thỏa mãn với những gì đã có thì điều đó chứng tỏ rằng ta đã lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Quy luật cuộc sống là tiến về phía trước. Nó sẽ đào thải tất cả những gì là thấp kém, lỗi thời và có như vậy thì cuộc sống của nhân loại mới càng giàu mạnh, văn minh.

Học! Học nữa! Học mãi! Học trong sách vở, học ngoài cuộc đời. Học để làm giàu trí thức và vốn sống thực tế. Việc học không bị hạn chế bởi tuổi tác và hoàn cảnh mà tùy thuộc vào ý thức của mỗi người. Ông giám đốc một cơ quan, xí nghiệp nào đó muốn điều hành và quản lý tốt một mặt hoạt động của đơn vị mình thì phải học. Người công nhân muốn nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cũng phải thường xuyên học hỏi, rút kinh nghiệm. Nông dân muốn đỡ vất vả trong công việc trồng trọt, chăn nuôi và tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống thì đương nhiên cũng phải học tập khoa học kỉ thuật và áp dụng nó vào thực tế. Muốn có một công trình nghiên cứu hay một phát minh nào đó, nhà khoa học phải học tập và làm việc trong một thời gian dài ba nặm, năm năm, mười năm, có khi cả đời người.,. Nhưng khi phát minh ấy có kết quả thì nó sẽ đem lại lợi ích lớn cho cả nhân loại.

Xung quanh chúng ta có biết bao tấm gương kiên trì học tập và đã thành công. Tri thức do học tập đem lại là chìa khóa vàng để chúng ta md được mọi cánh cửa trong cuộc đời.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có lời khuyên sáng suốt rút ra từ thực tếcuộc sống cách mạng sôi động và phong phú của người: Học ở trường, học trong sách vở, Học lẫn nhau và học ở dân. Ngòài trường học còn có trường đời. Nếu có ý chí, có quyết tâm và khiêm tốn, chuyên cần học hỏi, chúng ta sẽ thành công.

Việc học có tầm quan trọng rất lớn trong việc quyết định thành bại của một con người. Tuy vậy, hiện nay vẫn có một số người coi thường việc học với suy nghĩ thiển cận là không cần học cũng kiếm ra tiền, vẫn sống. Họ không biết rằng thất học là sự thiệt thòi, là nỗi bất hạnh và nếu dân trí thấp thì một đất nước khó có thể phát triển về mọi mặt.

Thấu hiểu ý nghĩa sâu sắc trong lời khuyên của Lê – nin, tuổi trẻ cần phải cố gắng học tập để nâng cao hiểu biết, hoàn thiện bản thân. Học và học không ngừng, như vậy chúng ta mới có thể trở thành người có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của thời đại, xứng đáng là chủ nhân của đât nước giàu đẹp trong tương lai.

Thu Huyền – Lớp 7C1

Bài phân tích từ bạn Thanh Hải – HSG Văn

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh sự nghiệp cứu nước vĩ đại, Bác đã để lại cho chúng ta một di sản văn chương vô cùng quý giá.

Bác không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương và chưa bao giờ tự nhận mình là văn nghệ sĩ. Bác viết văn, làm thơ xuất phát từ nhận thức văn chương là vũ khí sắc bén chống quân thù và là phương tiện thuận lợi để tuyên truyền cách mạng.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác đã trải qua nhiều hoàn cảnh sống và tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau. Tùy từng tình huống, từng nhiệm vụ chính trị mà Bác có cách viết cho phù hợp. Với lực lượng quần chúng cách mạng phần lớn là nông dân, công nhân, Bác đã chọn hình thức sáng tác quen thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ như ca dao, thơ lục bát… để lồng vào đó nội dung chính trị.

Giản dị trong đời sống – đó là điều nổi bật trong phong cách của Hồ Chủ tịch . Bác cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết vì muốn cho nhân dân hiểu được, nhớ được và thực hiện được những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Trong qua trình vận động cách mạng, Bác làm nhiều bài ca dưới hình thức văn vần để giác ngộ quần chúng như Bài ca sợi chỉ, Bài ca binh lính, Bài ca đoàn kết… Bác viết thật mộc mạc, giản dị để người nghe, người đọc dễ tiếp thu và truyền bá cho nhau.

Sau đây là một số ví dụ tiêu biểu:

Sau khi về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, Bác đã viết nhiều câu thơ, bài thơ làm tài liệu giác ngộ, vận động quần chúng tham gia vào hội Việt Minh, đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật:

 Muốn phá sạch nỗi bất bình,
Dân cày phải kiếm Việt Minh mà vào.

Hoặc:

Hỡi ai con cháu Hồng Bàng,
Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau.

Thơ Bác còn chỉ ra nguyên nhân khổ đau, bất hạnh của nông dân:

   Dân ta không có ruộng cày,
Bao nhiêu đất tốt về Tây đồn điền.
Hay của giai cấp công nhân:

   Công nhân sức mạnh nghề quen
Làm ra của cải cho thiên hạ nhờ
Mà mình quần rách áo xơ
Tiền công thì bớt mà giờ thì thêm
Lại còn đánh chửi tần phiền
Cúp lương tháng trước, phạt tiền hôm qua.

Bác thể hiện rõ nỗi khổ, nỗi nhục của kẻ lầm đường lạc lối cầm súng giặc bắn vào cha mẹ, anh em, bà con làng xóm:

   Hai tay cầm khẩu súng dài,
Ngắm đi ngắm lại, bắn ai bây giờ.

Cuối năm 1946, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ cấu kết với nhau, cố tình xâm lược nước ta một lần nữa. Sau khi chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa được thành lập, với cương vị Chủ tịch, Bác đã làm bài thơ chúc mừng năm mới 1947, kêu gọi đồng bào quyết tâm kháng chiến để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do vừa giành được:

Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kì kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công.

Xuân 1949 là mùa xuân tưng bừng khí thế trong bài thơ nổi tiếng của Bác:

  Người người thi đua
Ngành ngành thi đua,
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua;

(Mừng xuân 1949)

Cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp đã kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, chấn đông năm châu. Miền Bắc giải phóng, nhân dân nô nức bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương lớn của miền Nam – thành đồng Tổ quốc – đang ngày đêm trực tiếp đối đầu với quân xâm lược Mĩ và bè lũ tay sai.

Bài thơ chúc Tết năm 1956 là lời Bác hô hào, động viên nhân dân cả nước đoàn kết một lòng đánh Mĩ:

Thân ái mấy lời chúc Tết:
Toàn dân đoàn kết một lòng,
Miền Bắc thi đua xây dựng
Miền Nam giữ vững thành đồng,
Quyết chí bền gan chiến đấu,
Hòa bình, thống nhất thành công.

Nhân dân Việt Nam mỗi khi Tết đến xuân về lại hân hoan, phấn khởi đón nghe thơ Bác vì đó chính là tâm tình, ý nguyện, là lí tưởng và khát vọng chiến thắng của toàn dân tộc.

Mừng xuân 1969 là bài thơ chúc Tết cuối cùng Bác để lại cho đất nước, nhân dân:

Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn!

Thơ Bác chính là con người Bác, thật gần gũi, giản dị mà cũng thật sâu sắc, hào hùng. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:

Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ.

Dân tộc Việt Nam sung sướng và hạnh phúc được chiến đấu dưới lá cờ vinh quang của Đảng, của Bác Hồ kính yêu!

Thanh Hải – Lớp 7A13


Tuyển chọn những bài văn mẫu Tìm ví dụ chứng minh sự giản dị trong thơ văn của Bác hay nhất để giúp các em học sinh lớp 7 tham khảo.

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button