Tổng hợp văn mẫu lớp 6 chọn lọc phát biểu cảm nghĩ về truyện Sự tích Hồ Gươm ngắn gọn, súc tích với nhiều bài làm mẫu khác nhau cho các em tham khảo.
Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sự tích Hồ Gươm
Dàn ý trình bày cảm nghĩ về sự tích Hồ Gươm
Mẫu dàn ý 1:
1. Mở bài:
– Hồ Gươm là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Thủ đô Hà Nội.
– Tên hồ gắn liền với truyền thuyết Rùa Vàng đòi lại gươm thần mà Long Quân đã cho Lê Lợi mượn để đánh tan quân xâm lược nhà Minh, đem lại thái bình cho đất nước.
2. Thân bài:
* Long Vương cho Lê Lợi mượn gươm thần để giữ nước:
– Giặc Minh xâm lược gây nhiều tội ác với dân ta.
– Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân đánh giặc. Bước đầu, thế lực nghĩa quân còn yếu nên thường thua trận. Long Quân quyết định cho Lê Lợi mượn gươm thần để giết giặc. (Lê Thận kéo lưới nhặt được lưỡi gươm. Lê Lợi bắt được chuôi gươm trong rừng sâu, lắp vào vừa khít).
– Có gươm thần trong tay, Lê Lợi cùng nghĩa quân tung hoành ngang dọc, đánh tràn ra mãi cho đến lúc sạch bóng quân thù.
– Chi tiết Long Quân cho mượn gươm thần có ý nghĩa tổ tiên phù trợ cho con cháu đủ khả năng để giữ nước và khẳng định sức mạnh chính nghĩa của cuộc chiến đấu chống xâm lăng do Lê Lợi lãnh đạo.
* Long Vương sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần:
– Giặc tan, Lê Lợi lên ngôi vua. Một hôm, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo trên hồ Tả Vọng trước kinh thành, bất chợt thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy.
– Rùa Vàng nổi lên trước mũi thuyền, đòi lại gươm thần cho Long Quân.
– Lê Lợi trả gươm, Rùa Vàng đón lấy gươm thần rồi lặn xuống hồ sâu.
– Từ đó hồ Tả Vọng đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (Hồ Gươm).
– Hình ảnh Lê Lợi trả gươm nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc Việt.
3. Kết bài:
– Sự tích Hồ Gươm gắn liền với lịch sử chống xâm lăng.
– Cái tên hồ Hoàn Kiếm gắn liền với huyền thoại đẹp đẽ về Lê Lợi – vị anh hùng dân tộc đã có công đánh đuổi giặc Minh, gìn giữ non sông gấm vóc của tổ tiên để lại. Đồng thời thể hiện tư tưởng yêu chuộng hoà bình của dân tộc Việt.
>> Tham khảo hướng dẫn soạn bài Sự tích Hồ Gươm để nắm rõ và giải thích được ý nghĩa của từng chi tiết trong câu chuyện.
Mẫu dàn ý 2:
Hướng dẫn làm bài
– Những chi tiết lạ.
+ Lưỡi gươm bị vứt xuống sông nhưng cả ba lần kéo lưới Lê Thận đều vớt thấy nó.
+ Lưỡi gươm tự dung sáng rực trong góc tối để cho Lê Lợi chú ý.
+ Trên gươm có hai chữ “Thuận thiên” nghĩa là thuận theo lẽ trời thì sự nghiệp sẽ thành công.
+ Chuôi gươm sáng gây sự chú ý ở trên cây đa.
+ Kể từ khi có thanh gươm thì quân ta không còn thất bại nữa mà chiến thắng oanh liệt và cuối cùng đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi.
– Những chi tiết trên có ý nghĩa:
+ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được sự hưởng ứng tích cực của nhân dân khắp nơi (đồng bằng, rừng núi…)
+ Nhân dân luôn kiên trì, động viên khuyến khích những thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa tiến hành kháng chiến thắng lợi (ba lần Lê Thận với gươm, gươm tự tỏa sáng, ngay cả khi bị đánh, phải chạy tháo thân thì “chuôi gươm” vẫn phát sáng để trấn an, để gieo niềm hi vọng cho Lê Lợi).
+ Cuộc kháng chiến chống quân Minh “Thuận thiên” cho nên nó rất chính nghĩa. Trong quan niệm người xưa khi hợp ý trời tức là hợp lòng người và chiến thắng là tất yếu. (“Trời thử lòng trao cho ta mệnh lớn, ta gắng chí khắc phục gian nan) (Nguyễn Trãi)
– Thanh gươm và ánh sáng:
+ Gươm tỏa sáng những lúc:
- Khi chủ tướng Lê Lợi vào túp lều tối của Lê Thận.
- Chuôi gươm phát sáng trên ngọn đa, khi Lê Lợi chạy giặc.
- Gươm sáng le lói dưới mặt hồ xanh.
+ Hình ảnh này gây cho ta cảm giác:
- Đây là báu vật quý (như viên ngọc ước, chiếc đèn thần…)
- Báu vật ấy chứa đựng “linh hồn” của thần thánh. Mỗi lúc gặp Lê Lợi thì nói mới báo ứng.
- Nó gây niềm tin cho người chủ tướng với chúng ta về tinh thần chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Nó ngầm giải thích sức mạnh bình Ngô là sức mạnh của đại nghĩa thắng hung tàn. Ngoài sức mạnh cụ thể chúng ta còn có sự ủng hộ của thần linh, trời đất…
– Ý nghĩa của việc trao nhận gươm:
+ Rùa Vàng đòi lại thanh gươm bởi sứ mạng đánh giặc của vua đã hoàn thành. Đất nước đã thái bình, sự hiện diện của Rùa Vàng muốn nhắc Lê Lợi rằng bất cứ lúc nào thần linh cũng ủng hộ nhà vua thực hiện sự nghiệp đại nghĩa của mình. Lấy lại thanh gươm thực ra thần linh đã cho Lê Lợi nhận thức ra trách nhiệm mới của mình: Phải xây dựng nên thái bình muôn thuở, phải lấy Đức Tài mà lo cho dân cho nước chứ không thể lấy thanh gươm tắm máu giặc để đàn áp trị vì dân lành.
+ Lê Lợi nhận thanh gươm là trách nhiệm giải phóng đất nước, đem lại thái bình cho dân.
+ Việc trả lại thanh gươm là hành động yêu chuộng hòa bình muốn dùng năng lực của mình để đưa đất nước phồn vinh khi chiến tranh đã kết thúc.
Xem thêm:
- Kể diễn cảm truyện Sự tích Hồ Gươm
- Phân tích truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm
Tổng hợp những mẫu bài cảm nghĩ hay nhất về truyện Sự tích Hồ Gươm
Bài làm 1
Ai đã một lần đặt chân đến Hà Nội đều không thể không đến thăm Hồ Gươm. Hồ Gươm như một lẵng hoa xinh đẹp nằm giữa lòng thành phố. Sự tích cái tên Hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với gần ngàn năm lịch sử của đất Thăng Long.
Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi, yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.
Bố cục của truyện gồm hai phần: Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm thần đánh giặc và sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Long Vương đòi lại gươm.
Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha.
Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa, nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa nhưng vì thế lực còn non yếu nên thua trận liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được tổ tiên, thần linh giúp đỡ và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Lê Lợi và Lê Thận nhận được gươm thần không phải từ một thế giới xa lạ nào mà ở ngay chính trên quê hương họ. Lê Thận đi kéo lưới ở bến sông, ba lần kéo lên đều chi được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi gươm. Con số 3 theo quan niệm dân gian tượng trưng cho số nhiều, có ý nghĩa khẳng định và ý nghĩa tạo tình huống, tăng sức hấp dẫn cho truyện. Lê Thận đem lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này trở thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một hôm đến nhà Lê Thận, chủ tướng Lê Lợi nhìn thấy lười gươm rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý trời) bèn cầm lên xem nhưng chưa biết đó là gươm thần.
Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử, nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in.
Không phải tình cờ người xưa để cho Lê Thận bắt được lưỡi gươm từ dưới đáy sông và Lê Lợi bắt được chuôi gươm từ trong rừng thẳm. Hai chi tiết đó có dụng ý nhấn mạnh gươm thiêng là do linh khí của sông núi hun đúc mà thành. Lưỡi gươm dưới nước tượng trưng cho hình ảnh miền xuôi, chuôi gươm trên rừng tượng trưng cho hình ảnh miền núi. Hai hình ảnh ấy kết hợp lại, ý nói ở khắp nơi trên đất Việt, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ đồng bằng sông nước tới vùng núi non hiểm trở, mọi người đều một lòng yêu nước và sẵn sàng đứng lên cứu nước, giết giặc ngoại xâm.
Tuy lưỡi gươm ở nơi này, chuôi gươm ở nơi khác nhưng khi đem lắp vào nhau thì vừa như in. Điều đó thể hiện nghĩa quân trên dưới một lòng và các dân tộc đồng tâm nhất trí cao độ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm.
Gươm thiêng phải được trao vào tay người hiền tài, có lòng yêu nước nhiệt thành, có ý chí cứu nước. Cho nên mới có chi tiết thú vị: Ba lần Thận kéo lưới lên đều chi được một thanh sắt (lưỡi gươm); trong đám người chạy giặc vào rừng sâu, chỉ một mình Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra từ ngọn cây cao, nơi có treo chuôi gươm báu. Và một hôm, khi chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Ánh sáng của thanh gươm và hai chữ Thuận Thiên khắc trên gươm như một lời khuyến khích, động viên của thần linh, của tổ tiên đối với Lê Lợi. Thuận Thiên là hợp ý trời. Hãy hành động cứu nước vì hành động đó hợp với lẽ trời. Mà đã hợp lẽ trời thì tất yếu sẽ hợp với lòng người và tin chắc sẽ thành công.
Đằng sau hình ảnh có vẻ hoang đường ấy chính là ý chí của muôn dân. Ý dân là ý trời. Trời trao mệnh lớn cho Lê Lợi cũng có nghĩa là nhân dân tin tưởng, trao ngọn cờ khởi nghĩa vào tay người anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Gươm chọn người và người đã nhận thanh gươm, tức là nhận trách nhiệm trước đất nước, dân tộc. Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi đã phản ánh rất rõ điều đó. Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền tổ quốc.
Như vậy là gươm báu đã trao đúng vào tay người hiền tài, cho nên đã phát huy hết sức mạnh lợi hại của nó. Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khi của nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng, đánh đâu thắng đấy, bao phen làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn kết của con người kết hợp với sức mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.
Lúc ở nhà Lê Thận, lưỡi gươm tỏa sáng trong góc nhà tối giống như cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã được nhen nhóm từ trong nhân dân. Ánh sáng thanh gươm thúc giục mọi người lên đường. Ánh sáng phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng của chính nghĩa, của khát vọng tự do, độc lập muôn đời.
Thanh gươm tỏa sáng có sức tập hợp mọi người. Gươm thần tung hoành ngang dọc, mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng dáng một tên giặc Minh nào trên đất nước ta.
Đánh tan quân xâm lược, non sông trở lại thanh bình. Lê Lợi lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho Rùa Vàng. Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần để đánh giặc, nay đất nước đã yên bình thì đồi gươm lại.
Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước. Gươm và Rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Đấy là ánh sáng của hào quang chiến thắng vẻ vang, ánh sáng của quyết tâm giết giặc bảo vệ tổ quốc. Những hình ảnh thần kì trên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bao người. Chi tiết này có ý nghĩa lớn lao: Khi vận nước ngàn cân treo sợi tóc, thần linh, tổ tiên trao gươm báu cho con cháu giữ gìn giang sơn, bờ cõi. Nay đất nước độc lập, bắt đầu giai đoạn xây dựng trong hòa bình thì gươm báu – hùng khí của tổ tiên lại trở về cõi thiêng liêng.
Hình ảnh Lê Lợi trả gươm đã nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, không thích chiến tranh nhưng kẻ nào xâm phạm đến chủ quyền độc lập, tự do của đất nước này đều sẽ được một bài học nhớ đời. Việc cho mượn gươm và đòi lại gươm của Long Quân như một lời răn dạy chí tình của ông cha ta đối với vị vua mới Lê Lợi: trừng trị kẻ thù thì phải dùng bạo lực, còn cai trị nhân dân thì nên dùng ân đức.
Lê Lợi nhận gươm trên đất Thanh Hóa nhưng lại trả gươm tại hồ Tả Vọng ở Thăng Long, Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết này bị giới hạn bởi vì lúc này, Lê Lợi đã là vua và kinh thành Thăng Long là thủ đô, tượng trưng cho cả nước. Việc trả gươm diễn ra ở đây mới thể hiện hết được tư tưởng yêu hòa bình và tinh thần cảnh giác của toàn dân tộc.
Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.
Cái tên Hồ Gươm gắn liền với huyền thoại lịch sử ấy sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, với sự ngưỡng mộ của bao thế hệ Việt Nam yêu hước.
Bài làm 2
Có những tác phẩm nói về lịch sử khiến chúng ta yêu mến và hứng thú nhưng góp phần để tạo ra những hứng thú ấy phải kể đến những sự tích, huyền thoại trong tác phẩm ấy. Có thể nói nó rất quan trọng và mang lại sự hấp dẫn cho những tác phẩm văn học mà nói về lịch sử của nhân dân ta thời bấy giờ.
Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi, yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.
Bài này được chia bố cục thành hai phần đó là phần Long Vương cho Lê Lợi mượn gươm thần và đoạn hai là sau khi đất nước sạch bóng quân thù thì long vương đòi lại gươm thần ấy.
Thứ nhất là khi Long Vương cho mượn gươm thần. Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha. Chính vì thế mà nhân dân ta căm phẫn lòng chúng ta giận không nguôi nhưng thế lực chúng ta còn yếu. Thấy được điều đó Long Vương đã cho vua Lê Lợi mượn chiếc gươm thần để đánh bay kẻ thù. Đó là ba lần thả lưới mới thấy được thanh gươm ấy. Có thể nói rằng cách cho mượn của Long Vương thật khéo, không đưa trực tiếp mà diễn ra dưới tình huống kéo lưới. Trên thanh gươm có khắc hai chữ “thuận thiên” là ý trời. Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử, nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in. Hai hình ảnh đó một ở nước một ở rừng cho thấy linh khí của sông núi hun đúc thành. Thế rồi nhờ thanh gươm ấy mà vua Lê Lợi đã chiến thắng quét sạch những tên xâm lược khốn nạn.
Đến khi quét sạch bóng quân thù trong một lần đi tản mạn trên dòng sông ấy, đến giữa dòng thì thấy một con rùa vàng nổi lên nói là đòi lại thanh kiếm báu. Đó chính là thần Kim Quy ngày nay mà chúng ta vẫn hay gọi. Lê Lợi hoàn lại thanh kiếm và từ đó nơi đây có tên gọi là Hồ Gươm hay là Hồ Hoàn Kiếm.
Như vậy ta thấy chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến. Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.
Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.
Bài làm 3
Có lẽ, khi nhắc đến Hà Nội mọi người đều nghĩ ngay đến Lăng Bác, Chùa Một Cột… hay là Hồ Gươm còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm đã không quá xa lạ đối với mỗi người dân Việt. Truyện cổ tích “Sự tích Hồ Gươm” là một thiên truyện đặc sắc trong kho tàng văn học Việt Nam, giải thích rõ nguồn gốc của cái tên Hồ Hoàn Kiếm thông qua những chi tiết và nhân vật gắn liền với lịch sử xây dựng đất nước.
Câu chuyện xoay quanh việc nhận được gươm và trả gươm của Lê Lơi, những chi tiết kỳ ảo và hiện thực xen lẫn nhau, đẩy cho cốt truyện lên cao trào, tạo cho người đọc cảm giác chờ đợi kết quả.
Với những hình tượng đẹp đẽ như Gươm thần, Rùa vàng…. truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, nhân đạo và chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi lãnh thổ đất nước dưới sự chỉ đạo của Lê Lợi.
Bố cục của câu chuyện được chia làm hai phần rõ ràng, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Phần thứ nhất là Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm thần để đánh giặc, phần thứ là người cho Rùa Vàng đến để đòi lại gươm khi đã đánh đuổi được giặc Minh, đất nước trở lại yên bình.
Bấy giờ ở Lam Sơn, Thanh Hóa, quân Minh kéo người sang xâm lược nước ta, nghĩa quân ta dựng cờ khởi nghĩa để chống lại quân địch, vì lực lượng còn non yếu nên đã nhiều lần thất bại. Như chúng ta đã biết, giặc Minh là một lũ khốn nạn, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, quyết tâm tiêu diệt quân ta, tội ác của chúng không thể nào tha thứ được.
Nhận thấy được nghĩa quân ta thất bại liên tục trước kẻ thù, Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân ta mượn gươm thần giết giặc, mang lại sự yên bình cho quần chúng nhân dân.
Được sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân cùng với sự giúp sức của thần linh, nghĩa quân đã nhanh chóng tiêu diệt địch, cướp kho lương thực của địch. Từ đó nhân dân ta được ăn no mặc ấm.
Gươm thần xuất hiện bằng cách nào? Trong một lần đánh bắt cá ở sông, Lê Thận cả ba lần đều vớt lên được một thanh sắt. Lấy làm kì lạ, ông nung nó dưới lửa và thấy phát sáng từ đó phát hiện ra lưỡi gươm. Còn Lê Lợi trong một lần trốn chạy quân địch, ông đã phát hiện ra chuôi gươm ở trên ngọn cây và ông nhớ đến có một lưỡi gươm ở nhà Lê Thận. Kỳ lạ thay, chuôi gươm và lưỡi gươm trùng khít vào nhau. Từ đó, nhờ sự giúp sức của gươm thần mà nghĩa quân đi đến đâu, giặc chết đến đấy.
Chi tiết lưỡi gươm xuất hiện dưới nước, chuôi gươm xuất hiện trên rừng, đó như là một lời nhắc nhở chúng ta, cho dù bất cứ ở nơi đâu đi chăng nữa, dân tộc Việt Nam là một, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ đồng bằng cho tới vùng nước non hiểm trở, chỉ cần có lòng yêu nước và tinh thần không chịu khuất phục trước kẻ thù thì ai cũng có thể đứng lên cứu nước. Nếu có sự đồng lòng và tinh thần đoàn kết thì không có bất kì đất nước nào có thể xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Ngoài ra, qua chi tiết lưỡi gươm và chuôi gươm ở hai nơi khác nhau nhưng khi ghép lại thì vừa khít chứng tỏ nghĩa quân ta trên dưới một lòng, chỉ cần như vậy là đã đánh thắng được kẻ thù.
Sau khi đánh đuổi được giặc Minh, đất nước trở lại yên bình, dân có cơm ăn áo mặc thì Long Quân sai Rùa Vàng đến đòi lại gươm. Sau việc trả gươm, hồ Tả Vọng được đổi tên thành Hồ Gươm hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm.
Với những chi tiết kỳ ảo, không có thật, tác giả dân gian đã dệt nên một câu chuyện thú vị, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, để lại cho con cháu chúng ta nhiều bài học vô cùng quý báu.
Qua truyện “Sự tích Hồ Gươm”, chúng ta như hiểu thêm về thời kì dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Các thế hệ sau phải biết tiếp nối truyền thống cha ông, đoàn kết một lòng bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
***
Nhằm giúp các em học sinh học tốt Tập làm văn lớp 6, doctailieu.com đã tổng hợp tất cả các bài Văn mẫu lớp 6 tập 1, tập 2 hay nhất, chọn lọc với đủ các dạng bài: Văn kể chuyện và miêu tả, văn tóm tắt – diễn cảm – phát biểu cảm nghĩ cho các em học sinh tham khảo.