Giáo dục

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam (7 Mẫu)

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm 7 bài mẫu do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp từ nhiều nguồn sẽ giúp các học viên có thêm nhiều tư liệu quý báu để hoàn thành tốt bài thu hoạch của mình.

Đề bài:  Anh (chị) hãy phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 1

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.

Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại vô cùng quan trọng đối với cách mạng nước ta, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; đồng thời chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng ta được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Và cũng chính trong quá trình đó, Ðảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta càng thấu hiểu, tin yêu, tự hào và có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn, phát huy.

Truyền thống vẻ vang

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.

Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.

Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.

Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.

Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.

Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Viết tiếp những trang vàng

Năm 2019 ghi dấu ấn đậm nét trong quá trình thực hiện thành công Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức. Ðảng, Nhà nước, nhân dân ta luôn vững vàng, đoàn kết, thống nhất, tỏ rõ bản lĩnh kiên định và sáng tạo, có các quyết sách đúng đắn, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân giành được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.

Tốc độ tăng trưởng tiếp tục duy trì ở mức cao, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt gần 7%. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 2.587 USD năm 2018. Đặc biệt, năm 2019, tăng trưởng GDP toàn quốc đạt 7,02%. Năm 2019, nhiều kỷ lục khác cũng được xác lập, như kim ngạch xuất nhập khẩu cán mốc trên 500 tỷ USD, xuất siêu 9,1 tỷ USD và là năm thứ 4 liên tiếp xuất siêu.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm đầu tư phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc duy trì ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao.

Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh, đạt được nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình, đánh giá cao. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển được bảo đảm.

Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, ngày càng sâu rộng, uy tín và vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Ðúng như lời đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, sau 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cơ đồ đất nước ta chưa bao giờ có được như ngày hôm nay!”.

Trong bối cảnh khó khăn chung của thế giới, khu vực, kết quả đáng tự hào trong phát triển kinh tế-xã hội của nước ta là điểm sáng, tạo tiền đề vững chắc bước vào năm 2020 – năm cuối cùng của nhiệm kỳ, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Ðại hội lần thứ XII của Ðảng đã đề ra; tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Ðại hội XIII của Ðảng; cũng là lần đầu tiên Việt Nam vinh dự đảm nhận đồng thời cả hai trọng trách Chủ tịch ASEAN năm 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 2

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; đồng thời chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang. Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng.

Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam. Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí.

Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo. Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả.

Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển. Có thể khẳng định suốt 86 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã luôn nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại: làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của những tên thực dân, đế quốc đầu sỏ trên thế giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và đang thực hiện thành công công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Tám mươi sáu đấu tranh hy sinh gian khổ đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng. Truyền thống vẻ vang đó là tài sản vô giá cần phải được giữ gìn, kế thừa, phát huy mạnh mẽ để Đảng ta tiếp tục giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong giai đoạn mới.

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 3

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp: Trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp. Giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. Gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ. Đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng.

Ngày 3-2-1930, dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ba tổ chức cộng sản là: An Nam cộng sản Đảng; Đông Dương cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản Liên đoàn đã họp và tiến hành hợp nhất thành một tổ chức Đảng duy nhất ở Việt Nam lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Tại hội nghị cũng đã thông qua chính cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Chương trình tóm tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đây là sự tất yếu của lịch sử, là kết quả phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc.

Vừa mới ra đời, Đảng ta đã nắm ngay quyền lãnh đạo độc tôn và hòa vào cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ, từng bước tạo thế, lực, thời cơ và chớp thời cơ “ngàn năm có một”, lãnh đạo cả dân tộc vùng dậy, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 02 – 9 – 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

9 năm sau đó, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào với bè bạn năm châu vì đây là lần đầu tiên một dân tộc thuộc địa đã đánh thắng đội quân nhà nghề Pháp hùng mạnh, làm nên mốc son Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký vào Hiệp định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương, đồng thời cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa vùng lên “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Dân tộc ta không chỉ tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, mà chính Đảng và Bác Hồ đã tiếp thêm sức mạnh, nguồn sống, niềm tin để cả dân tộc Việt Nam tiếp tục bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước hơn hai thập niên sau đó. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Dân tộc ta tự hào “Việt Nam có Bác Hồ” – lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Người đã sáng lập và rèn luyện Đảng ta và càng tự hào hơn vì dân tộc ta có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Trong nghèo nàn và lạc hậu, giữa bộn bề gian khó do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, Đảng ta luôn giữ vững, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chưa bao giờ đất nước ta có cơ đồ tốt đẹp như ngày nay, đời sống của nhân dân ở mọi miền Tổ quốc, dù là vùng sâu, vùng xa hay nơi khó khăn nhất cũng không ngừng được cải thiện; bộ mặt đô thị ngày càng văn minh, các vùng nông thôn ngày càng đổi mới; uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định vững chắc.

Thành tựu mà dân tộc Việt Nam đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng thật lớn lao, đưa dân tộc Việt Nam vững vàng bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đảng ta vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc. Vì vậy, Đảng ta không chỉ là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, mà còn trở thành niềm tin sắt son, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 4

Trước tình hình cách mạng Việt Nam, cũng như để thực hiện nhiệm vụ mới mà Đảng Cộng sản Đông Dương giao cho, sự ra đời của một tổ chức Đảng thống nhất là tất yếu. Mặt khác, về hoàn cảnh bên trong, sự ra đời của ba đảng cộng sản ở Việt Nam diễn ra riêng rẽ, mâu thuẫn nhau về đường lối cách mạng. Ngày 3-2-1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất ba đảng thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thống nhất đường lối cách mạng. Đó là quá trình chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng cho sự ra đời của Đảng.

Trong những năm đầu mới thành lập, Đảng ta đã thể hiện phẩm chất lãnh đạo tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam. Và sự ra đời này đã đánh dấu bước chuyển cách mạng Việt Nam sang một giai đoạn mới. Một cuộc cách mạng dân tộc, thích ứng với thời đại mới, thời đại cách mạng vô sản đã nổ ra trên thế giới. Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam liên tiếp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, như Cách mạng tháng 5 năm 1945 thành công, kháng chiến chống Pháp thành công, kháng chiến chống Mỹ thành công.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng rèn luyện và trưởng thành, xây dựng nên truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng. Những truyền thống quý báu như Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng cách mạng; tinh thần dân tộc, tự chủ và sáng tạo; kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành với cách mạng giai cấp, với lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng; giữ gìn đoàn kết nội bộ và đoàn kết quốc tế…

Vì truyền thống kiên định bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng cách mạng. Đó là một trong những truyền thống quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Một người cách mạng, hơn nữa là một Đảng cách mạng, phải hết sức kiên định mục tiêu cách mạng cho đến cùng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không dao động, không bỏ cuộc. Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có bản lĩnh của người cách mạng, phải thường xuyên được rèn luyện về tư tưởng, lập trường vững vàng, luôn kiên định với quan điểm của Đảng và của giai cấp công nhân, tránh để bị các thế lực thù địch lôi kéo, lôi kéo, mua chuộc. gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân.

Điều đó đòi hỏi Đảng viên phải không ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện trưởng thành về ý thức, tư tưởng để thực hiện tốt nhiệm vụ mạng lưới giao. Sau khi đã xây dựng tốt về bản lĩnh chính trị, để hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng này, người cách mạng phải có tinh thần dân tộc, tự chủ, sáng tạo để nuôi dưỡng ý chí cách mạng, bình tĩnh và sáng tạo. nắm bắt tình hình, nhanh chóng đưa ra các quyết sách đúng đắn, hiệu quả, các giải pháp tháo gỡ khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ. Truyền thống quý báu này thể hiện rõ trong các thời kỳ cách mạng như trong các cuộc kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong, đội ngũ chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam.

Ngay từ khi ra đời, Đảng đã chuẩn bị tốt về tư tưởng và xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành theo con đường cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cốt lõi cho mọi hành động cách mạng.

Thực tiễn đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối ấy qua các cuộc kháng chiến chống đế quốc của dân tộc, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và đường lối ấy đã vận dụng, sáng tạo, đúng đắn học thuyết Mác- Lênin, làm nên những thành tựu to lớn cho cách mạng. Điều này, như Lênin đã chỉ ra chỉ có một giai cấp, một đảng không do dự, không nản chí, không chìm vào tuyệt vọng trước những bước ngoặt khó khăn, nguy hiểm nhất mà đi theo con đường của mình, vận động quần chúng và đưa phong trào cách mạng tiến lên.

Vì vậy, Đảng viên phải nắm vững học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tăng cường vai trò của Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, tiến tới chế độ cộng sản nguyên thủy, là chế độ tiến bộ nhất, giàu đẹp nhất.

Trong quá trình xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và khẳng định sức mạnh của tổ chức Đảng được hình thành từ tổ chức, là tổ chức tiên phong đấu tranh chống thực dân của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức Đảng phải thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, có kỷ luật nghiêm minh để thực hiện tốt chức năng của từng cấp theo nguyên tắc xây dựng Đảng.

Trong các nguyên tắc xây dựng Đảng, nguyên tắc tập trung là một nội hàm của nguyên tắc tập trung dân chủ được đề cập và đánh giá. Giữa nguyên tắc “tập trung” và “dân chủ” có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, là hai mặt của cùng một nguyên tắc. Hồ Chí Minh đã viết về mối quan hệ này Tập trung dân chủ; dân chủ dưới sự quản lý tập trung. Đối với tất cả các câu hỏi, mọi người đều được chào đón, mọi người đều được phép bày tỏ ý kiến của mình, giúp tìm ra sự thật. Đó là quyền cũng như nghĩa vụ của tất cả mọi người. Và trong quá trình phát triển, Đảng luôn kiên trì thực hiện nguyên tắc từng bước phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam.

Truyền thống đoàn kết quốc tế, thủy chung, trong sáng, dựa trên tôn chỉ, mục đích cao cả. Đó là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, lấy cách mạng Việt Nam làm hàng đầu.

Ngoài ra, truyền thống quý báu của Đảng ta là kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế lên tầm cao mới của thời đại là sức mạnh bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là kết quả của quá trình bền bỉ vun đắp, xây dựng, là sự hy sinh xương máu, sự phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.

Những truyền thống đó của Đảng có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi thành lập, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhất quán có những quyết sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lãnh đạo đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Vấn đề quan trọng không kém, đoàn kết nội bộ luôn được Đảng ta quan tâm nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, là lực lượng lãnh đạo thực sự của cách mạng Việt Nam. Đòi hỏi các đảng viên phải hết sức gắn bó, đoàn kết để xử lý các vấn đề của Đảng và hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Cần loại bỏ những tư tưởng cá nhân, tư tưởng chia rẽ nội bộ, bởi những tư tưởng này làm mất đi sức mạnh vốn có của Đảng, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước nhà. Vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết dân tộc có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt quá trình cách mạng.

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công!”

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 5

Từ những bài học quý báu…

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn.

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH – ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.

… Và những truyền thống vẻ vang

Với những bài học kinh nghiệm lớn và quý báu, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống vẻ vang, thể hiện bản chất tốt đẹp. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.

Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.

Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.

Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.

Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với CNXH. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 6

Trước khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta bị áp bức dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tuy dấy lên mạnh mẽ và theo nhiều khuynh hướng tư tưởng, con đường khác nhau nhưng đều thất bại. Nguyên nhân chung là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một học thuyết khoa học tiên tiến soi đường.

Ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã tiến hành hội nghị hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự tất yếu của lịch sử, là kết quả phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với Chủ nghĩa Mác-Lê nin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lựa chọn lịch sử nhưng cũng là nguyện vọng của hàng triệu người con đất Việt đứng dưới lá cờ của Đảng, là sự tin yêu, gắn bó với chính đảng có tư tưởng, mục tiêu xuyên suốt là “Vì dân”, lấy lợi ích và hạnh phúc của người dân làm gốc. Điều ấy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân”.

Từ khi có Đảng lãnh đạo, đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức. Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mở ra một kỷ nguyên mới – độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Sau ngày lập quốc, Đảng tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, thu non sông về một mối, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc nơi phên dậu phía Tây Nam, nơi biên cương phía Bắc và nơi biển đảo phía Đông.

Giữa bộn bề gian khó do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, sự bao vây cấm vận và những khó khăn, trì trệ về kinh tế – xã hội, Đảng vẫn kiên định đường lối và khởi xướng, lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những cải cách kinh tế, chính trị đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế liên tục tăng trưởng, tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói được xóa bỏ. Từ một trong những nước nghèo nhất thế giới, Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp.

Tại Đại hội lần thứ XIII, nhìn lại sự phát triển của Việt Nam sau 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là giai đoạn 2016 – 2020 có thể thấy những thành tựu đáng tự hào. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao với khoảng 5,9%; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên. Chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên, nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.

Tự hào hơn nữa, năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, khi kinh tế thế giới suy thoái thì kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu “kép”, vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch thành công, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân. Thành công của Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong xử lý đại dịch COVID-19.

Những thành tựu nổi bật từ quá trình phấn đấu bền bỉ, liên tục nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là trong 5 năm qua có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhưng để đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với “rất nhiều thuận lợi, thời cơ”, đất nước ta đang phải đối mặt với “muôn vàn khó khăn, thử thách”.

Môi trường đầu tư kinh doanh hiện vẫn chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống chưa thực sự được chú trọng; nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa xử lý hữu hiệu vấn đề phân hóa giàu – nghèo.

Vấn đề đáng báo động nữa là một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm. Việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ. Hơn thế, tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.

Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng những khuyết điểm, hạn chế không phải nhằm làm chùn ý chí hay tự hạ thấp những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân đạt được trong chặng đường dài đã qua. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng, một Đảng biết công khai thừa nhận những sai lầm khuyết điểm của mình, tìm ra nguyên nhân và tìm ra cách sửa chữa thì đấy là dấu hiệu của một Đảng chân chính, Đảng cách mạng”.

Cho nên, nhìn vào khuyết điểm để sửa chữa chính là cơ sở bồi đắp niềm tin vào Đảng, để dân tin, dân yêu và hết lòng xây dựng, bảo vệ Đảng, để cùng Đảng quyết tâm hiện thực khát vọng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Với truyền thống vẻ vang và những bài học kinh nghiệm quý báu trong 91 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng, Đảng sẽ lãnh đạo toàn dân tộc ta lập nên những thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn. Trong phát biểu bế mạc Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Thành công rất tốt đẹp của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sẽ cổ vũ mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Một tương lai tươi sáng đang mở ra cho đất nước và dân tộc Việt Nam!

Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam – Mẫu 7

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào về những thành tựu vĩ đại đã đạt được của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Với những cống hiến lớn lao của Đảng đối với Tổ quốc và với dân tộc, ngày nay Đảng ta vô cùng xứng đáng với lời đánh giá của Bác Hồ nhân dịp kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”.

Thật vậy, giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ đã không thành công thì ngày 05/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho nhân dân, cho đất nước. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Người đã bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin để tìm ra con đường cứu nước. Ngày 03/02/1930 mãi mãi là mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì thành lập. Từ mốc son ấy, cả dân tộc đoàn kết, bền lòng phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng lập nên những kỳ tích vang dội trong 90 năm qua, đã chứng minh: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Điều lệ Đảng được Đại hội XII thông qua đã ghi rõ: “Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. Thực tế 90 năm qua đã chứng minh điều đó là hoàn toàn đúng. Đảng ra đời trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, được nhân dân chở che, nuôi dưỡng, đùm bọc nên hòa quyện với khối đại đoàn kết dân tộc.

Đảng cộng sản ra đời là một tất yếu lịch sử. Các phong trào yêu nước trong thời gian từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc và tôi rèn qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhà yêu nước Phan Bội Châu đã khái quát về tình hình đất nước trong những năm tháng này là: “Trời khuya, đất ngủ, khói đục, mây mù” để phản ánh sự bế tắc đó. Vào thời điểm ấy, một xu hướng cách mạng mới xuất hiện do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo. Sau những năm tháng bôn ba, Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường cứu nước muốn thành công phải kết hợp phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế. Ngày 03/02/1930, thay mặt Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị tại Hồng Kông để hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt của Đảng cũng được thông qua tại hội nghị này.

Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng với niềm tin của dân tộc và sự giao phó của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vang dội trong thế kỷ XX và gần hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Đó là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 lật đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và triều đình phong kiến, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước tiến hành hơn 30 năm qua vượt qua mọi khó khăn, bao vây cấm vận, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, đứng vững và tiếp tục đi lên trong cơn “động đất chính trị” trên thế giới khi mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ (1989-1991) làm cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Hiện nay, Đảng lãnh đạo mục tiêu của Đại hội Đảng XII là sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trải qua 90 năm xây dựng và trưởng thành có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng cộng sản Việt Nam là:

Thứ nhất, trung thành với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Thứ hai, giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối, nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm “chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Thứ tư, đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình và tình thương yêu đồng chí. Chính tình đoàn kết, gắn bó, thương yêu nhau đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân, tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ, tạo thành sức mạnh để Đảng vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ cách mạng.

Thứ năm, đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, đưa cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển.

Những thắng lợi giành được 90 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Đảng ta không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức được đẩy mạnh, được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng mà gần đây là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Sau thời gian thực hiện, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và rút ra được nhiều kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên. Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách trong bối cảnh trong nước, khu vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ, việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay đã có trên 50.000 cán bộ, đảng viên bị xử lý, kỷ luật, trong đó có gần 80 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã kỷ luật 07 tổ chức đảng. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao được nâng lên, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Niềm tin của cán bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố nâng cao.

Thực tiễn 90 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn và tài tình của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam. Với những thành tựu mà cách mạng Việt Nam giành được trong 90 năm qua, với những kinh nghiệm quý báu đã tích lũy được, với truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc, với bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, với sức mạnh nội lực của đất nước 96 triệu dân kết hợp với sức mạnh quốc tế và với sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, thời gian tới đất nước ta tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

TS. Bùi Thế Đức, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

Bạn đang xem: Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam (7 Mẫu)

*****

Trên đây là 6 bài mẫu Phân tích những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổng hợp từ nhiều nguồn. Các học viên hãy chắt lọc những thông tin bổ ích trong bài để hoàn thành tốt bài thu hoạch của mình nhé.

Đăng bởi trường THPT Ngô Thì Nhậm trong chuyên mục Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button