Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu
Bài viết hướng dẫn cách làm bài phân tích Việt Bắc mới nhất năm 2024, những gợi ý chi tiết phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu).
Để viết được bài văn phân tích Việt Bắc hay và ấn tượng, các em đừng bỏ qua những nội dung gợi ý mà THPT Ngô Thì Nhậm sẽ cung cấp trong bài viết dưới đây.
Nội dung bài viết bao gồm:
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc
- Phân tích nội dung, nghệ thuật bài thơ Việt Bắc
- Nhận định hay về Tố Hữu và Việt Bắc
- Bài văn mẫu phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất
Chúng ta cùng bắt đầu….
I. Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc
1. Tác giả Tố Hữu
a) Tiểu sử
– Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra tại thành phố Huế, sau đó sống cùng cha tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Tố Hữu xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha ông là một nhà nho nên từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với văn chương, thơ ca.
b) Hoạt động cách mạng
– Năm 1938, Tố Hữu gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
– Ông từng bị bắt giam nhiều lần bởi chính quyền Pháp và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Tố Hữu tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều chức vụ quan trọng.
c) Sự nghiệp sáng tác
– Phong cách thơ: Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi và trữ tình, gắn bó mật thiết với cuộc đời và con người Việt Nam trong những năm tháng đấu tranh giành độc lập, xây dựng đất nước.
+ Chính trị – trữ tình: Kết hợp hài hòa giữa chất chính trị và cảm xúc trữ tình, thể hiện lý tưởng cách mạng và tình cảm sâu sắc với quê hương, đất nước, con người.
+ Sử thi – lãng mạn: Lãng mạn hóa hiện thực, khắc họa những hình tượng cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng, đồng thời phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống và con người Việt Nam trong chiến tranh.
+ Ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, giàu nhạc tính: Tố Hữu thường sử dụng thể thơ truyền thống, ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, giàu hình ảnh, biểu tượng trong các sáng tác của mình.
– Các giai đoạn sáng tác: Chặng đường thơ của Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với những chặng đường cách mạng của bản thân nhà thơ và những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam.
+ Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã sáng tác được nhiều tập thơ, bài thơ tiêu biểu trong đó phải kể đến tập thơ Từ ấy (bao gồm ba phần Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng), tập thơ Việt Bắc,…
+ Sau kháng chiến chống Pháp, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giành thống nhất đất nước, thơ Tố Hữu vẫn bám sát những bước đi và nhiệm vụ của cách mạng, của đời sống chính trị trên đất nước ta.
+ Những năm chống Mĩ cứu nước, thơ Tố Hữu mang đậm tính chính luận và cảm hứng sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng hùng ca, tập trung thể hiện hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam.
– Vị trí và ý nghĩa trong nền văn học Việt Nam:
+ Tố Hữu được coi là “lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “nhà thơ của lí tưởng cộng sản”.
+ Thơ ông có sức lay động mạnh mẽ đối với nhiều thế hệ người đọc, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng và xây dựng đất nước.
+ Tố Hữu được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
– Các tác phẩm chính:
- Từ ấy (1937 – 1946): Tập thơ đầu tay, thể hiện lý tưởng cách mạng của người thanh niên trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng cộng sản.
- Việt Bắc (1947 – 1954): Tập thơ tiêu biểu cho hồn thơ chính trị – trữ tình của Tố Hữu, bộc lộ nỗi nhớ và niềm tự hào về Việt Bắc, ca ngợi tình quân dân trong kháng chiến.
- Gió lộng (1955 – 1961): Phản ánh không khí sôi nổi của miền Bắc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Ra trận (1962 – 1971), Máu và hoa (1972 – 1977): Gửi gắm niềm tin vào chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Một tiếng đờn (1978 – 1992), Ta với ta (1992 – 1999): Suy ngẫm về cuộc đời và lý tưởng trong những năm tháng cuối đời.
2. Bài thơ Việt Bắc
– Hoàn cảnh sáng tác, vị trí trong sự nghiệp của Tố Hữu:
+ Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để ghi lại không khí bịn rịn, nhớ thương của kẻ ở người đi.
+ Bài thơ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, mở ra một giai đoạn mới trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu.
– Ý nghĩa lịch sử của bài thơ:
+ Tái hiện chân thực một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, đó là cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc.
+ Ca ngợi tình cảm gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân qua những kỷ niệm sâu sắc, những chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống và chiến đấu.
+ Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: niềm tin tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Bác Hồ.
+ Gửi gắm niềm tin vào tương lai, khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước.
+ Góp phần giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống yêu nước, cách mạng, về lịch sử dân tộc, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm với đất nước.
– Nêu bật giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
+ Nội dung: Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
+ Nghệ thuật: Bài thơ đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca, ngôn từ mộc mạc, giàu hình ảnh, giàu sức gợi…
3. Bối cảnh lịch sử – xã hội
Bài thơ Việt Bắc ra đời trong bối cảnh lịch sử – xã hội đặc biệt, bối cảnh ấy có ý nghĩa then chốt, ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung và cảm xúc của tác phẩm.
a) Bối cảnh lịch sử
– Trong cách mạng và kháng chiến, Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước…
– Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) được kí kết đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và chia cắt tạm thời đất nước, miền Bắc được giải phóng bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
– Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc.
– Cuộc chia ly đầy cảm xúc giữa người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc, giữa những người đã gắn bó, chia sẻ ngọt bùi trong suốt những năm kháng chiến gian khổ.
b) Bối cảnh xã hội
– Không khí hào hứng, phấn khởi: Cả nước đang hân hoan trước thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
– Nỗi nhớ thương, bịn rịn: Trong niềm vui chiến thắng chính là nỗi nhớ thương, bịn rịn khi phải chia xa những người đã cùng chung sống, chiến đấu trong những năm tháng gian khổ.
– Tâm trạng lạc quan, tin tưởng: Người dân Việt Nam tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, hướng về một tương lai hòa bình, thống nhất và thịnh vượng.
=> Những yếu tố lịch sử – xã hội đặc biệt này đã tạo nên nguồn cảm hứng lớn lao cho nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ không chỉ là khúc tình ca về nỗi nhớ, sự chia ly mà còn là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt, thể hiện niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
II. Phân tích bài thơ Việt Bắc
1. Phân tích bố cục
a) Bố cục bài thơ theo mạch cảm xúc, nội dung
– Phần 1 (8 câu đầu): Khung cảnh chia tay và tâm trạng của người đi kẻ ở.
– Phần 2 (Tiếp đến câu 20): Lời của người ở lại, nhớ về những kỷ niệm kháng chiến.
– Phần 3 (70 câu còn lại): Lời của người ra đi – những cán bộ cách mạng.
b) Ý nghĩa của từng phần trong việc thể hiện nội dung chính
Mỗi phần trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu đều mang một ý nghĩa riêng, góp phần thể hiện nội dung chính của tác phẩm:
– Phần 1: Khơi gợi nỗi nhớ da diết, sự lưu luyến của cả người ra đi lẫn người ở lại trong cuộc chia tay giữa người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Phần này đặt nền móng cho chủ đề chính của bài thơ – tình cảm gắn bó giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc, đồng thời mở ra không gian hồi tưởng về những kỷ niệm kháng chiến.
– Phần 2: Là trọng tâm của bài thơ, làm nổi bật tình cảm quân dân thắm thiết, sự hy sinh, cống hiến của người Việt Bắc, lòng biết ơn sâu sắc đối với những người cán bộ cách mạng đã cùng họ chiến đấu, chia sẻ gian khổ.
– Phần 3: Thể hiện tình cảm sâu nặng, nỗi nhớ da diết của người cán bộ cách mạng đối với Việt Bắc, khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước của người cán bộ.
2. Phân tích Việt Bắc chi tiết theo từng phần
a) Nỗi nhớ thương da diết của người cán bộ về Việt Bắc
* Nhớ thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ
– Người cán bộ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, nên thơ với “mười lăm năm ấy” gắn bó
-
“Mười lăm năm”: tính từ thời kháng Nhật (khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940) đến khi những người kháng chiến trở về Thủ đô (tháng 10 – 1954).
-
“nhớ”: điệp từ nhấn mạnh nỗi nhớ sâu sắc, thường trực, da diết.
-
“cây – núi, sông – nguồn”: những hình ảnh gợi mối quan hệ khăng khít, thủy chung, ân tình giữa kháng chiến và Việt Bắc.
- “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn”: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi, sự day dứt, lưu luyến, bối rối trong tâm trạng và hành động của người ra đi.
- “áo chàm”: hình ảnh hoán dụ gợi hình ảnh bình dị, thân thương của những người dân Việt Bắc với tâm hồn chất phác, chân thành, nghĩa tình sâu nặng.
- “cầm tay”: hành động thể hiện sự luyến tiếc và nghĩa tình keo sơn gắn bó giữa cách mạng và Việt Bắc, gợi nhớ những cuộc chia tay trong văn học trung đại.
– Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong tâm trí người cán bộ như một bức tranh sơn thủy hữu tình, nên thơ, đầy sức sống.
– Thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp mà còn gắn liền với những kỉ niệm đẹp về tình quân dân, về cuộc sống lao động cần cù của đồng bào.
Có thể tham khảo thêm những bài phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc để tìm hiểu chi tiết hơn nội dung và nghệ thuật đặc sắc của riêng đoạn thơ này.
* Nhớ tình nghĩa quân dân thắm thiết
– Nỗi nhớ về những ngày tháng sống và chiến đấu bên nhau, tình nghĩa quân dân gắn bó keo sơn:
+ “mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai” -> Những hình ảnh rất thực gợi được sự gian khổ của cuộc kháng chiến.
+ “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”: Họ là những người nghèo nhưng giàu tình nghĩa, son sắt, thủy chung với cách mạng.
– Sự hy sinh thầm lặng, sự ủng hộ hết lòng của đồng bào Việt Bắc đối với kháng chiến (người mẹ nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ ngô)
* Nhớ kỷ niệm những ngày tháng gian khổ khó quên
– Những kỷ niệm về những ngày tháng gian khổ nhưng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp
– Nhớ đến quãng thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái,…
+ “mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”: những địa danh tiêu biểu gắn liền với Việt Bắc thủ đô kháng chiến.
– Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung.
– Niềm tự hào, lòng biết ơn về những năm tháng oanh liệt của dân tộc.
* Nỗi nhớ chất chứa tình cảm sâu nặng
– Nỗi nhớ về một vùng đất, những con người, những kỷ niệm, những năm tháng gian khổ nhưng hào hùng.
– Nỗi nhớ ấy là biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước, lòng biết ơn đối với những người đã cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ cán bộ, bộ đội trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.
b) Hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, trữ tình của núi rừng Việt Bắc
* Vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ
– Trong những ngày đầu kháng chiến gian khổ của giai đoạn cầm cự, phòng ngự, bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt Bắc hiểm trở để đánh địch.
– Rừng núi Tây Bắc là nơi chôn bao lớp xác quân thù và cũng là người bạn đồng hành, chở che cho những anh lính trên đoạn đường hành quân đầy gian khổ:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
– Cùng với quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình người, trở thành những người bạn, người đồng đội, chiến sĩ anh hùng của toàn quân.
– Núi thì giăng thành lũy, rừng thì bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước -> Cái trùng trùng điệp điệp của rừng, cái khí thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ thù khiếp sợ và bất lực.
-> Việt Bắc đã trở thành vùng đất địa linh nhân kiệt, là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
=> Phép liệt kê kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập tạo nên bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, trải dài khắp mọi miền của Việt Bắc.
* Vẻ đẹp trữ tình, nên thơ
– Cảnh vật thanh bình, êm đềm:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
-> Không gian đẹp nhất, lãng mạn nhất trong ngày: Khi trăng đã lên ngang tầm đỉnh núi, hoàng hôn đã buông lưng chừng nương rẫy là thời gian đôi lứa hò hẹn nhau.
(Để có những cảm nhận đầy đủ hơn về đoạn thơ này, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn phân tích đoạn thơ Nhớ gì như nhớ người yêu trong bài Việt Bắc)
– Khói bếp thổi cơm đưa lên hòa cùng với sương sớm và sương chiều buông phủ xa mờ, tạo nên một bức tranh nên thơ, lãng mạn mơ màng:
Nhớ từng bản khói cùng sương
– Những vùng bạt ngàn tre nứa, mang đầy sức sống, giản dị, mộc mạc mà ngay thẳng, kiên cường bất khuất:
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
– Những con suối, dòng sông len lỏi giữa núi rừng:
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
– Bức tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân – hạ – thu – đông:
+ Bức tranh mùa đông:
- Bút pháp chấm phá cổ điển gợi chứ không tả, màu xanh thẫm của núi rừng mang cảm giác thâm u, lạnh lẽo và có phần khắc nghiệt.
- Màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng nhạt của nắng điểm tô trên cái nền xanh thẳm của núi rừng, tạo thành một bức tranh mùa đông rạng rỡ, đầy hi vọng, xua tan bớt cái lạnh lẽo, mang chút cảm giác ấm áp cho hình ảnh Tây Bắc tươi đẹp nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
- Hình ảnh con người mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
– Bức tranh mùa xuân:
- Sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng.
- Hình ảnh con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù.
– Bức tranh mùa hạ:
- Sự kết hợp giữa sắc vàng và tiếng ve khiến bức tranh thiên nhiên mùa hè trở nên ấn tượng bởi sự rộn ràng, nhộn nhịp và rực rỡ.
- Từ “đổ” gợi ra sự chuyển mùa nhanh chóng và đồng loạt của núi rừng Tây Bắc.
- Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu đối với con người Việt Bắc.
– Bức tranh mùa thu
- Hình ảnh vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, là những đêm thức trắng cùng trăng chờ giặc, là biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung.
- Hình ảnh con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là thông qua tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.
* Sự gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên và con người
– Thiên nhiên Việt Bắc không chỉ là nơi ở, nơi chiến đấu mà còn là người bạn tri kỷ, chứng kiến những thăng trầm của cuộc kháng chiến.
– Thiên nhiên hòa quyện với con người, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, trở thành nguồn động viên tinh thần to lớn.
– Ở mỗi bức tranh thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người.
+ Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ.
+ Hình ảnh người đan nón với động tác chuốt từng sợi giang thật gần gũi, mềm mại, tỉ mỉ tạo nên sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người.
+ Giữa rừng núi bao la, thấp thoáng bóng dáng cô gái hái măng tuyệt đẹp khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.
+ Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
=> Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người nơi đây luôn gắn bó khăng khít, không thể tách rời, thiên nhiên chính là yếu tố làm tôn lên vẻ đẹp con người.
* Ý nghĩa biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc
– Sức sống mãnh liệt, ý chí kiên cường, bất khuất của con người Việt Bắc trong kháng chiến.
– Tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, tha thiết của người cán bộ.
c) Tình cảm gắn bó keo sơn giữa quân và dân Việt Bắc
– Sự đùm bọc, cưu mang của đồng bào Việt Bắc với cán bộ, bộ đội:
+ Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con lên rẫy” thể hiện sự hy sinh thầm lặng, sự ủng hộ hết lòng của đồng bào Việt Bắc đối với kháng chiến.
+ “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” – những hình ảnh giản dị mà thấm đượm tình người, cho thấy sự sẻ chia, đùm bọc, cưu mang của người dân dành cho cán bộ, bộ đội.
+ “Mái đình Hồng Thái”, “cây đa Tân Trào” không chỉ là địa điểm lịch sử mà còn là biểu tượng cho sự che chở, bao bọc của đồng bào Việt Bắc đối với cách mạng.
– Tình cảm yêu mến, kính trọng của cán bộ, bộ đội dành cho người dân:
+ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”, “nhớ gì như nhớ người yêu”: thể hiện tình cảm chân thành, sâu nặng của người cán bộ cách mạng dành cho nhân dân.
+ Cán bộ, bộ đội coi người dân như người thân ruột thịt, cùng chung sống, cùng chiến đấu, cùng chia sẻ những khó khăn, gian khổ.
– Sức mạnh của tình quân dân:
+ Tình cảm keo sơn giữa quân và dân là nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp cán bộ, bộ đội vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu giành thắng lợi.
+ “Những đường Việt Bắc của ta/ Đêm đêm rầm rập như là đất rung” – hình ảnh so sánh đầy ấn tượng cho thấy sức mạnh to lớn của tình quân dân đã làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến.
– Ý nghĩa biểu tượng của tình quân dân:
+ Tình quân dân trong “Việt Bắc” là biểu tượng đẹp đẽ, bất diệt về tình đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa quân đội và nhân dân, là sức mạnh to lớn đưa cách mạng đến thành công.
d) Khát vọng về tương lai tươi sáng của đất nước
– Niềm vui chiến thắng:
+ Sau những năm tháng chiến đấu gian khổ, đất nước đã giành được độc lập, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: “Tin vui chiến thắng trăm miền / Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về”.
+ Niềm vui chiến thắng được thể hiện qua những hình ảnh tươi sáng, rộn ràng: “Vui từ Đồng Tháp, An Khê / Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
– Niềm tin vào sự lãnh đạo, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Bác Hồ:
+ “ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng rực rỡ, cụ Hồ sáng soi, Trung ương, Chính phủ, mái đình, cây đa,…”: những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả và cũng là biểu tượng của cách mạng, tương lai của dân tộc.
+ “Ở đâu… Nhìn lên…, Ở đâu… Trông về…”: phép điệp nhằm nhấn mạnh Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn của sự sống.
+ “u ám” > < “sáng soi”: biện pháp đối lập nhằm đề cao vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Người chính là chỗ dựa tinh thần tươi sáng nhất cho cách mạng và nhân dân Việt Nam.
+ Cách xưng hô “mình – ta”
=> Niềm tự hào, niềm tin gửi gắm vào cách mạng Việt Bắc: hình ảnh ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng tươi sáng nơi nguồn cội của cuộc cách mạng, nơi có trung ương Đảng, có chính phủ và có Bác Hồ, thể hiện niềm tin vào sức mạnh, khả năng lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng, niềm tự hào vào những chiến công Việt Bắc.
– Khát vọng xây dựng đất nước:
+ Việt Bắc với những con người cần cù, chịu khó sẽ góp phần xây dựng đất nước:
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
+ Khát vọng mãnh liệt về một đất nước thống nhất, phồn vinh, hạnh phúc.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ Việt Bắc
– Giá trị nội dung:
+ Việt Bắc là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.
+ Bài thơ Việt Bắc còn là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến và của cả dân tộc.
– Giá trị nghệ thuật:
+ Sử dụng sáng tạo hai đại từ “mình”, “ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca
+ Đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu với thể thơ lục bát
+ Giọng thơ linh hoạt, thay đổi theo từng nội dung, cảm xúc
+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc như điệp ngữ, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ…
+ Cách gieo vần, ngắt nhịp linh hoạt tạo nên âm hưởng mềm mại, du dương
+ Ngôn từ mộc mạc, giàu hình ảnh, giàu sức gợi
+ Phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.
Ngoài những nội dung cơ bản trên đây, để bài phân tích Việt Bắc của chúng ta thêm sinh động, hấp dẫn các em cũng có thể trích dẫn những nhận định, lời bình hay về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc như sau:
4. Các ý kiến nhận định về Tố Hữu và Việt Bắc của các nhà phê bình văn học
Người ta gọi Tố Hữu là:
- “nhà thơ của cách mạng”
- “nhà thơ của nhân dân”
- “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”
- “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”
- ”một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng – Nghệ thuật – Tình yêu”
- “một viên ngọc trong nền văn hóa Việt Nam”
- “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”
Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông dường như chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng. Đọc ông trong bất cứ hoàn cảnh và tâm trạng nào, ta cũng thấy phấn chấn, náo nức như đi trẩy hội. Đến đâu cũng nghe vang tiếng trống, tiếng kèn. Mà thơ ông đâu chỉ có trống phách linh đình như một đám rước, ông còn bắn cả 21 phát đại bác vang trời. Cho đến nay, chỉ có ông là nhà thơ Việt Nam duy nhất đã bắn đại bác trang trọng như thế.”
(Trần Đăng Khoa)
Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ.
(Hoàng Trung Thông)
Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca.
(Đặng Thai Mai)
Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình – chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân tình thủy chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm, lâu bền của bài thơ…”
(Trần Đình Sử)
Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ…, không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc…
(Xuân Diệu)
III. Bài văn mẫu phân tích Việt Bắc
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về thơ Tố Hữu: “Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Quả thực vậy, Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời. Điều này được thể hiện rất rõ qua “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của quân và dân ta, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết, dân tộc Việt Nam bước sang trang sử mới hòa bình và tự do. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách mạng.
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” – người cán bộ về xuôi, “ta” – người dân Việt Bắc. “Mình” và “ta” đã trải qua những ngày tháng không thể nào quên: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu ngàn đời của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!
Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc.
Không chỉ vậy, các hình ảnh như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ “biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi vào cái cầm tay nặng ân tình.
Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.
Tiếp nối cho mạch cảm xúc nhớ thương tha thiết, người ở lại gợi nhắc những kỉ niệm cũ của một thời vận động đấu tranh cách mạng gian khổ:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Câu hỏi một lần nữa vang lên “Mình đi, có nhớ những ngày” nhưng thực chất lại dùng để khơi gợi kỉ niệm, bày tỏ sự gắn bó giữa người đi và người ở. Tất cả những kỉ niệm đồng hiện, vẫn còn vẹn nguyên như vừa mới hôm qua. Mưa, suối, mây mù đều là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên nơi ấy hùng vĩ, nên thơ mà cũng rất hoang vu, dữ dội. Mảnh đất có mưa rừng xối xả, suối lũ cuốn xiết ấy đã “che bộ đội”, “vây quân thù” trong suốt những năm kháng chiến gian lao.
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Người ở lại còn nhắc đến kí ức những ngày ở chiến khu. Đời sống tại chiến khu Việt Bắc vô cùng thiếu thốn, họ phải ăn cơm chấm muối cùng trám bùi và măng mai. Những lớp lá lau xám biến thành mái nhà đơn sơ, tạm bợ. Từ láy “hắt hiu” được đảo lên đầu câu giúp gợi tả chân thực, xúc động hình ảnh những mái tranh bạc màu qua mưa nắng. Đáng quý hơn cả chính là con người Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ với những người chiến sĩ, một lòng trung thành với cách mạng. Tố Hữu đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật tiểu đối giữa “Miếng cơm chấm muối” với “mối thù nặng vai”, “Hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son”. Dù cuộc sống sinh hoạt cực khổ trăm bề nhưng vì “mối thù nặng vai” với thực dân mà con người sẵn sàng hi sinh để đất nước được độc lập. Dẫu những mái tranh nghèo có trở nên hắt hiu vì sương gió thì tấm lòng của con người với cách mạng,quê hương vẫn luôn thắm đỏ như màu cờ Tổ quốc. Giờ đây, khi người chiến sĩ về xuôi, những tháng này ấy đã trở thành một góc kỉ niệm không thể nào phai nhạt. Nỗi nhớ khiến lòng người ở lại nặng trĩu. Trám bùi biết để cho ai? Măng mai giờ già cỗi vì không còn người hái?
Bốn câu thơ cuối đoạn là nỗi nhớ về quá trình kháng chiến gắn với những mốc lịch sử trọng đại của dân tộc:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
Vào năm 1940, phát xít Nhật xâm chiếm đất nước ta. Đến năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, phát động cao trào kháng Nhật cứu quốc. Trải qua biết bao vất vả, tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại cây đa Tân Trào. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1945, quốc dân đại hội đã phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng 8 thành công, lịch sử dân tộc bước sang trang mới vẻ vang. Có thể thấy, tất cả những mốc thời gian và địa điểm được nhắc đến trong đoạn thơ đều là những mốc son chói lọi với toàn dân tộc. Những câu thơ như một thước phim gợi lại quá trình chiến đấu của quân và dân Việt Nam rất đáng tự hào. Nhà thơ đảo ngữ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” có dụng ý nhấn mạnh vào những địa danh quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Điệp từ “có nhớ” ngân vang, kết hợp với cách xưng hô “mình” – “ta” mang đến cảm xúc tự hào xen lẫn xúc động cho cả đoạn thơ.
Sau khi lắng nghe nỗi lòng, những kỉ niệm sống dậy trong tâm trí người dân thì đến đây, người cán bộ cách mạng mới cất tiếng:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
“Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Âm hưởng trữ tình của những câu ca dao lan tỏa khắp lời thơ. Cặp từ xưng hô được hoán đổi vị trí rất nhuần nhị ở câu thơ đầu. Người chiến sĩ khảng khái khẳng định: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Dù “trước” hay “sau”, quá khứ hay tương lai thì tấm lòng ân tình mà người chiến sĩ dành cho con người, thiên nhiên Việt Bắ cũng chẳng khi nào thay đổi. Con người vẫn một lòng một dạ hướng về nhau như dòng nước chảy ra biển lớn vẫn nhớ về nguồn cội. Các từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” có ý nghĩa khẳng định mạnh mẽ tấm lòng của cán bộ cách mạng. Cặp từ chỉ quan hệ tăng tiến “bao nhiêu” – “bấy nhiêu” vừa khẳng định tình cảm của con người, vừa gợi nhớ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu khiến ta nhớ đến những câu ca dao xưa:
Muối mặn ba năm còn mặn
Gừng cay chín tháng còn cay
Dù ai xuyên tạc lá lay
Sắt son nguyệt giữ lòng này thuỷ chung.
Nỗi nhớ trong lòng người chiến sĩ đằm sâu, da diết biết mấy! Người chiến sĩ cũng bày tỏ sự lưu luyến với cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Nỗi nhớ thiên nhiên, con người Việt Bắc được cụ thể hóa, so sánh với nỗi nhớ người yêu hết sức nồng nàn, cháy bỏng. Nhớ người yêu xuất hiện trong những câu ca dao xưa bao giờ cũng là nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải nhất. Tố Hữu lấy nỗi nhớ ấy để diễn tả tự nhiên, chân thực, sinh động nỗi nhớ Việt Bắc. Trong nỗi nhớ ấy, ta tìm thấy ánh trăng yên ả thanh bình nhô lên sau dãy núi, thấy lưng nương rực rỡ trong ráng chiều, thấy cả rừng nứa bờ tre thân thương hồn hậu. Không gian Việt Bắc bao la, khoang đạt, thơ mộng, hiền hòa, đẹp tuyệt mĩ như được bàn tay danh họa vẽ nên. Phải là con người gắn bó, hòa mình với cảnh vật nơi đây thì mới có thể viết nên những câu thơ tinh tế đến vậy. Bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến những địa danh trong khu căn cứ địa như “Ngòi Thia”, “sông Ðáy”, “suối Lê”. Trung tâm của nỗi nhớ tập trung vào hình ảnh “người thương đi về”. Trạng từ chỉ thời gian “Sớm khuya” và hình ảnh giản dị “bếp lửa” cho ta thấy phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Cách gọi “người thương” sao mà thân thương, trân quý đến thế! Điệp từ “nhớ”, “nhớ từng” lặp lại nhiều lần tựa như điệp khúc về nỗi nhớ cứ ngân lên không dứt trong tâm hồn con người.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Những câu thơ tiếp theo vẫn là tiếng nói giãi bày của người đi. Những rung động nghĩa tình được thể hiện qua câu thơ: “Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”. Thành ngữ “Đắng cay ngọt bùi” được vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào câu thơ, bao quát những khó khăn gian khổ và cả niềm vui, hạnh phúc của con người. Câu thơ được chia thành hai vế đối xứng với nhịp 4/4, hài hòa giữa hình thức biểu đạt và nội dung ý nghĩa. Dù “đây” hay “đó”, dù gian nan hay yên ấm thì tấm lòng người về xuôi vẫn mãi gắn kết keo sơn với người ở lại. Tình cảm khăng khít ấy được bồi đắp qua từng ngày “chia củ sắn lùi”, “Bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”. Hai câu thơ trở thành biểu tượng cho sự đồng cam cộng khổ và nghĩa tình nhân dân trong kháng chiến. Câu thơ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng / Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” vừa diễn tả sự khắc nghiệt của tự nhiên vừa làm nổi bật sự chăm chỉ, tảo tần của những người phụ nữ Việt Bắc. Mẹ địu con lên rẫy như cõng cả mặt trời nắng bỏng trên lưng. Mẹ nuôi con, mẹ nuôi bộ đội, mẹ góp sức của mình vào kháng chiến, thật đáng cảm phục!
Con người và thiên nhiên Việt Bắc là thế, mạnh mẽ mà nồng ấm nghĩa tình. Chính vì vậy, tác giả đã nhìn thấy ở họ niềm lạc quan, yêu đời, tin vào tương lai:
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Điệp ngữ “Nhớ sao” lặp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ thường trực, nỗi bồi hồi xao xuyến. Nhà thơ nhớ đến những lớp bình dân học vụ ngân vang tiếng đọc bài của đồng bào Việt Bắc, những buổi liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay giữa đồng khuya dưới ánh sáng của đuốc. Tiếng hát say đời, ham lao động vang khắp núi đèo. Đặc biệt, nhà thơ còn lồng vào đó âm thanh của chày giã gạo ngoài suối xa vọng lại vào đêm. Tố Hữu đã thật sự nắm bắt được cái thần, cái hồn của thiên nhiên Việt Bắc.
Đoạn thơ tiếp theo là chứa đầy màu sắc về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Trong đó, hai câu thơ đầu có ý nghĩa khái quát cảm xúc của toàn đoạn:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Nhà thơ vẫn sử dụng cách xưng hô “Ta” – “mình” thân thuộc, gần gũi. Hai chữ “Ta về” được ngắt riêng như một nốt nhạc quãng ngắt lưu luyến, ngập ngừng trong bản tình ca cách mạng. Câu hỏi tu từ “Ta về, mình có nhớ ta” mang âm hưởng trữ tình ngọt ngào của ca dao, dân ca. Câu hỏi ấy không chỉ hướng về phía người ở lại mà còn hướng về chính người chiến sĩ. Người cán bộ cách mạng tự khẳng định tình cảm ân nghĩa thủy chung của lòng mình với thiên nhiên, con người Việt Bắc. Vậy người ra đi nhớ điều gì? Người ra đi nhớ “những hoa cùng người”. “hoa” ở đây có nghĩa là thiên nhiên đẹp đẽ, tươi sáng, hùng vĩ của Việt Bắc. Hòa với nét đẹp của hoa là vẻ đẹp của “người”. Con người và thiên nhiên Việt Bắc hòa quyện, gắn bó khăng khít, làm nên cái hồn cho mảnh đất này.
Những câu thơ sau là bức tranh tứ bình đầy ấn tượng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên đầy sức sống, đẹp đẽ, tươi sáng đến lạ thường. Cảnh rừng Việt Bắc trong mùa đông vẫn thật xanh tươi, căng tràn sức sống: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Trên cái nền xanh thẳm của núi rừng là sắc đỏ rực rỡ tựa muôn ngàn đốm lửa của những bông hoa chuối. Thiên nhiên đang tự mình thắp lên những ngọn lửa để sưởi ấm trong trời đông rét ngọt. Mùa đông trong thơ Tố Hữu không những không hề héo úa, lụi tàn mà còn lấp lánh ước mơ, hi vọng. Đến mùa xuân, bao nhiêu mầm sống được ấp ủ bấy lâu đã thỏa sức bung nở. Khung cảnh như thay màu áo mới. Màu trắng tinh khôi, trong trẻo của hoa mơ bao phủ khắp đất trời. Hai chữ “trắng rừng” cho thấy sức sống âm thầm mà mãnh liệt vô cùng. Dường như mải đắm mình trong bạt ngàn hoa trắng, ta giật mình ngỡ ngàng khi hạ đã về tự bao giờ.
Câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi lên bản tình ca mùa hè sôi nổi, rạo rực. Đây là vẻ đẹp đặc trưng của Việt Bắc. Chữ “đổ” là nhãn tự của cả câu thơ, diễn tả sự giao hòa của tạo vật. Ve kêu đến đâu, rừng phách ngả vàng đến đó. Sắc màu thời gian như đổ xuống cảnh vật, đẹp đẽ và diệu kì. Đến mùa thu, điều tác giả nhớ nhất chính là “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Ánh trăng mơ màng, dịu dàng chiếu rọi xuống cảnh vật. Mọi ngóc ngách trong rừng đều chảy tràn ánh trăng, huyền ảo như bước ra từ trang cổ tích. Thiên nhiên Việt Bắc đáng yêu, bình yên quá đỗi khiến người ta say đắm không thể nào quên.
Đi liền với nỗi nhớ thiên nhiên, tác giả còn nhớ về con người Việt Bắc rất mực thân thương. Họ hiện lên trong tư thế hài hòa, làm chủ tự nhiên. Câu thơ: “Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” mang màu sắc “rất Việt Bắc” (Xuân Diệu). Nhân dân Việt Bắc thường gài chiếc dao vào thắt lưng khi đi làm nương rẫy. Trên tầm cao của đèo, ánh nắng chiếu vào dao tạo nên phản quang lấp lánh. Con người không nhỏ nhoi, đơn độc trước cái cao, dốc của đèo mà trái lại, càng mạnh mẽ và hào hùng. Trong khung cảnh mùa xuân, tác giả miêu tả cụ thể về người đan nón. Động từ “chuốt” có nghĩa là trau chuốt, làm cho bóng, cho mượt. Chữ “từng” gợi tả sự tỉ mỉ, cần cù, khéo léo, tài hoa của con người Việt Bắc khi lao động.
Thiên nhiên có hoa mơ nở trắng rừng, con người lại có chiếc nón trắng thể hiện tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương, đất nước. Người dân gửi cả tấm lòng mình vào công việc thủ công, sáng tạo ra những vật phẩm mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đến khi hạ về, tác giả phát hiện ra giữa sắc vàng óng ả của rừng phách là “cô em gái hái măng một mình”. Sự hiệp vần “hái “ với “gái” khiến câu thơ đậm tính nhạc hấp dẫn. Người con gái Việt Bắc thật trẻ trung, tươi tắn, xinh đẹp. Dẫu cô gái đang đi hái măng một mình, làm công việc lao động vất vả giữa rừng nhưng chẳng hề lẻ loi, cô độc. Con người làm chủ tự nhiên và cuộc đời, bộc lộ rõ nét hồn nhiên, đáng yêu đến lạ. Cuối cùng, tác giả nhớ đến tiếng hát “ân tình thủy chung” dưới đêm trăng trong mùa thu. Đó không chỉ là tiếng hát trong trẻo vang lên trong đêm thanh mà còn là tiếng lòng ân nghĩa vẹn tròn giữa “ta” và “mình”. Tiếng hát khép lại đoạn thơ nhưng tình người thì mãi còn vang vọng.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ về những ngày đầu kháng chiến, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và những chiến công của quân dân ta. Hai câu thơ đầu đậm chất tự sự, thuật tả lại thực tế kháng chiến.Những từ “lùng”, “đến” cho thấy sự dã man, tàn bạo của giặc, chúng quyết tâm tiêu diệt những người chiến sĩ yêu nước của ta. Quân đội ta đã dựa vào địa thế hiểm yếu của núi rừng Việt Bắc để chống giặc. Cách diễn đạt “ta cùng đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng giữa con người và thiên nhiên. “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” chính là như thế! Tinh thần đoàn kết “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng” trở thành yếu tố quyết định làm nên sự toàn thắng của đất nước ta. Khổ thơ không chỉ vừa đậm chất hiện thực lại giàu tính trữ tình, ca ngợi tinh thần thép, ý chí kiên cường của con người Việt Nam. Có sự che chở của nhân dân và núi rừng Việt Bắc, quân ta liên tiếp gặt hái được thắng lợi:
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà
Điệp từ “nhớ” được lặp lại năm lần trong câu thơ, cho thấy nỗi nhớ bao trùm lên cả đèo, sông, phố. Nhà thơ Tố Hữu nhớ từ những trận đánh đầu tiên của quân ta như phủ Thông, đèo Giàng, nhớ cả sông Lô trong chiến thắng Thu – Đông năm 1947 đến nhận đánh nơi phố Ràng năm 1948 đánh dấu sự lớn mạnh của quân đội ta. Những địa danh được liệt kê liên tiếp khiến khổ thơ như một thước phim tư liệu lịch sử.
Tác giả nhớ về những trận chiến oanh liệt của quân và dân chính là khẳng định tấm lòng gắn bó son sắt với nhân dân Việt Bắc. Con người Việt Bắc tài hoa, anh dũng đã hòa vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, thủy chung với cách mạng, làm nên sức mạnh to lớn:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Nhà thơ phác họa khung cảnh toàn quân ra trận với khí thế hào hùng, sôi sục. Giữa không gian rộng lớn và thời gian đằng đẵng, quân đội ta nổi bật với những bước chân “rầm rập” rung chuyển cả đất trời. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” khắc họa hình ảnh đoàn quân đông đảo, không ngừng tiến tới để đối mặt với quân thù. Dù vật chất còn thiếu thốn, các chiến sĩ chỉ có “mũ nan” nhưng nào có hề gì bởi ánh sao ngời sáng trên mũ đang soi đường cho bộ đội ta đi tới. Ánh sao ấy còn tượng trưng cho lý tưởng cách mạng, tấm lòng yêu chuộng của con người Việt Nam. Hình ảnh cường điệu “bước chân nát đá” cho thấy sức mạnh phi thường của quân đội ta. Sức mạnh ấy phá vỡ cái thăm thẳm lạnh lẽo của màn sương đêm, mở lối cho ánh đèn xe kéo pháo. Cuối cùng, tin vui chiến thắng đã về đến “trăm miền”. Tác giả liệt kê hàng loạt địa danh để thể hiện niềm hân hoan thắng lợi đang rạo rực trên mọi miền Tổ quốc.
Tác phẩm là cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân và cán bộ cách mạng, cho thấy nỗi nhớ thương tha thiết, nặng tình ân nghĩa của những con người cùng nhau vào sinh ra tử trong kháng chiến. “Việt Bắc” đã khắc họa nét đẹp phong phú của thiên nhiên, cuộc sống Việt Bắc. Từ đó, tác phẩm còn ngợi ca vẻ đẹp mạnh mẽ, cần cù, tài hoa, tấm lòng kiên trung, tràn đầy tình yêu thương đất nước và con người của nhân dân nơi đây. Đây quả thực là khúc ca về cách mạng, về con người kháng chiến. Nhà thơ đã kết cấu bài thơ theo lối đối đáp của ca dao, ngôn ngữ thơ dân dã, giọng thơ mang âm hưởng ngọt ngào cùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa giàu tính biểu tượng.
“Việt Bắc” thực sự là “những vần thơ tươi xanh”, “những vần thơ bỏng cháy” được viết nên từ tài năng và tâm huyết của nhà văn. Tác phẩm là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca thời kì chống Pháp nói chung.
Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa. Qua việc phân tích VIệt Bắc, ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.
Các nguồn tham khảo thêm:
– https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91_H%E1%BB%AFu
– https://www.thivien.net/T%E1%BB%91-H%E1%BB%AFu/Vi%E1%BB%87t-B%E1%BA%AFc/poem-v9h1P_8l-sRaiDRUqg2JRQ
Trên đây là toàn bộ những gợi ý chi tiết cùng bài văn mẫu phân tích Việt Bắc đặc sắc nhất do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp và biên soạn gửi đến các em cùng tham khảo. Chúc các em hoàn thành tốt bài văn và đạt được điểm cao!