Văn mẫu 12

Phân tích truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ – Văn mẫu lớp 12

Tham khảo tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích tác phẩm Bắt sấu rừng U Minh Hạ của nhà văn Sơn Nam.

Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam.

Bài làm:

Hướng dẫn lập dàn ý chi tiết

I. Mở bài

– Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Sơn Nam công tác văn nghệ tại khu IX Nam Bộ, do đó có nhiều điều kiện hiểu biết về thiên nhiên, lịch sử, con người vùng đất mũi Cà Mau, vùng đất địa đầu cực nam tổ quốc. Hướng về Cà Mau, về Nam Bộ, Sơn Nam có nhiều sáng tác và khảo cứu đầy tâm huyết. Bắt sấu rừng u Minh Hạ là một truyện ngắn đăng trên tuần báo Nhân loại (1957), sau in trong tập truyện Hương rừng Cà Mau (1962).

– Vốn gắn bó quen thuộc với đất rừng phương Nam, qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ, tác giả đem đến cho người đọc một bức tranh độc đáo về thiên nhiên và con người vùng U Minh Hạ.

II. Thân bài

1. Thiên nhiên và con người vùng U Minh Hạ

Vùng đất U Minh Hạ, qua truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ, có rừng tràm xanh biếc, những cây cỏ hoang dại như lau sậy, mốp, cóc kèn… và thật lạ lùng, ở ngọn rạch Cái Tàu có cái ao sấu nhiều như trái mù u chín rụng. Những con người sống trên vùng đất hoang vu, dữ dội đó thật cần cù, mưu trí, gan góc, can trường, sức sống mãnh liệt, giàu tình nặng nghĩa. Họ thương tiếc những bà con xóm giềng bị hùm tha sấu bắt, họ vượt lên gian khó, hiểm nguy bằng sức mạnh và tài trí của mình. Người thì câu sấu bằng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống, Năm Hên bắt cá sấu bằng tay không, lại có người như Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu, rồi những người trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng… Chính họ đã mang lại sức sống cho vùng rừng hoang vu nơi đất mũi Cà Mau.

2. Nhân vật trung tâm: Năm Hên

Ở điểm nhìn của người trần thuật, Sơn Nam có lối miêu tả rất thô mộc, tự nhiên, gọn gàng mà sáng rõ. Nhân vật Năm Hên được thể hiện bằng một số nét đơn sơ nhưng đã khắc họa sâu đậm dáng vóc con người với những nét tính cách tiêu biểu.

a) Giản dị, khiêm tốn, trọng nghĩa khinh tài

Năm Hên là người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo. Nghe đồn đại về cái ao sấu, ông bơi xuồng đến ngọn rạch Cái Tàu với vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu. Lọn nhang dùng để tưởng niệm những người đã bị cá sấu bắt, hũ rượu để tăng thêm sự dũng cảm khi bắt giết cá sấu, trừ họa cho dân lành. Ông còn là một người trọng nghĩa khinh tài: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không màng thứ phú quới đó”.

b) Mưu trí dũng cảm, can trường

Năm Hên chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi câu. Ông đào sẵn đường thoát, đốt cháy sậy đế, cóc kèn, sấu bị nung nóng, cay mắt, ngộp thở bò lên, bị ông đút vô miệng một khúc mốp dính chặt hai hàm răng. Ông dùng mác xắn lưng sấu, cắt gần đuôi, trói hai chân sau, bắt sấu về.

c) Nghĩa tình với người đời ân nghĩa với người xưa

– Bắt sấu để giúp dân làng Khánh Lâm an tâm lao động sản xuất là mục đích cao đẹp trước mắt của Năm Hên.

– Đặc biệt, Năm Hên còn tưởng niệm người xưa. Bài hát của ông tưởng nhớ hương hồn những người đã bị cá sấu bắt, bị chết một cách oan ức, trong đó có người anh ruột của ông. Lời hát gợi lên bao cảm nghĩ về cuộc sống khác nghiệt ở vùng đất U Minh, nơi nhiều người phải bỏ thân nơi đầu bãi cuối gành vì manh áo chén cơm, đồng thời cũng cho thấy tấm lòng sâu nặng nghĩa tình đồng loại, đồng bào của Năm Hên. Ông há để tỏ lòng thương tiếc những người xấu số và bằng hành động mưu trí bắt đàn sấu dữ, rồi đã “lập đàn giải oan” cho người xưa.

Bài hát tạo không khí bí hiểm và có phần rùng rợn, tràn đầy cảm xúc, tựa như lời gọi hồn hay bài kinh cầu siêu, giải oan cho những linh hồn bị hùm tha, sấu bắt…

3. Đặc sắc nghệ thuật

– Truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ đã hấp dẫn người đọc bằng cách dựng truyện li kì, những chi tiết gợi cảm, nhân vật giàu chất sống, ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ.

– Tác giả dẫn dắt người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, liên tục khêu gợi sự chờ đợi hồi hộp:

+ Bất ngờ thứ nhất (đoạn lược bỏ mở đầu): Sấu tập trung trên rừng chứ không phải dưới sông như thường thấy: Có người lên rừng ăn ong chạy về loan báo sấu ở rừng nhiều như trái mù u chín rụng và dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi và vô cùng kinh ngạc.

+ Bất ngờ thứ hai: Ông Năm Hên xuất hiện, tuyên bố bắt sấu bằng… hai tay không, thật là phi phàm, thế gian hi hữu.

+ Bất ngờ thứ ba: Tư Hoạch lái xuồng đưa một đàn sấu về bơi theo xuồng nhẹ nhàng như một chiếc bè quái dị, trước con mắt ngạc nhiên của dân làng: không biết thực tế hay là chiêm bao?

+ Bất ngờ thứ tư: Tư Hoạch giải thích cách bắt sấu hết sức đơn giản nhẹ nhàng mà rất hiệu quả của ông Năm Hên.

III. Kết bài

Đọc truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ, ta như được thám hiểm những vùng đất xa lạ với biết bao điều bí ẩn của thiên nhiên và con người. Xa lạ nhưng rất đỗi thân thuộc, đó vẫn là quê hương ta giàu có và khắc nghiệt, vốn là những con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, tài trí và lạc quan yêu đời trong cuộc đấu tranh sinh tồn để mở mang, xây dựng đất nước. Qua đó, người đọc thêm quý thêm yêu vùng đất và con người miền cực nam Tổ quốc, yêu quý nhân dân, đất nước mình.

Top 2 bài văn mẫu hay phân tích nội dung truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ

Bài số 1:

Sơn Nam là nhà văn Nam Bộ giàu bản sắc, có một phong cách nghệ thuật độc đáo, dung dị, hồn nhiên. Đọc truyện của ông, ta tưởng như đang ngồi nghe một lão nông miệt vườn, một tay ăn ong rừng kể chuyện. Có nhà phê bình đã nói, đọc truyện “Hương rừng Cà Mau” như được đi “thăm thú vùng đất Mũi kì thú mênh mông”. Ta như được vui vầy sống giữa một thiên thiên hoang dã. Rừng tràm bát ngát, nhiều ong mật, cá sấu, rắn rùa, đủ các loài chim quý. Kênh rạch chằng chịt, lắm nước bạc, nhiều phù sa, đầy tôm cá. Một vùng đất giàu có với những con người dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, ngang tàng, bộc trực,… rất đáng yêu. Tất cả được Sơn Nam tạo nên một không gian nghệ thuật với bao câu chuyện kì thú hấp dẫn, đậm đà màu sắc Nam Bộ, cuốn hút chúng ta. Thấm đượm những trang văn của Sơn Nam là một tấm lòng yêu nước thiết tha, một tình yêu thương chan hòa với thiên nhiên và con người của đất rừng phương Nam Tổ quốc giàu đẹp.

Truyện “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” là một trong số 18 truyện rút trong tác phẩm “Hương rừng Cà Mau” xuất bản năm 1967. Tác giả kể lại chuyện ông Năm Hên bắt sấu ở ngọn rạch Cái Tàu tại địa phận làng Khánh Lâm, qua đó ca ngợi những phẩm chất như chất phác, dũng cảm, tài tử và trọng nghĩa khinh tài… của người nông dân Nam Bộ…

Phần đầu truyện, Sơn Nam nói về loài sấu. Nó là giống “hung hăng nhất” ở nơi sông rạch. Giống sấu chỉ thích nơi yên tĩnh, chật hẹp của ngọn cùng, không thích chốn sông sâu, nước chảy, có sóng gió. Sấu thường đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu, vào giữa rừng tràm vùng U Minh Hạ. Sấu thích ăn thịt người, nhưng tôm cá là “món ăn chính” của nó. Mùa nắng hạn rừng khô, sấu tìm đến các ao, các lung giữa rừng tràm mà lập “căn cứ”, rồi “sanh con đẻ cháu”.

Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn qua tình tiết khi có người lên rừng ăn ong chạy về loan báo: “sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. Chất hoang dã của rừng tràm, của rạch Cái Tàu, vẻ rùng rợn của câu chuyện được gợi ra bằng một câu loan báo nhiều ngạc nhiên và hoảng sợ vì sấu rất hung dữ lại “thích ăn thịt người!”.

Sơn Nam miêu tả sấu, đàn sấu bằng những chi tiết rất gợi, những hình ảnh đầy màu sắc. Giữa một cái ao lớn ước một công đất toàn lau sậy, dây cóc kèn là đàn sấu nổi lên “những vệt đen chi chít” giữa “bức tranh màu xanh” của rừng tràm, của cây lá. Đàn sấu được đặc tả bằng những so sánh gợi lên cảm giác rùng rợn như khi ta phải đối diện với loài vật hoang dã rất hung dữ và thích ăn thịt người. Có những con sấu to lớn “nằm dài như chiếc xuồng lường” (thuyền độc mộc). Lại có những con sấu rất cảnh giác, hung hăng “dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác”. Con sấu già, sấu chúa “trợn mắt” nhìn lũ người, phản ứng tinh khôn “bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế”. Sấu chúa có đốm đỏ ngay giữa tam tinh, sống lâu đời, khôn lắm, nó đã nhiều phen “kịch chiến” với loài người, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâu. Có thể nói bức tranh sấu được Sơn Nam vẽ bằng một gam màu đen nổi bật trên màu xanh của rừng với ba nét vẽ về ba con sấu: sấu nằm, sấu bò, sấu trợn mắt. So sánh nào cũng độc đáo, giàu tưởng tượng. Một thiên nhiên hoang dã, rùng rợn, kì thú. Sơn Nam đã mở rộng tầm nhìn, đem đến cho ta những hiểu biết kì lạ, thú vị về thiên nhiên vùng đất mũi bao la chứa đựng bao bí mật.

Ông Năm Hên là nhân vật trung tâm của truyện “Bắt sấu rừng U Minh Hạ”. Nhân vật xuất hiện bất ngờ, đúng là con người “có kì tài”. Ông là thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo. Ông đến vùng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu bằng một chiếc xuồng ba lá nhỏ, trong xuồng “vẻn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu”. Năm Hên xuất hiện bằng một bài hát nghe “ảo não, rung rợn” như một bài cầu hồn. Tiếng hát của ông lão vang lên trên con rạch theo nhịp bơi xuồng tới lui từ sớm tới chiều: “Hồn ở đâu đây? – Hồn ơi? Hồn hỡi? –  Xa cây xa cối – Xa cội xa nhành – Đầu bãi cuối gành – Hùm tha sấu bắt…”. Bài hát gợi lên màu sắc bi tráng của thiên truyện, góp phần gợi tả tính chất kì bí của nhân vật Năm Hên.

Năm Hên xuất hiện với bao mong đợi của bà con vùng Khánh Lâm. Chẳng có vũ khí, chẳng có đồ nghề… Một đoạn đối thoại rất hay để giới thiệu Năm Hên là thợ bắt sấu chứ không phải tay câu sấu, Và ông ta chỉ “bắt sấu trên khô”, bắt sấu “bằng… hai tay không”. Tuy bà con vùng Khánh Lâm “nửa tin nửa nghi” nhưng ai nấy đều khâm phục người “bắt sấu bằng hai tay không quả là phì phàm, thế gian hi hữu”. Ông Năm Hên chẳng phải là một kẻ khoác lác mà là con người đi bắt sấu vì việc nghĩa, chưa hề “nói láo để lường gạt” hoặc “mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì” của xóm Khánh Lâm này, của bất kì ai. Đó là hình ảnh một con người trọng nghĩa khinh tài sống giữa cộng đồng bà con nông dân Nam Bộ xưa và nay. Ông nói: “Nghề bắt có làm giàu được, ngặt tôi không mang thứ phú quới đó”. Tiếng nói ông Năm Hên, cách ứng xử của ông trong nghề bắt sấu khác nào tâm thế ông Ngư trong “Truyện Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu ở thế kỉ XIX:

Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.

Nước trong rửa ruột sạch trơn

Một cân danh lợi chi sờn lòng đây”.

Con người của Năm Hên được hé lộ dần. Ông mang một nỗi đau, một mối thù đối với loài sấu hung dữ. Mười hai năm về trước, người anh trai của ông đi phá rừng lập rẫy tại Gò Quao, đã bị sấu ở Ngã Ba Đình bắt mất. Ông đi bắt sấu là để thực hiện một lời thề với vong linh người anh, như ông nói: “Tôi thề quyết trả thù cho anh”. Ở đâu có sấu là ông đi tới. Ông “cực lòng” khi nghe tên những con rạch, ngã ba mang tên Đấu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu…, đó là những “nơi ghê gớm”, hồi xưa đất còn hoang “sấu lội nhiều…”. Vùng đất dữ đó, nhiều người mới chỉ nghe nói đến đã ghê sợ, rụng rời cả chân tay.

Ông Năm Hên đi bắt sấu ở ngọn Cái Tàu chỉ có một mình, có thêm Tư Hoạch dẫn đường vào ao sấu. Quá ngọ thấy một làn khói đen bốc lên ở phía ao sấu U Minh Hạ, ban đầu ngỡ cháy rừng, chập sau khói lụn xuống. Trời vừa xế, Tư Hoạch đã giong 45 con sấu “còn sống nhăn” trở về. Tư Hoạch reo lên: “Diệu kế! Diệu kế!…Một đời người mới có một lần”. Nhìn đàn sấu “con này buộc nối đuôi con kia đen ngòm như khúc cây khô, dài…hai chân thúc ké trên lưng…” quạt nước bơi theo con thuyền Tư Hoạch, bà con cô bác Khánh Lâm vô cùng ngạc nhiên. Người thì “ há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn”, người thì “khấn vái lâm râm…”, có người lại bơi xuồng ra giữa sông hỏi han Tư Hoạch “rối rít”.

Nhà văn Sơn Nam đã khéo léo “hãm chuyện”, cho bà con xứ Khánh Lâm nhìn thấy đàn sấu bị bắt đem về, rồi mới nghe Tư Hoạch kể lại chuyện ông Năm Hên bắt sấu, để làm cho câu chuyện trở nên hồi hộp, thú vị. Đến ao sấu ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế, rồi ngồi xuống uống rượu thật ung dung. Ông chỉ nhờ Tư Hoạch bứt cho một nắm dây cóc kèn để trói sấu. Còn bao nhiêu công việc như đào một đường nhỏ từ ao sấu lên rừng đến chuyện chặt mốp thành từng khúc, từ chuyện đốt sậy để xua đàn sấu đến chuyện đút khúc mốp vào miệng sấu, lấy mác cắt gân đuôi và trói sấu… một mình ông làm tất. Cả bầy sấu 45 con đều bị ông Năm Hên bắt hết không sót một con nào! Đúng như ông nói: “Tôi đây.. chẳng qua là biết mưu mẹo một ít…”. Bà con xứ Khánh Lâm thì trầm trồ, khâm phục: “Thực là bực thánh của xứ này rồi? Mưu kế như vậy thực quá cao cường!…”. Cả xóm muốn “đền ơn ổng một số tiền, nuôi ông cho tới già”… Ông Năm Hên không chỉ mưu trí dùng hỏa công để lùa sấu theo kế “điệu hổ li sơn”, dẫn sấu vào tử lộ, dùng mốp để khóa miệng sấu, mà ông còn rất düng cảm khi đối diện với đàn sấu hung hăng đòi táp. Ông đã bình tĩnh đút từng khúc mốp vào miệng lũ sấu dữ hung hăng.

Nhà văn để ông Năm Hên “cúng đất đai vương trạch” rồi đi bộ về sau là một tình tiết đặc sắc, tung và hứng rất chặt chẽ. Lần thứ hai, tiếng hát cầu hổn của ông Năm Hên lại cất lên nghe ảo não, rùng rợn:

Hồn ở đâu đây?

Hồn ơi!Hồn hỡi!…

Cùng với tiếng hát cầu hồn, giải oan, là hình ảnh ông Năm Hên “áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay“… gợi lên không khí thiêng liêng, dân dã, kì bí, cổ kính. Người đọc cảm thấy những oan hồn bị “hàm tha, sấu bắt” đang kéo về bến sông nhìn đàn sấu bị ông Năm Hên bắt và khóc sụt sùi. Hình như có biết bao oan hồn đang chập chờn trên sông nước, đang chạy theo chiếc xuồng ba lá của ông Năm Hên.

Truyện “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” có dáng dấp riêng, khó lẫn. Chi tiết rất gợi không khí hoang dã, ngôn ngữ đậm đà màu sắc Nam Bộ, cách dựng truyện li kì. Nếu thiếu đi bài hát cầu hồn, câu chuyện sẽ kém phần thiêng liêng, cổ kính và kì bí. Hình ảnh ông Năm Hên, một thợ già bắt sấu dũng cảm, mưu trí, trọng nghĩa khinh tài, chất phác… cho ta nhiều ấn tượng. Ông là hình ảnh người nông dân Nam Bộ đi bắt sấu để chinh phục thiên nhiên, vì hạnh phúc con người và quê hương. “Bắt sấu rừng U Minh Hạ” như một đoản thiên phiêu lưu kí sáng giá.

Bài số 2​​​​​​​:

Sơn Nam là một nhà văn có lối kể chuyện mộc mạc, giản dị mà sáng rõ mang nét riêng độc đáo của cảnh vật, tính cách con người được vẽ phác bằng đôi nét đơn sơ mà thấm đượm màu sắc Nam Bộ. Tiêu biểu cho phong cách ấy là tác phẩm “Bắt sấu rừng U Minh Hạ”, nhà văn đã dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác qua cuộc truy bắt cá sấu của ông Năm Hên.

Câu chuyện xoay quanh nhân vật Năm Hên – một ông già làm nghề bắt cá sấu. Năm Hên mang đậm nét tính cách của người dân Nam Bộ trong buổi đầu đi tìm đất mới để sinh cơ lập nghiệp. Trước hết, ông là một người thật thà, đôn hậu, giản dị, khiêm tốn. Tuy cung cách xuất hiện của ông rất lạ: “Trong xuồng, vỏn vẹn có một lọn nhang trần và một hũ rượu. Từ sớm đến chiều, ông bơi xuồng tới lui theo con rạch mà hát”. Lại nữa, bài hát ông nghe sao “ảo não rùng rợn” như thể đang dụ dỗ một linh hồn oan khuất nào đó. Nhưng khi thấy bà con có vẻ nghi ngờ, thiếu tin tưởng về cách bắt sấu bằng tay không của mình, ông Năm Hên đã thật thà bộc bạch: “Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói là bùa phép để kiếm tiền…”

Ông là một người trọng nghĩa khinh tài. Là một con người thật thà, đôn hậu, ông Năm Hên hành động vì nghĩa, không mang lợi lộc gì cho mình. Ông tâm sự: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt tôi không màng thứ phú quý đó”. Người đọc hiểu ra, khi mới đến đây xưng tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, ông đã cải chính cách gọi về nghề nghiệp của mình là “bắt sấu” chứ không phải “câu sấu” là thể hiện sự ẩn giấu một niềm tự hào thầm kín về công việc của mình, một công việc hoàn toàn vì nghĩa. Ông thấy việc cần là làm, thấy người hoạn nạn là không ngại hiểm nguy ra tay giúp đỡ, chẳng chút tính toán thiệt hơn: “không màng thứ phú quý đó”.

Ông còn là một người tài trí hơn người. Cảnh bắt sấu của ông được Tư Hoạch kể lại quả thật tài tình: “lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói cay vào mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy… Ổng đút vô miệng sâu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một khúc mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được… Ông Năm xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu, mà sắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dâu cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình…” Nghe chuyện này có người đã nhận xét: “Thực là bậc thánh nhân của xứ này rồi! Mưu kế như vật quả thực cao cường”.

Cũng qua lời tuồng thuật của Tư Hoạch, ai cũng thấy rõ ông Năm Hên là người rất dũng cảm. Phải dũng cảm mới giữ vững được thái độ bình tĩnh trước loài cá sấu dữ mà chẳng chút nao lòng “sợ sấu há miệng hung hăng đòi táp”. Chính nhờ lòng dũng cảm, bình tĩnh, nên ông đã đánh bại được đàn cá sấu ăn thịt người. Bốn mươi năm con cá sấu bị ông thòng cổ cho người xuôi chở về. Loài thủy quái ấy ngoan ngoãn phục tùng cứ như là đã được thuần dưỡng rồi vậy. Với lòng dũng cảm, ông thực sự đã trở thành anh hùng cửa vùng đất hoang dại này.

Ông còn là một người mang tâm sự u uất. Hãy nghe ông bày tỏ gia cảnh: “Cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi… Ảnh bị cá sấu ở Ngã ba Đình bắt mất”. Đây là một tổn thất lớn lao đối với ông. Bởi vậy ông thề quyết trả thù cho anh mình. Mười hai năm trôi qua, mối thù ấy vẫn chưa giờ phút nào nguôi trong lòng ông. Cảnh cá sấu xuất hiện ở rừng nhiều như trái mù u chín rụng lúc này đã gợi lên trong lòng ông một nỗi đau nhức nhối tâm can, một nỗi cực lòng như chính ông đã chân thành bộc bạch với dân làng. Tâm sự đó ông gửi vào lời hát:

“Hồn ở đâu đây?

……

Lập đàn giải oan….”

Bài hát của ông Năm Hên đã tạo không khí bí hiểm và có phần rùng rợn cho câu chuyện. Nhà văn miêu tả giọng hát của ông ảo não, rùng rợn: “Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai”. Nội dung bài hát buồn thảm không chỉ là nỗi tiếc thương của ông đối với người anh xấu số của mình mà đó còn là tiếng chiêu hồn tưởng nhớ đến, gọi về biết bao mảnh hồn người xa xứ vì “thắt ngặt manh áo chén cơm” Giữa Cảnh “U Minh hạ đỏ ngòm, rừng tràm xanh biếc” đã phải thiệt mạng cho “hùm tha, sấu bắt…” Hình ảnh thảm thương đầy bí ẩn của ông ở cuối truyện, sau khi bắt được đàn sấu: “áo rách vai, tóc rối mù, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay”, cứ tưởng như ông đang nhập đồng phải chăng ông thay mặt cho dân làng ở đây hát lên bài kinh “cầu siêu”, tựa như lời gọi hồn giải oan cho những linh hồn bị “hùm tha sấu bắt”, cho biết bao oan hồn uổng tử đã vất vưởng lang thang nơi “đầu bãi, cuối gành” trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn bao đời nay cho cư dân ở đây.

Qua truyện “Bắt sấu rừng U Minh Hạ”, chúng ta có dịp hiểu thêm về thiên nhiên vùng đất Nam Bộ – nơi vốn được coi là rừng vàng bể bạc với những cánh đồng lúa mênh mang thẳng cánh cò bay, là tài sản vô giá của đất nước Việt Nam… Chúng ta cũng hiểu thêm về cuộc sống tài trí, tính cách của người dân ở đây và công lao của họ đối với việc mở mang bờ cõi đất nước.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button