Giáo dụcLớp 12

Phân tích Hồn trương ba da hàng thịt hay nhất (18 mẫu)

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ lớp 12 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 18 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt

Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
Phân tích tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ

Dàn ý Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt

Dàn ý Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Số 1

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

II. Thân bài:

a. Nội dung vở kịch

– Trương Ba là một người đàn ông yêu thương gia đình, chơi cờ giỏi, biết chăm vườn cây.

– Do sự tắc trách của quan thiên đình nên ông bị chết oan- Đế Thích là bạn chơi cờ của ông đã giúp ông sống lại nhưng nhập vào cơ thể của một anh hàng thịt.

– Sau khi nhập vào xác anh hàng thịt, Trương Ba bị tha hóa bởi sự thô kệch của cái xác.

– Cuối cùng, Trương Ba quyết định trả xác cho anh hàng thịt, cứu cu Tị và ra đi trong sự thanh thản.

b. Phân tích đoạn trích

* Bi kịch tha hóa:

– Trương Ba tự nhận thấy bản chất của mình đang dần bị cái xác lấn át.

– Trương Ba đau khổ, dằn vặt khi phải luôn đấu tranh chống lại những ý muốn tầm thường của xác thịt để giữ lại cho mình sự thanh khiết.

– Cuộc đối thoại giữa cái xác và hồn Trương Ba:

+ Trương Ba bày tỏ sự giận dữ khi phải sống nương nhờ trong xác người hàng thịt.

+ Khẳng định cái xác chỉ là “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không tiếng nói”.

+ Phủ nhận sự lệ thuộc của bản thân vào xác người hàng thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”.

+ Xác người hàng thịt phủ định lời nói của Trương Ba, cái xác tuy âm u, đui mù nhưng có thể chi phối, lấn át làm thay đổi linh hồn cao khiết của Trương Ba.

+ Cái xác cho rằng khi nhập hồn vào xác thì phần hồn Trương Ba không còn nguyên vẹn, trong sạch nữa.

+ Cái xác thẳng thừng phê phán ông là người ưa sĩ diện, luôn lấy cái xác ra để che đậy cho hành vi chiều chuộng, thỏa mãn những thú vui tầm thường.

* Bi kịch bị người thân chối bỏ:

– Trương Ba thay đổi, tha hóa đến mức người thân không nhận ra.

+ Người vợ đòi bỏ đi biệt xứ.

+ Cháu gái không nhận ông.

+ Người con dâu thông cảm nhưng lại chỉ ra sự đổi khác trong con người ông.

– Những điều này khiến Trương Ba nhận ra hoàn toàn sự tha hóa của bản thân mình.

* Giải quyết bi kịch:

– Trương Ba tìm gặp Đế Thích nói ra những trăn trở trong lòng, bày tỏ mong muốn được rời khỏi xác hàng thịt “tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

– Từ chối đề nghị nhập vào xác cu Tị, xin cho cu Tị được sống lại còn mình thì chết hẳn.

– Xung đột giữa thể xác và tâm hồn được giải quyết triệt để.

* Ý nghĩa đoạn kết:

– Trương Ba được là chính mình, được sống mãi trong lòng những người thân yêu.

– Tâm hồn ông trở lại thanh thản.

c. Đánh giá

Qua câu chuyện bi kịch của hồn Trương Ba, tác giả đã thể hiện bi kịch của con người khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, bộc lộ những triết lí sâu sắc về con người và cuộc đời.

– Về nghệ thuật: Đoạn trích là sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống, chất phê phán và chất trữ tình đằm thắm.

III. Kết bài:

Khẳng định giá trị đoạn trích, tài năng nghệ thuật của tác giả.

Dàn ý Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Số 2

I. Mở bài

Giới thiệu về Lưu Quang Vũ, tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt: Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

II. Thân bài

1. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác

a. Hồn Trương Ba:

– Cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.

– Xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài: âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém.

=> Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt.

– Thái độ: từ chối quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.

b. Xác anh hàng thịt:

– Cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt.

– Thái độ: từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế.

=> Cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng.

2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và mọi người trong gia đình

a. Hồn Trương Ba: cho rằng mình vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và thẳng thắn

b. Những người thân trong gia đình:

– Vợ Trương Ba: đau đớn trước sự thay đổi của Trương Ba: “ông đâu còn là ông”, một mực muốn rời khỏi gia đình “đi cày thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt”.

– Cháu gái: không chịu nhận ông, cho rằng ông nội của mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!… chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”.

– Con dâu: cảm thông, chia sẻ và yêu thương với Trương Ba hơn trước nhưng vẫn không nhận ra Trương Ba của trước đây nữa.

=> Mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.

– Kết quả: Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông.

3. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; quyết định của Trương Ba

a. Trương Ba đã tự nhận ra: Con người sống cần có sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, cần được sống là chính mình và cần phải sống có ý nghĩa.

b. Quan điểm khác biệt giữa Trương Ba và Đế Thích:

– Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.

– Trương Ba:

  • Không được bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
  • “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”.

– Hành động mang tính bước ngoặt của Trương Ba: Trả lại xác cho anh hàng thịt còn Trương Ba sẽ chết.

– Phép thử của Đế Thích: Trương Ba sẽ nhập vào xác cu Tị.

– Kết quả: Trương Ba đã yêu cầu Đế Thích để cho cu Tị sống còn mình thì chết.

4. Nghệ thuật

Xây dựng tình huống xung đột kịch độc đáo, ngôn ngữ đối thoại đậm chất triết lí, độc thoại nội tâm giúp bộc lộ tính cách nhân vật…

III. Kết bài

Khẳng định giá trị của Hồn Trương Ba da hàng thịt, cảm nhận chung về tác phẩm: Qua đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

18 Bài mẫu Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt hay nhất

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 1

Trong truyện cổ dân gian nước ta có truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Từ cốt truyện của truyện cổ dân gian đó, Lưu Quang Vũ đã phát huy năng lực sáng tạo nghệ thuật, sáng tác một vở kịch lớn gửi đến người đọc những thông điệp về bản thể và cách sống của con người, cụ thể là quan hệ giữa thể xác linh hồn và cách sống chân thực, lẽ sống vì mọi người.

Về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, truyện cổ dân gian cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác thì mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn thì mới sống được nhưng truvện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thế xác quá nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người bán thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% và không băn khoăn gì về hình dạng của mình, cũng không có biến đổi gì trong tính cách…

Lưu Quang Vũ có kế thừa truyện cổ dân gian, ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa váo kí ức, tình cảm và ý thức tức là dựa vào phần hồn của mình). Vợ Trương Ba sau khi kiểm tra kí ức của Trương Ba cũng nhận chồng; Trương Hoạt, bạn của Trương Ba cũng vậy. Chị con dâu thì càng thương cha chồng hơn, mặc dù lúc này ông mang vóc hình khác chị thấy ở ông đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa.

Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó, ông thấy linh hồn không hoàn toàn độc lập với thể xác, ông nhìn thấy sự chi phối của thân xác đối với linh hồn. Trương Ba trong xác anh hàng thịt, bắt đầu thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to, tay chân trở nên thô vụng: động vào cây làm gãy chồi non, chân giẫm lên cả cây sâm quý. Bị Lí trưởng xử ban ngày phải sang nhà vợ anh hàng thịt, Trương Ba cũng có lúc bị xao động (ít ra là ở cảm giác) trước cử chỉ thân mật của chị vợ anh a và phải tự đấu tranh để thoát ra. Chính xác anh đã nói với hồn Trương Ba: ‘Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Cuộc tranh cãi giữa xác anh hàng thịt và hồn Trương Ba nảy ra cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác, cuộc đấu tranh trong bản thân con người để chống lại tác động xấu của thể xác làm tha hóa linh hồn.

Bản thân Trương Ba cũng tự thấy nhiều điều phiền toái và có nguy cơ tự đánh mất mình. Ông cảm thấy vướng víu xa lạ trong thân xác khác, cháu gái nội ông không nhận ông. vợ ông muốn bỏ đi, con dâu thấy ông không chỉ khác lạ về thân xác  mà bắt đầu khác cả về tính tình. Trương Ba cũng đã phải tự nói: “Mày (thân xác) đã thắng rồi đấy, cái thân xác không phải của ta, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta”. Trương Ba đã phải tiến hành một cuộc đấu tranh với xác anh hàng thịt, đây là cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác trong một con người Thể xác cũng có tiếng nói riêng của nó, nhu cầu riêng của nó, những nhu cầu này có cái chính đáng, có cái không chính đáng, Con người phải biết tiết chế, biết đè nén nhu cầu thể xác, thậm chí phải hi sinh một số nhu cầu…

Trước những phiền toái và nguy cơ tha hóa do sống trong thân xác mượn của ké khác, Trương Ba muốn trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Nhưng như có nghĩa là Trương Ba lại phái chết. Trương Ba sẵn sàng chết vì nếu sống ông không là mình, mà mất dần nhân cách, mà nhìn thấy những người khác đau khổ (ví dụ chị vợ anh Hàng thịt, “chị ta thật đáng thương”, rồi vợ, rồi con, : cháu, như đã nói trên), thì thà chết, còn hơn.

Lúc đó có cháu Tị chẳng may ốm chết, Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác cháu, thì cháu Tị được sống lại với hồn Trương Ba, còn hồn Trương Ba được sống trong thân xác bé bỏng của cháu. Trương Ba cũng từ chối vì nếu thế, bi kịch sống không là mình lại tiếp diễn sống gây phiền toái, đau khổ cho những người khác (trước nhất là cho mẹ cháu Tị rồi đến vợ mình…). Trương Ba đề nghị Đế Thích dùng phép thiêng cứu sống cho cháu Tị còn mình chấp nhận cái chết. Đó là cách duy nhất đế hồn Trương Ba có thể thanh thản ở thế giới bên kia. ‘Từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình là Trương Ba thật, tâm hồn tôi trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…

Trương Ba chết nhưng linh hồn Trương Ba vẫn sống trong nỗi nhớ của mọi người, sống trong sự sống vẫn đang sinh sôi của cây cỏ, của con người…

Tóm lại, qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn và gợi suy nghĩ sâu sắc, gửi tới người đọc thông điệp: “Trong con người có hai thực thể là thể xác và linh hồn, hai thực thể đó có quan hệ hữu cơ với nhau nhưng cùng có tính độc lập tương đối với nhau. Con người phải luôn luôn đấu tranh với bản thân, điều chỉnh, làm chủ những nhu cầu, ham muốn để có được sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác hướng tới sự hoàn thiện nhân cách. Đó là sống thành thật, sống trong sạch, là sống vì mọi người, không thể sống giả dối, sống bằng mọi giá, sống trên sự đau khổ của người khác…”. Tư tưởng triết lí của Lưu Quang Vũ, về con người, về quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về cách sống và lẽ sống của con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật của tác giả đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 2

Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất. ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian ông xây dựng lên một vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.

Vở kịch viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Văn bản trích trong SGK thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng thật cao thượng của hồn Trương Ba.

Xung đột giữa hồn và xác là xung đột trung tâm của vở kịch. Đến cảnh VII, xung đột lên tới đỉnh điểm cần phải giải quyết. Sau mấy tháng sống nhờ trong xác hàng thịt một cách trái tự nhiên, hồn Trương Ba trở nên xa lạ với người thân và tự chán chính mình: “Không!Không!Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!”. Tình huống kịch bắt đầu từ chi tiết này.

Trong khi hồn rất muốn thoát ra khỏi thân xác kềnh càng , thô lỗ của anh hàng thịt thì xác lại cứ muốn tồn tại mãi tình trạng này. Và cuộc đối thoại giữa hồn và xác diễn ra: Xác chê hồn là cao khiết nhưng vô dụng. Xác tự hào với sức mạnh đui mù của mình, tự hào đã dụ dỗ, sai khiến được hồn vào những dục vọng của mình. Lí lẽ của xác thật đê tiện nhưng cũng rất thực tế khiến hồn không có cơ sở biện bác.

Dường như xác đã thắng.Trong cuộc đối thoại với xác, hồn ngày càng đuối lí, càng ra vẻ quát tháo, nạt nộ càng chứng tỏ sự lúng túng bất lực. Trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba cứ bị tha hóa dần. giờ đây dù không muốn , hồn Trương Ba cũng đã trở nên thô lỗ, vụng về, phũ phàng , lạnh lùng,tàn bạo chứ không còn hiền hậu, nhẹ nhàng như Trương Ba- người làm vườn ngày xưa. Dù có trốn chạy , hồn Trương Ba không thể phủ nhận sự thay đổi đó. Sự chống đối của hồn ngày càng yếu dần.

Tuy mắng xác ti tiện nhưng hồn đành kêu trời vì phải đầu hàng tuyệt vọng. Đoạn đối thoại khẳng định ý nghĩa của sự thống nhất linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Đây là một vấn đề có tính chất khái quát cao, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội. Hồn Trương Ba rơi vào bi kịch bị tha hóa, Qua tình cảnh này tác giả cảnh báo: Khi con người sống chung với dung tục sẽ bị dung tục lấn át, ngự trị và tàn phá những gì tốt đẹp cao quý của con người.

Tất cả mọi người trong gia đình dù đã cố chịu đựng để thích nghi với hoàn cảnh mới nhưng ngày càng không thể chấp nhận sự thật quái gở trong nhà mình. “Cái quý giá nhất của con người là cuộc sống nhưng không phải bất cứ cách sống, kiểu sống nào. Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với mọi người, với chính mình, sống như Hồn Trương Ba đang sống thì thà chết còn hơn”.

Và hồn quyết định gọi mời tiên Đế Thích Xuống trần để thực hiện mong muốn của mình. Sau cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với tiên Đế Thích. Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình,. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.

Thông qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình , sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn giá trị hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 3

Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện. Tiếng nói ấy cũng gợi chúng ta nghĩ tới vở kịch “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, thông qua nhân vật Hồn Trương Ba cũng bật lên tiếng gọi, lời khẩn cầu tha thiết được sống là chính mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Chỉ với câu nói ấy nhưng cũng toát lên một nỗi niềm, nỗi bi kịch đau đớn cùng khát vọng chính đáng của chính nhân vật Hồn Trương Ba.

Trước tiên, xét về thể loại văn học, bi kịch có thể được hiểu là một thể loại kịch trong đó chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột căng thẳng, gay gắt giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn do vậy mà nhân vật bi kịch thường xuất phát điểm là những con người hiền lành, lương thiện do các yếu tố chủ quan hay khách quan bị đẩy vào bi kịch, khiến mình trở nên khác đi không còn giống như ban đầu song họ vẫn ý thức được điều đó nên bị rơi vào trạng thái đau khổ, bế tắc, trăn trở tìm lối thoát cho mình nhưng kết thúc thường là cái chết của nhân vật.

Soi chiếu cách hiểu trên vào nhân vật Hồn Trương Ba, ta nhận thấy nhân vật ấy là một nhân vật bi kịch. Đó là nỗi bi kịch tinh thần đau đớn của nhân vật. Bi kịch ấy xuất phát từ nỗi niềm muốn sửa sai của Đế Thích-một quan nhà trời và là bạn chơi cờ của ông Trương Ba đã nhập hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Từ đây mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, một con người mà được kết hợp bởi hai thực thể hoàn toàn đối lập, trái ngược nhau. Một Trương Ba yêu thiên nhiên, yêu gia đình, hòa nhã với mọi người, có tài đánh cờ giỏi lại kết hợp với xác anh hàng thịt là một tên đồ tể giết lợn, thô lỗ, cộc cằn, ham rượu, ham đàn bà. Giữa hai thực thể đối lập nhau đã dần dần khiến Hồn Trương Ba tha hóa, biến chất. Hồn người này kết hợp với xác người kia là việc đi ngược lại với quy luật tự nhiên vốn có, một sự áp đặt tùy tiện, máy móc. Cuối cùng Hồn Trương Ba biến chất một cách đau đớn, thảm hại, xót xa. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt: “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nan rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Chính Hồn Trương Ba đã phải bộc lộ rằng: “ Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Lời nói của Hồn Trương Ba biểu hiện nỗi day dứt, giày vò khi con người ngày trước bị biến mất hoàn toàn, quyết liệt bày tỏ với một thái độ dứt khoát “ Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời mi ngay tức khắc ”. Không dừng lại ở đó, Hồn Trương Ba còn bộc lộ sự ghê tởm, chán chường của mình trước thân xác của anh hàng thịt “ Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng ” , ta sẽ “ tách ra khỏi cái xác này dù chỉ là một lát ”. Qua những suy nghĩ và lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba ta có thể thấy rõ Lưu Quang Vũ đã đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, thấu hiểu và cảm thông với nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba.

Song bi kịch của Hồn Trương Ba không chỉ dừng lại ở đó, ông lại lâm vào bi kịch thứ hai có phần đau đớn hơn bi kịch trước. Đó là khi ông bị gia đình nghi ngờ, xem thường và xa lánh. Tất cả mọi người thân trong gia đình từ người vợ, người con trai cả, đứa cháu gái và cả người con dâu ai ai cũng xa lạ, nghi ngờ và xem thường ông vì họ không tìm thấy ở ông một ông Trương Ba làm vườn của ngày trước hiền lành, đôn hậu. Khi Hồn Trương Ba gần vợ anh hàng thịt khiến ông “ tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” biểu thị sự ham muốn trỗi dậy không còn “ sự hiền lành, vui vẻ, tốt lành” như xưa, đến nỗi cả vợ ông khi nhìn thấy chồng mình trước tình cảnh như thế, vừa thương vừa giận vừa ghen và muốn xa lánh ông ngay lập tức. Bà vợ đã tâm sự thẳng thắn với ông: “ Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” và bà quyết định “ Có lẽ tôi phải đi… đi cấy thuê, làm mướn, ở đâu cũng được…, đi biệt… Để ông được thảnh thơi… với cô vợ hàng thịt… Còn hơn là thế này…”. Những suy nghĩ này của vợ Trương Ba xuất phát từ nỗi đau trong tâm hồn người vợ, khi biết chồng mình đâu còn là con người của trước đây. Rồi người con trai cả, trước kia đều vâng lời lắng nghe ý kiến của cha nhưng nay anh lại “ quyết định, dứt khoát sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt” dù Hồn Trương Ba không chấp nhận. Và hình ảnh cái Gái vốn rất yêu thương, kính mến ông nội nay cũng không thừa nhận ông đồng thời lên án sự thô bạo, tàn nhẫn, giẫm nát cây cối trong vườn, phá hỏng cái diều của cu Tị và phẫn nộ hét lên: “ Ông xấu lắm, ác lắm ! Cút đi ! Lão đồ tể cút đi !” rồi lại nói tiếp: “ Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Ngay cả người con dâu cảm thông, hiểu rõ nỗi đau khổ của bố chồng nhưng sâu trong thâm tâm vẫn nghi ngờ người bố chồng hiện nay. Người con dâu đã tâm sự với ông: “ Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Lời tự bạch của người con dâu rất đỗi chân thật, cảm thông nỗi khổ của bố chồng khi đánh mất những gì tốt đẹp của ngày xưa rồi cô lại tiếp tục nói: “Thầy ơi! Làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con ngày xưa”. Hàng loạt những suy nghĩ từ người thân trong gia đình đã chứng tỏ ai ai cũng xa lánh, nghi ngờ, xem thường Trương Ba hiện tại.Như vậy, giữa hai thực thể là người làm vườn biểu tượng cho cái đẹp và thân xác tên đồ tể biểu tượng cho cái xấu, cái ác đã làm cho Trương Ba không còn nguyên vẹn “hồn nào xác ấy” như xưa được nữa.

Chính vì lâm vào hai bi kịch như trên, Hồn Trương Ba đã mời Đế Thích về để tỏ bày khát vọng chính đáng của mình: “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Hồn Trương Ba tha thiết xin trả lại xác anh hàng thịt và cho mình được chết vì ông nghĩ rằng: “ Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn”. Nhưng Đế Thích vẫn muốn để Trương Ba được sống để tiếp tục có người đánh cờ cùng, có người khen mình là tiên cờ nên đã đề nghị Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị ( con chị Lụa ) vừa mới chết. Nhưng cách giải quyết này của Đế Thích cũng vẫn là cách đi ngược lại với quy luật của tạo hóa, đâu khác chi với hoàn cảnh thực tại của mình. Và Hồn Trương Ba đã yêu cầu Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị được sống, được trở về với gia đình và để Trương Ba chết. Hồn Trương Ba nói: “ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời nói ấy càng cho thấy rõ sự tắc trách của các quan nhà trời, càng sửa lại càng sai, càng làm cho con người rơi vào bế tắc, đau khổ, đánh mất chính mình. Suy nghĩ của Hồn Trương Ba, dù không còn trên cõi đời này nhưng hình ảnh một ông Trương Ba hiền hậu, vui vẻ sẽ mãi sống trong lòng mọi người với tình yêu thương và lòng kính trọng. Đó chính là một khát vọng sống chính đáng. Vở kịch khép lại, kết thúc bằng cái chết của nhân vật Trương Ba nhưng lại lấp lánh tính nhân văn, triết lý. Đó là một hướng giải quyết phù hợp với lẽ tự nhiên, với quy luật đạo đức với con người.

Làm nên sự thành công của vở kịch, ta không thể không nhắc tới nghệ thuật xây dựng tình huống đầy kịch tính, lời thoại nhân vật sống động, chân thật, đi sâu vào nội tâm nhân vật để khắc họa lên nhân vật Hồn Trương Ba với những bi kịch nhưng đậm chất nhân văn. Lưu Quang Vũ đã thổi vào nền kịch nói Việt Nam sau 1975 một làn gió mới. Và chắc chắn sức sống của nó sẽ còn mãi trong lòng bạn đọc đến hôm nay và cả mai sau.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 4

Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh… nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba

Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng. Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp vì, theo lí lẽ của xác thịt là “chẳng còn cách nào khác đâu”, vì cả hai “đã hoà vào nhau làm một rồi”. Trước những “lí lẽ ti tiện” của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân. Màn đối thoại này cho thấy:

Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.

Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. Ông hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không hề muốn điều đó. Thái độ của vợ Trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương Ba.

Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng vốn bàn tính vị tha nên định nhường Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt.

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Tuy nhiên, họ chỉ là những người dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba. Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn Trương Ba thách thức xác anh hàng thịt: “có thật là không còn cách nào khác?” và phản kháng quyết liệt: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”). !”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đổ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.

Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.

Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 5

Lưu Quang Vũ sinh năm (1948 – 1988) là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam, tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của ông có vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những văn bản đặc sắc với việc khắc họa những mâu thuẫn giữa linh hồn của Trương Ba với xác của hàng thịt, phản ánh bi kịch cũng như khát vọng được hoàn thiện về nhân cách của hồn Trương Ba.

Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt xuất xứ từ một câu chuyện có trong dân gian từ lâu đời được tác giả Lưu Quang Vũ biên kịch thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra những vấn đề mới mẻ và có ý nghĩa về tư tưởng cũng như triết lý nhân văn một cách sâu sắc. Vở kịch được công diễn tại nhiều nước trên thế giới, là một trong những vở kịch góp phần nên tên tuổi của Lưu Quang Vũ.

Nội dung của nó được tóm tắt như sau: Trương Ba là một nhân vật người làm vườn nhưng có tài chơi cờ tướng, vì một sự nhầm lẫn nhỏ của Nam Tào nên Trương Ba bị chết oan. Để có thể sửa sai thì Nam Tào cùng Đế Thích để cho Trương Ba sống lại nhưng lại nằm trong thân xác của anh hàng thịt.

Mọi rắc rối cũng từ đây mà phát sinh, Trương Ba liên tục bị làm phiền, những người thân thì sợ hãi và xa lánh, bản thân của Trương Ba cũng rất lấy làm khó chịu khi thân xác không phải là của mình. Cuối cùng thì Trương Ba cũng đã quyết định trả lại thân xác cho anh chàng hàng thịt, giải thoát cho mình và chấp nhận cái chết. Đây là đoạn trích của đoạn kết trong tác phẩm tập trung phản ánh những chủ đề tư tưởng của vở kịch.

Ở trong đoạn này, mâu thuẫn đỉnh điểm đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, cũng như những giằng xé một cách đau đớn của hồn Trương Ba. Cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt với tư thế ngồi ôm đầu chính là cảnh mở đầu cho đoạn kịch, nói ra những câu đầy bực bội:

“Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi…Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồii! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”

Sau đó chính là cảnh hồn của Trương Ba được tách khỏi xác của anh hàng thịt, cũng từ đây thì cuộc đối thoại giữa hồn và xác cũng được bắt đầu. Dưới vỏ bọc ngôn ngữ của những lời đối thoại có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ của những người xem kịch mà Lưu Quang Vũ cũng chú ý đến sử dụng ngôn ngữ mà phản ánh tính cách và bản chất của nhân vật.

Xác của anh hàng thịt lên tiếng với những giọng điệu hết sức mỉa mai, phủ nhận những cố gắng để giải thoát linh hồn của Trương Ba như “cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu”… Hồn của Hồn Trương với thái độ vừa coi thường vừa ngạc nhiên: “mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói”… “hoặc có thì cũng là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được “thèm ăn, thèm rượu thịt”.

Lưu Quang Vũ thừa kế những tư tưởng của những truyện cổ dân gian một cách thấm nhuần, và tiếp tục khẳng định những vai trò to lớn của linh hồn và thể xác. Tuy thế nhưng tác giả đã cho người xem một cuộc tranh luận không kém phần gay go và quyết liệt giữa linh hồn của Trương Ba và xác của anh hàng thịt.

Có những khi tiếng nói của xác thịt còn lấn át cả tiếng nói của linh hồn, làm cho linh hồn bị đẩy vào ở thế bị động và lúng túng: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!… Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ?” hay sự phân bua lí lẽ đòi công bằng qua câu “Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác…”

Thương Trương Ba với bản tính hiền lành, phúc hậu đồng thời không muốn làm mất đi người bạn cờ tri kỉ mà Đế Thích vẫn cố gắng thuyết phục để Trương Ba đổi ý nhưng ông vẫn giữ nguyên: “Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!”

Hành động trao trả lại thân xác cho anh hàng thịt của nhân vật Trương Ba là một hành động đúng đắn và hợp đạo lí. Điều đó có thể khẳng định: Một linh hồn dù có tốt đẹp đến đâu nhưng mà phải trú ngụ trong một thể xác của người khác thì cũng không thể nào có thể thấy thoải mái vì những mặc cảm giả dối.

Có thể nói trích đoạn vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt đã tập trung một cách cao độ tính triết lý cũng như tư tưởng nhân văn của vở kịch đến từ dân gian này.

Tác giả đã cho người đọc và người xem thấy được một quan niệm về cách sống một cách đúng đắn hãy là chính mình, cuộc sống thực sự của một cá nhân chỉ có ý nghĩa khi chúng ta sống vì niềm vui và sự lạc quan, hạnh phúc của tất cả mọi người vì sự tốt đẹp cho cuộc đời.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 6

Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài, không chỉ viết văn, làm thơ mà ông còn đạt đến đỉnh cao ở thể loại kịch và trở thành gương mặt tiêu biểu nhất của sân khấu kịch 50 năm trở lại đây. Với sức sáng tạo dồi dào, ông đã tạo ra những tác phẩm còn mãi với thời gian, trở thành người tiên phong về những vấn đề nóng hổi của thời đại. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ tài năng nghệ thuật và tư tưởng của tác giả Lưu Quang Vũ.

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” ra đời vào năm 1981 và được công diễn vào năm 1984. Đây là giai đoạn cả dân tộc vừa bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mĩ. Cơ chế bao cấp thời kì này cũng bộc lộ những trì trệ và cả dân tộc đầy khát khao chuyển mình để thay đổi nhịp sống mới. Tác phẩm kể về cuộc đời của Trương Ba – ông lão làm vườn hơn 50 tuổi chất phác, cần cù và đánh cờ rất giỏi, trở thành bạn chơi cờ của tiên Đế Thích. Sau khi Trương Ba qua đời, Đế Thích đã để cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới qua đời. Tuy nhiên, rắc rối đã xảy ra với chính bản thân Trương Ba và những người thân. Sau bao đau khổ và thấm thía từ sự mâu thuẫn giữa hai đối cực về tâm hồn và thể xác, Trương Ba đã cầu xin Đế Thích cho mình được chết để trả lại thân xác cho anh hàng thịt. So với cốt truyện dân gian nhấn mạnh vào xung đột bên ngoài và nêu lên khát vọng được sống, tác giả Lưu Quang Vũ đã chuyển hóa thành một tác phẩm chứa đựng xung đột bên ngoài lẫn bên trong và đặt ra câu hỏi: “Sống như thế nào”. Đoạn trích thuộc cảnh VII – đoạn kết của vở kịch, chứa đựng cao trào của xung đột và đặt ra vấn đề giải quyết xung đột về quyết định của Trương Ba.

Đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt chứa đựng cao trào về mâu thuẫn giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt. Khi được sống lại trong xác của anh hàng thịt, ban đầu, Trương Ba và những người thân đều cảm thấy vô cùng hạnh phúc, nhưng tiếp theo ông nhận ra những rắc rối khi phải sống trong thân xác của người khác và bị người thân lên án, xa lánh. Trương Ba cảm nhận ra mình đã đánh mất chính mình với sự thay đổi theo nhu cầu của thân xác. Ông đau khổ muốn thoát khỏi vỏ ngoài và tin mình sẽ được trở lại làm chính mình.

Cuộc đối thoại được thể hiện qua tiếng nói của linh hồn và thể xác cùng vai trò của linh hồn và thể xác. Vấn đề tranh luận đầu tiên giữa hồn và xác là phần hồn có thể tách ra khỏi xác hay không. Trong khi Trương Ba mạnh mẽ, quả quyết, chủ động tách ra khỏi thân xác thì xác anh hàng thịt khẳng định linh hồn không thể tách ra khỏi thân xác. Tuy nhiên, sau đó, hồn đuối lí, chối bỏ, không dám thừa nhận việc bị ảnh hưởng bởi thân xác, còn thân xác tiếp tục khẳng định linh hồn không thể nguyên vẹn, trong sạch khi phải tồn tại nhờ thân xác. Cuộc đối thoại tiếp tục về nội dung thể xác có tiếng nói hay không. Hồn Trương Ba đã phủ nhận tiếng nói của xác thịt, còn xác hàng thịt lại đưa ra những lí lẽ khẳng định xác thịt có tiếng nói, có khả năng chi phối tâm hồn – vì “âm u, đui mù” nên càng có sức mạnh ghê gớm chiến thắng linh hồn “cao khiết” của Trương Ba.

Cao trào của cuộc đối thoại đã được đẩy lên đỉnh điểm khi hồn xếp tiếng nói của xác thịt vào những thứ thấp kém, còn xác tiếp tục khẳng định sự tồn tại của bản thân và tiếp tục củng cố lí lẽ của mình bằng việc liệt kê thêm sự hấp dẫn của những thứ thấp kém đó đối với tâm hồn. Đến cuối cùng cuộc đối thoại, Trương Ba đã trở nên đuối lí và tuyệt vọng trong câu nói: “Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành làm ta trở thành tàn bạo”, còn hồn đã dành chiến thắng trong cuộc tranh luận với lời khẳng định: “Chẳng có cách nào chối bỏ được tôi đâu”. Cuộc đối thoại đã chứa đựng rất nhiều sự mâu thuẫn xung đột giữa hồn và xác.

Ở phần hai của cuộc đối thoại, khi mà tiếng nói của xác thịt đã có phần lấn át, phần xác đã tiếp tục khẳng định vai trò của bản thân bằng những lí lẽ đầy sự khẳng định. Xác khẳng định mình là chiếc vỏ bọc để linh hồn trú ngụ, tồn tại: “Tôi là hoàn cảnh mà anh buộc phải quy phục”. “Hoàn cảnh” mà xác thịt nói đến chính là cái bình chứa linh hồn và xứng đáng được quý trọng. Xác tiếp tục chất vấn linh hồn bằng những câu hỏi dồn dập: “Sao lại khinh thường tôi”, “Sao lại bỏ bê thân xác”. Đồng thời, xác khẳng định: “Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn: “Làm xong một cái gì xấu cứ việc đổ tội cho tôi để được thanh cao”, “Miễn là làm đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát của tôi”.

Sự khẳng định vai trò của xác hàng thịt vừa khéo léo, vừa mạnh mẽ. Tiếng nói của xác thịt được coi như hoàn cảnh nghiệt ngã mà linh hồn buộc phải trú ngụ, sự thắng thế của xác thịt chính là sự thắng thế của “chủ nghĩa vật chất”, thể hiện sự mâu thuẫn giữa vật chất và tinh thần, giữa con người bên trong và con người bên ngoài. Phải chăng đó chính là tiếng nói bản năng, khuất lấp sâu thẳm mà con người không thể chối bỏ. Đó là mâu thuẫn trong cùng một bản thể.

Như vậy, mở đầu cuộc đối thoại, nếu như hồn Trương Ba mạnh mẽ, quả quyết, chủ động thì ngay sau đó, hồn trở nên bối rối, lúng túng, luống cuống và cuối cùng rơi vào trạng thái tuyệt vọng và bần thần nhập lại xác hàng thịt. Ngược lại, xác hàng thịt ban đầu điềm đạm, lạnh lùng nhưng sau đó với trạng thái tự tin và thuyết phục, xác đã an ủi, dỗ dành, chiến thắng những lí lẽ của hồn. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác đã thể hiện quan điểm của tác giả Lưu Quang Vũ về cuộc sống và con người trong sự mâu thuẫn giữa tâm hồn và thể xác.

Xung đột của vở kịch còn được thể hiện qua thái độ thất vọng của người thân trước sự thay đổi của Trương Ba. Người vợ đã kiên quyết rời đi trước sự thay đổi của Trương Ba. Cái Gái nhất quyết không chịu nhận Trương Ba là ông của mình, ngay cả chị con dâu, người hiểu Trương Ba nhất cũng thất vọng vì thấy “thầy mỗi ngày một khác đi”. Bác Trưởng Hoạt cũng không muốn đánh cờ với Trương Ba vì thấy nước cờ của ông nhỏ nhen, ti tiện như chính con người anh hàng thịt.

Chính sự thất vọng của người thân đã buộc Trương Ba phải nhìn thẳng vào sự thật: không một ai trong gia đình chấp nhận sự tồn tại phi lí của ông. Đồng thời, bác bỏ mọi lí do để tồn tại trong nghịch lí này mà phần xác đã nêu ra.

Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, Trương Ba đã chỉ ra bi kịch của cuộc sống nương nhờ, ông đã khẳng định rằng “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và bày tỏ mong muốn thoát khỏi bi kịch hiện tại. Đế Thích đã khuyên Trương Ba suy nghĩ lại vì được sống là điều đáng quý nhất, để thuyết phục Trương Ba, Đế Thích đã khuyên ông nhập hồn vào xác cu Tị vì sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ nhỏ sẽ phù hợp với tâm hồn thanh khiết của ông. Tuy nhiên Trương Ba đã quá thấm thía bi kịch không được sống là mình, ông cũng hiểu rằng nhập hồn vào xác cu Tị cũng chỉ là lấy bi kịch này thay cho bi kịch khác. Cuối cùng Trương Ba đã chọn cách ra đi để được làm mình trọn vẹn.

Như vậy, trong tác phẩm, tác giả Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành công xung động kịch để nêu lên sự đối lập giữa tâm hồn và hoàn cảnh, bên trong và bên ngoài của mỗi một con người. Nhà văn đã vận dụng ngôn ngữ đối thoại để đẩy xung đột kịch lên cao trào và bắt buộc phải có hành động giải quyết, tạo nên sức hấp dẫn của vở kịch.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 7

Những năm tháng trên ghế nhà trường được tiếp xúc với nền văn học nước nhà bằng nhiều thể loại phong phú luôn là những kí ức, dấu ấn khó phai nhất trong tâm hồn mỗi người. Em không làm sao quên được những vần thơ mặn nồng thiết tha và đầy xúc cảm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan viên hay những câu thơ chạm đáy hồn nhân thế trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Em cũng không thể nào không nhớ bát cháo hành đầy tình người của Thị Nở trong những trang văn của Nam Cao hay nỗi xót xa, đắng cay cho số phận người con gái tài năng nhưng số phận không may mắn của nàng Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Và đến với kịch Việt Nam, Lưu Quang Vũ đã khiến em cũng không khỏi trăn trở trước những tấn bi kịch của cuộc đời con người qua vở kịch:”Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

Trương Ba vốn là một người hiền lành, nổi tiếng với tài chơi cờ. Ông cũng rất chăm chỉ làm ăn, lại làm vườn rất giỏi và có một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình của mình. Nhưng trớ trêu thay, vì sự tắc trách của Nam Tào trên thiên đình mà Trương Ba buộc phải chết, để sửa chữa lỗi lầm của mình họ đã hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt để tồn tại. Song, dường như tấn bi kịch lớn lại bắt đầu từ đây. Dù Trương Ba vốn là người có tâm hồn trong sạch, thủy chung, nhân hậu nhưng khi nhập vào xác anh hàng thịt lại khiến Trương Ba vô cùng bức bối và chịu sự chi phối rất nhiều từ cái xác thô kệch ấy.

Cuộc sống “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo” khiến cho Trương Bạ chẳng dễ dàng gì để đối mặt với mọi người, sống cuộc sống bình thường như khi trước. Trong xác hàng thịt, Trương Ba làm mọi việc rất vụng về, khó khăn, thậm chí có phần thô lỗ, hung bạo, ngày càng trở nên xấu xa hơn. Trương Ba đang bị xác anh hàng thịt điều khiển, không kiềm chế, điều chỉnh được những cảm xúc của chính mình nữa. Trương Bạ vô cùng bực tức, giận dữ khi không thể nào thoát được khỏi cái thân xác tồi tệ kia, dù đưa ra mọi lý lẽ nhưng anh hàng thịt chỉ cười nhạo hả hê coi đó là sự hiển nhiên và đưa ra những lí do vô cùng ti tiện, ngông cuồng. Hơn ai hết, lúc này đây, Trương Ba hiểu được sự đau đớn tột cùng và bi kịch của cuộc đời mình.

Khi nói chuyện với những người thân yêu trong gia đình, ông càng thấm thía hơn những cảm nhận của họ, Trương Ba hiểu được rằng họ cũng có những cảm xúc riêng, khó khăn riêng. Một người vợ vốn bên cạnh ông bao năm luôn bao dung, nhân hậu vậy mà dường cũng không thể chịu đựng, chấp nhận được nữa. Đứa con dâu bấy lâu luôn yêu thương ba cũng bày tỏ những nỗi xót xa mà cô có thể hiểu cho cuộc sống của ông, nhưng rồi cũng phải nghẹn ngào bày tỏ: “Thầy bảo con cái bên ngoài là không đáng kể…đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Đứa cháu gái khi xưa vốn hết mực kính trọng người ông yêu quý của mình giờ cũng hoảng sợ, hắt hủi trước bộ dạng này của ông. Trong trí nhớ ngây thơ của đứa bé ấy là một người ông hiền hậu, khéo léo chứ không phải là một kẻ to béo, hậu đậu, thô lỗ kia. Em đã thẳng thắn từ chối, không chấp nhận một ai khác ngoài ông nội trong tiềm thức của nó: “Tôi không phải là cháu ông….ông nội tôi chết rồi”. Càng nghĩ, càng đau khổ. Càng sống, càng xót xa. Dường như nỗi chán chường đến tận cùng cái thể xác không phải là mình, không là của mình đã khiến ông phải thốt lên rằng: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần” bằng một sự dứt khoát vô cùng mãnh liệt trước cái xác anh hàng thịt.

Cuối cùng, để giải thoát cho chính mình, ông đã tìm đến Đế Thích. Ông thể hiện sự phản kháng của mình với cái thân xác xấu xa kia với thần Đế: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Mặc cho vị thần kia có giải thích rằng cuộc sống không có gì là hoàn hảo cả, nên chấp nhận sự không toàn vẹn của bản thân mình, Trương Ba vẫn một mực khẳng định: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác… nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Câu nói của Trương Ba khiến Đế Thích thấy vô cùng kì lạ bởi trong đầu ông luôn tồn tại ý nghĩa sẽ không bao giờ có điều gì toàn vẹn cả trong cuộc sống này, kể cả chốn trần gian hay nơi thiên đình. Khi thoả hiệp cho Trương Ba nhập vào xác cu Tị ông vẫn kiết quyết từ chối. Hơn ai hết, có lẽ giờ đây ông hiểu được rằng, không thể nào có một cuộc sống ý nghĩa thực sự nếu sống nhờ thân xác của kẻ khác. Chấp nhận cái chết không phải là điều dễ dàng nhưng sống mà không được là mình thì càng khó khăn hơn gấp bội.

Cuộc đấu tranh giữa hồn Trương Ba và da hàng thịt là cuộc đấu tranh giữa phần “con” và phần “người” trong một bản thể. Con người để có thể tồn tại đích thực với những giá trị sống bền vững và cao đẹp nhất khi và chỉ khi có sự hoà hợp giữa linh hồn và thể xác. Không thể có một tâm hồn thanh cao sống nhờ vào thân xác của một kẻ thô tục, dối trá. Vì vậy, Trương Ba lựa chọn cái chết để được sống là mình toàn vẹn,  để bảo vệ cho tâm hồn đẹp đẽ của mình trước những sự tha hoá, dụng tục, thô bạo,.. để vươn tới những vẻ đẹp tinh thần là lựa chọn hợp lí cho thấy được tinh thần đấu tranh của những con người lao động lương thiện và phẩm chất cao quý.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã để lại cho chúng ta những bài học nhận thức đầy suy ngẫm mà vô cùng giá trị. Đó là sự tổng hòa giữa vật chất và tinh thần trong đời sống con người, cần phải dùng hoà để phát triển. Đừng bao giờ chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường mà khiến bản thân trở nên mất giá trị và cũng đừng bao giờ vì coi trọng đến tinh thần mà bỏ bê đời sống vật chất, phải biết thích nghi với hoàn cảnh và giữ cho bản thân không bị hoàn cảnh chi phối. Đó còn là triết lý sống về hiện tượng sống nhờ, sống gửi vào kẻ khác, phê phán những kẻ giả tạo, giỏi xu nịnh để tiến thân mà không sống đúng với năng lực, khả năng của mình. Vì mưu cầu danh lợi mà bán rẻ lương tâm.

Bằng tài năng của mình, Lưu Quang Vũ đã xây dựng một vở kịch vô cùng thành công trên nhiều phương diên. Nghệ thuật ngôn từ giản dị, ngôn ngữ đối thoại khắc họa rõ tính cách của từng nhân vật, xung đột kịch hấp dẫn và gây cấn. Nội dung vô cùng sâu sắc, chứa tầng sâu giá trị triết lý, bởi vậy mà tác phẩm sống mãi với đời sống văn học, văn hoá của dân tộc qua bao năm tháng.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 8

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch nổi tiếng. Một trong những vở kịch tiêu biểu của ông là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Tác phẩm gửi gắm nhiều bài học, tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Trương Ba giỏi đánh cờ bị chết oan do Nam Tào làm việc tắc trách. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái như lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ… Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Đoạn trích được học kể về cuộc đối thoại giữa Trương Ba với các nhân vật.

Đầu tiên là cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Bản thân Trương Ba cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Ông xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài với sự âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Nhưng xác hàng thịt lại cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt. Đây chính là cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng. Với cuộc đối thoại này, nhà văn đã gửi gắm thông điệp sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

Tiếp đến, hồn Trương Ba đã có cuộc trò chuyện với những người thân trong gia đình. Trước tình cảnh của Trương Ba, mỗi người có một thái độ khác nhau. Vợ Trương Ba đau đớn trước sự thay đổi của Trương Ba: “Ông đâu còn là ông”, một mực muốn rời khỏi gia đình “đi cày thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt”. Còn cái Gái không chịu nhận ông, cho rằng ông nội của mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!… chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”. Chị con dâu tỏ ra cảm thông, chia sẻ và yêu thương với Trương Ba hơn trước nhưng vẫn không nhận ra Trương Ba của trước đây nữa. Ở một vị trí khác nhau, một thái độ khác nhau nhưng họ đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Để rồi, Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Ông quyết định sẽ trả lại xác cho anh hàng thịt.

Chính hoàn cảnh đó đã dẫn đến cuộc đối thoại với Đế Thích. Trương Ba đã chỉ rõ cái sai của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”. Ông bày tỏ mong muốn: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”; “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”. Mọi chuyện trở nên éo le hơn khi nghe cu Tị chết, Đế Thích đề nghị cho hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, Trương Ba đã từ chối. Ông đã nhận ra được một loại những rắc rối đằng sau việc này: phải giải thích cho chị Lụa và người thân trong gia đình (đặc biệt là cái Gái – cháu gái của mình nhưng cũng là bạn thân của cu Tị, có khi phải sang nhà chị Lụa ở, tạo cơ hội cho bọn lý trưởng sách nhiễu, thu lợi… Cuối cùng, Trương Ba đã từ chối và yêu cầu Đế Thích để cho cu Tị sống còn mình thì chết. Đây là một cái kết hợp lí, có hậu nếu xét theo ý nghĩa đó là kết quả của cuộc đấu tranh giữa khao khát được sống, nhưng không chấp nhận cuộc sống giả dối, không được là chính mình.

Qua đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 9

Được sống là chính mình là một mong ước, khao khát của không ít người. Hiểu được điều đó, Lưu Quang Vũ – nhà biên kịch tài năng đã dựa trên một tác phẩm dân gian để tạo nên một tác phẩm để đời, gây một tiếng vang lớn trong thời gian đó, đó là vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Tác phẩm đã mang tới những thành công lớn cho Lưu Quang Vũ cũng như nền sân khấu kịch Việt Nam.

Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ chắp bút từ một câu chuyện dân gian. Câu chuyện kể về Trương Ba – một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu thương con cháu nhưng lại bị “chết nhầm” do sự tắc trách của quan trên thiên đình. Nhờ sự giúp đỡ của tiên cờ Đế Thích, Trương Ba sống lại nhờ việc nhập hồn vào xác anh hàng thịt. Những tưởng điều đó phải là sự may mắn, niềm vui bất ngờ, thế nhưng, Trương Ba trong xác anh hàng thịt lại không thể vui vẻ sống. Sự thô kệch về ngoại hình, tính cách thô thiển của người hàng thịt khiến Trương Ba dần trở nên thay đổi trong mắt những người thân. Sự thay đổi trong tính cách và con người đã khiến Trương Ba vô cùng đau khổ, day dứt. Cuối cùng để giải quyết mọi mâu thuẫn, Trương Ba đã quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, xin Đế Thích ban sự sống cho cu Tị (bạn của cháu gái ông) còn mình thì rời khỏi trần thế.

Đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong là chương thứ VII và đoạn kết của tác phẩm. Nội dung chính là sự đau khổ, dằn vặt của Trương Ba, ông muốn thoát khỏi tình cảnh nương nhờ ở thực tại, muốn được sống là chính mình. Qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho độc giả thông điệp vô cùng sâu sắc: được sống là điều quý giá, nhưng được sống đúng là chính mình thì điều đó còn quý giá hơn, sống là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, là theo đuổi những giá trị mà mình hằng mơ ước.

Phần đầu của trích kịch là cuộc tranh cãi nảy lửa của phần hồn và phần xác khi mà hồn Trương Ba không thể chịu nổi sự lấn át của thể xác, khi mà cái xác đang dần tha hoá ông bằng những nhu cầu tầm thường, dung tục. Trong khi Trương Ba đề cao sự “cao khiết”, “nguyên vẹn, thẳng thắn” thì cái xác lại cho rằng nó “là cái bình chứa linh hồn”, “phải tồn tại nhờ” nó cũng như “chiều theo những đòi hỏi của” nó. Đó là bi kịch của cuộc đời Trương Ba, bi kịch phải sống nhờ và bị tha hoá, cũng như bị người thân chối bỏ.

Bi kịch đầu tiên của ông là bi kịch của sự tha hoá, bi kịch phải sống như một cành tầm gửi. Đoạn trích của vở kịch mở đầu bằng lời than vãn đau khổ của Trương Ba: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi”. Đó là lời độc thoại của ông, lời nói thốt lên trong sự bế tắc đầy đau khổ, sự u uất không lối thoát. Một linh hồn cao khiết nhường ấy, giờ đây lại phải chịu một thân xác kềnh càng, thô lỗ, mà cái xác ấy đang dần lấn át đi cái thanh cao, đôn hậu vốn có của ông. Từ bao giờ, ông đã thích uống rượu, thích bán thịt và chẳng còn hứng thú mặn mà với cái thú chơi tao nhã là đánh cờ, chăm vườn cây kia nữa. Hồn của Trương Ba bối rối, hoang mang, đau khổ, trong giọng điệu có sự gấp gáp, sự ghê tởm tràn đầy “Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái xác kềnh càng thô lỗ, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi ngay tức khắc! nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Những câu nói mang đầy sự ghê sợ, nỗi oán hận khi không được là chính mình. Quả là một sự kết hợp khập khiễng, sự kết hợp ấy khiến cho Trương Ba trở thành một cành “tầm gửi” sống kí thác vào một cái xác “âm u, đui mù”, khác biệt với con người ông. Và giờ đây, ông chỉ muốn bứt ra “tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Còn gì đau khổ hơn khi tự nhận sự tha hoá trong bản thân mình mà không có cách nào dừng lại được! Đó là bi kịch, là nỗi đau khôn cùng của một tâm hồn thanh cao, “nguyên vẹn” như Trương Ba.

Và thật sự, hồn Trương Ba đã tách khỏi cơ thể của hàng thịt thô kệch, thế nhưng bi kịch tha hoá của ông lại càng được bộc lộ rõ hơn qua cuộc đối thoại với cái xác. Trong khi Trương Ba cho rằng chính cái xác của anh hàng thịt đã khiến mình đổ đốn, khiến ông tha hoá, thay đổi thì cái xác hàng thịt lại trả lời rằng: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nếu như hồn Trương Ba cho rằng cái xác chỉ thì “xác thịt âm u đui mù” thì cái xác đã đưa ra những lí lẽ đanh thép, trần trụi đến đáng sợ. Nó nhắc tới những khát vọng xác thịt, “những thứ thấp kém” như “ăn ngon, thèm rượu thịt”, và rồi, nó nhắc tới sức mạnh “tát thằng con ông toé máu mồm máu mũi”.  Đó là những thứ cái xác đã và đang biến đổi ông, thế nhưng, nó cũng là thứ giúp ông làm được những điều yêu thích như làm vườn, chơi cờ. Trong cuộc đối thoại ấy, những lý lẽ của cái xác quả là ti tiện thật, thế nhưng nó lại đúng, và Trương Ba với tâm hồn cao khiết kia chẳng thể phản bác được đôi lần.

Ngược lại, về phía phần hồn, ông không thể giữ được bình tĩnh, bởi mỗi lời của cái xác nói ra đều là sự thật, đều khiến ông phải “bối rồi” mà quát lên “đã bảo mày im đi”. Những lời nói của nó đã khiến cho ông cảm thấy xấu hổ, cảm thấy không còn tin tưởng được vào bản thân mình “một linh hồn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, nó đã khiến ông tuyệt vọng. Trong khi Trương Ba luôn nghĩ mình trong sạch, thế nhưng, ông lại thường chiều theo những khát vọng của cái xác rồi đổ lỗi là do cái xác chi phối. Hồn trong sạch còn cái xác thì ti tiện được chăng, hay phải chăng, hai thứ đó đã pha trộn và Trương Ba đã không còn là Trương Ba của ngày nào nữa?

Bi kịch giữa của hồn Trương Ba là ẩn dụ cho bi kịch về lối sống con người. Một bên là sự thanh cao, là khát vọng sống cao thượng còn một bên là một cuộc sống vật chất tầm thường. Hai lối sống đó xung đột gay gắt trong đời sống hằng ngày cũng như phần hồn Trương Ba và cái xác hàng thịt vậy. Con người phải biết chăm chút cả tâm hồn và thể xác chứ không thể chỉ chăm chút một bên, bởi nếu không, hẳn có một ngày chúng ta cũng sẽ sống trong sự lệch lạc, trong sự mâu thuẫn giữa thể xác và tâm hồn.

Bi kịch cứ nối tiếp bi kịch khi những người thân trong gia đình mà ông vốn yêu thương đang dần xa lánh ông vì không thể chấp nhận một Trương Ba như thế. Từ người vợ yêu thương, không thể chịu nổi một Trương Ba thô kệch, đã muốn bỏ đi biệt xứ, bói sự thay đổi của ông, bởi xóm làng đàm tiếu và bởi sự tha hoá trong con người ông. Cái Gái – đứa cháu ông yêu thương, giờ đây nhìn ông bằng sự “lặng lẽ, soi mói” và đến cuối cùng, sau bao ngày chịu đựng, nó quyết không nhân ông. Nó thấy ông “làm gãy mầm cây canh, đạp nát mầm cây sâm quý”, “làm hỏng diều của cu Tị”, những điều mà Trương Ba chưa bao giờ làm lúc còn sống. Sự thay đổi của người ông đã khiến nó không thể chịu đựng nối. Có lẽ vì thế mà ông nhận ra rằng mình đã tha hoá, đã thay đổi tới mức không còn nhận ra. Và câu chuyện của người con dâu dường như đã thức tỉnh, khơi mào cho mọi hoang mang, hoài nghi trong hồn Trương Ba, rằng: “cái bên ngoài là không đáng kể… mỗi ngày thấy một khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhoài mờ dần đi…”

Những câu nói, thái độ của người thân đã khiến cho hồn Trương Ba buộc phải ra một quyết định gì đó, quyết định tháo gỡ hết thảy những vấn đề của mình, của mọi người. Không chấp nhận để cái xác lấn át phần hồn trong sạch còn lại của mình nên ông đã gọi Đế Thích xuống và khẳng định “không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là chính mình”. Đây là lời khẳng định mà đáng ra Trương Ba phải nói ngay từ ban đầu, ngay từ khi nhận ra cái xác đã biến đổi bản thân mình. Và quyết định cuối cùng của Trương Ba đó là “hãy để tôi chết hẳn”, xác anh hàng thịt thì trả lại cho anh và ông đã xin cho cu Tị – bạn cái Gái được sống lại. Chỉ với một quyết định như thế, ông đã cảm nhận được “tâm hồn tôi lại được thanh thản và trong sáng như xưa”. Hẳn quyết định cao thượng đó của Trương Ba không hề dễ dàng, bởi là con người, khát khao lớn nhất là được sống, được ở bên những người thân yêu. Thế nhưng, với một con người như Trương Ba, sống mà không được làm chính mình thì không phải là sự sống thật sự.

Cái kết của câu chuyện tưởng chừng như là bi kịch ấy lại là một cái kết đầy nhân hậu. Hình ảnh cu Tị chạy lại bên mẹ nó đã khiến người xem thấy cảm động hơn bao giờ hết bởi đó là sự đánh đổi với cái chết của Trương Ba. Vườn cây của Trương Ba lại rung rinh những màu xanh mát, vườn cây ấy là nơi lưu giữ hình ảnh của một Trương Ba hiền hậu, một Trương Ba là chính mình với tâm hồn cao khiết. Trương Ba đã ra đi trong thanh thản, trong sự yêu thương trọn vẹn của người thân.

Vở kịch khép lại đã để lại cho chúng ta nhiều dư âm sâu sắc, những thông điệp quý giá. Đó là hãy luôn cố gắng là chính mình, cố gắng giữ gìn tâm hồn trong sạch, nguyên vẹn là mình. Cuộc đời nhiều cám dỗ, thế nhưng, hãy giữ vững tư tưởng, để mãi về sau, khi trở về với cát bụi, ta vẫn là ta, thanh thản và trọn vẹn là mình. Lưu Quang Vũ với vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt xứng đáng là một trong những tác phẩm kịch xuất sắc nhất trong sân khấu kịch Việt Nam.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 10

Lưu Quang Vũ là một người đa tài, ông hoạt động trong hầu hết lĩnh vực nghệ thuật. Ông vừa có thể viết truyện, làm thơ, am hiểu về hội họa… song có lẽ dấu ấn của ông được khẳng định rõ nhất qua kịch. Kịch của Lưu Quang Vũ giàu tính triết lí mang đậm ý nghĩa nhân văn. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một tác phẩm như thế. Đăc biệt đoạn trích cảnh VII của vở kịch thể hiện sáng rõ giá trị nhân văn của toàn vở kịch khi diễn ra xung đột gay gắt giữa hồn và xác và được đẩy lên tới đỉnh điểm.

Trước hết, giá trị nhân văn của một tác phẩm có thể được hiểu là vẻ đẹp, phần sáng trong một con người song phần đẹp đẽ của một con người chỉ thực sự được bộc lộ khi được đặt vào các mâu thuẫn, sự đấu tranh trong hoàn cảnh cụ thể. Ở đó nhân vật luôn cố gắng thoát ra khỏi những bóng tối, những cái xấu xa để khẳng định bản thân mình, vươn tới những giá trị đẹp nhất trong xã hội. Nói như thế, phần nổi bật của giá trị nhân văn là giá trị về tinh thần của con người như: trí tuệ, phẩm giá, nhân cách, tâm hồn… Giá trị nhân văn được xem như là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.

Hiểu như thế, ta nhận thấy giá trị nhân văn của cảnh VII của vở kịch được khắc họa rõ nét qua nhân vật Trương Ba. Trương Ba là hiện thân của một con người tốt bụng, sống thanh tao và đặc biệt có biệt tài là chơi cờ rất giỏi. Ông là người thường chơi cờ với Đế Thích và hai người trở thành bạn của nhau. Tuy nhiên, do thiếu tinh thần trách nhiệm, tắc trách trong công việc của mình, các quan nhà trời đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới khiến ông Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Đế Thích cũng là một quan nhà trời đã cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào xác anh hàng thịt mới chết được một ngày. Từ đây, xung đột mâu thuẫn ở trong nhân vật hồn Trương Ba nảy sinh một cách gay gắt. Nhưng chính mâu thuẫn, sự đấu tranh ấy lại làm ngời sáng giá trị nhân văn của tác phẩm.

Hình ảnh một ông Trương Ba ngồi một mình ôm đầu hồi lâu đã cho chúng ta sự chán nản, tuyệt vọng trong tâm hồn. Hồn Trương Ba cảm thấy nỗi đau đớn của chính mình khi con người thật của mình đã bị đánh mất. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt : “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nam rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Giá trị nhân văn của tác phẩm lại nằm ở chỗ nhà viết kịch không để Hồn Trương Ba trượt dài trên sự tha hóa, biến chất của thân xác vốn không thuộc về mình, không phải là của mình. Một Trương Ba bị gia đình nghi ngờ, cảm thấy xa lạ, xa lánh nên nhân vật nhận thức rõ điều ấy và không muốn sống một cuộc sống lay lắt, sống dở, chết dở. Hồn Trương Ba quyết tìm gặp Đế Thích để nói lên khát vọng sống đích thực của mình là đòi lại quyền làm người, quyền sống thích đáng của con người. Trong cuộc nói chuyện, Hồn Trương Ba đã lên tiếng phê phán thói ích kỉ của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và bày tỏ ước vọng của mình là muốn được chết vì chỉ có cái chết mới trả lại con người đích thực của Hồn Trương Ba, mới có thể tìm lại một Trương Ba tốt đẹp trong mắt mọi người xung quanh như xưa. Đối với Trương Ba, cái chết là một sự giải thoát thể hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh đòi lại quyền làm người, đòi lại một người yêu thiên nhiên, yêu gia đình, yêu mọi người. Với khát vọng “ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thì đó lại là một cái chết đẹp. Tiếng nói ấy là một tiếng nói hết sức chính đáng, sống đúng với tư cách của một con người là một phẩm chất đẹp. Hồn Trương Ba quyết liệt tìm đến cái chết : “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã chết rồi hãy để tôi chết hẳn”. Và ông còn quả quyết khi đưa ra lời đe dọa với Đế Thích “ Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông, hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất…”. Những lời nói phản kháng quyết liệt của Hồn Trương Ba khi đối diện với Đế Thích càng thấy rõ sức sống tiềm tàng trong con người Hồn Trương Ba thật mãnh liệt để tìm lại chính mình, đòi lại quyền làm người thích đáng của mình khi đã bị các quan nhà trời tước đoạt là phẩm chất tốt đẹp ở nhân vật này.

Một phẩm chất tốt đẹp nửa của Hồn Trương Ba cũng được bộc lộ ở ông đó là tình yêu thương con người. Khi Đế Thích vẫn muốn níu kéo sự sống của Hồn Trương Ba bằng cách đưa ra lời gợi ý, lời khẩn cầu sống trên thân xác của cu Tị hàng xóm trong cơn thập tử nhất sinh, Hồn Trương Ba đã không đồng ý và cùng lúc ấy ông đã xin trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị. Dù Hồn Trương Ba nhận thấy thân xác của anh hàng thịt đã từng cười cợt, ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba. Nếu không có hắn, Hồn Trương Ba có lẽ sẽ không bị rơi vào tình trạng đau đớn, day dứt, giày vò. Nhưng nguyện vọng của Hồn Trương Ba vẫn xin cho anh hàng thịt được sống, được trở về với gia đình, vợ con đã thể hiện một tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu thương con người của Hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba đã lấy ân báo oán, xóa bỏ thù hận trước kia bởi ông hiểu rõ nỗi đau của người vợ khi mất chồng và nỗi đau của người mẹ khi mất con từ đó yêu cầu tha thiết Đế Thích trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị là một phẩm chất đáng quý.

Để khắc họa lên bản chất tốt đẹp trong sâu thẳm con người của Hồn Trương Ba khiến cho vở kịch mang đậm giá trị nhân văn, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được tình huống đầy kịch tính, lời thoại của nhân vật chân thật, sinh động, lôi cuốn, đi sâu vào nội tâm nhân vật với sự đấu tranh mâu thuẫn phức tạp, giằng xé. Kịch bản đã nêu lên được thông điệp: Phải tôn trọng quyền làm người, quyền sống của con người và không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người tha hóa, đánh mất chính mình cũng là ý nghĩa nhân văn của vở kịch.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 11

Hồn Trương Ba,da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó-thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.

Câu chuyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ,hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao,trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác của một anh chàng thịt phàm phu tục tử,thô lỗ,bản năng. Tuy vậy, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác,tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa,phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.

Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau khổ hơn là hồn Trương Ba không thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào sâu,tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.

Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác. Xác-bằng những lí lẽ đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy rằng sự tồn tại của nó cũng có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập: “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,thẳng thắn! ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết,không có tư tưởng, không có cảm xúc…”

Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh chàng hàng thịt, tác giả cũng hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê, dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi xác vật chất đời thường. Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa khát vọng và bản năng con người.

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba đã cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt:” Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thông điệp đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

Màn kết, Trương Ba trở lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc sống trở lại quy luật tuần hoàn của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông điệp và sự chiến thắng của cái Thiện cái Đẹp và sự sống đích thực.

Từ tích truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống. Tính đa tầng, đa nghĩa, đã thanh trong vở kịch này là một sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chính sự đa hiệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt!

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 12

Lưu Quang Vũ là một nhà soạn kịch, nhà thơ tài năng bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trong giai đoạn sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công. Lưu Quang Vũ từng tham gia chiến đấu đồng thời cũng lại sống trong giai đoạn đất nước chuyển mình, còn nhiều khó khăn, thế nên ông là người nhìn rõ nhất bộ mặt của xã hội lúc bấy giờ, tất cả đều được ông đưa vào các sáng tác của mình. Trong đó ở mảng kịch, Lưu Quang Vũ đạt nhiều thành tựu nhất với gia tài hơn 50 vở kịch chỉ trong khoảng thời gian gần 10 năm sáng tác và hầu hết các tác phẩm đều đã được dựng và công diễn trên các sân khấu lớn nhỏ, nhận được sự ủng hộ và yêu quý của người dân Việt Nam thời bấy giờ. Trong số đó Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch dựng lại nhiều nhất và cũng nổi tiếng nhất, điều đó không chỉ đến từ cốt truyện hấp dẫn, kỳ ảo, mà còn nằm ở các giá trị nhân văn, các bài học triết lý mà Lưu Quang Vũ muốn truyền tải đến người đọc, người xem.

Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt được dựng lại dựa vào một cốt truyện dân gian. Truyện kể về việc sống lại thần kỳ của Trương Ba trong xác hàng thịt sau khi bị Nam Tào gạch nhầm tên trong sổ tử. Câu chuyện kết thúc có hậu khi Trương Ba sống lại, trở về bên người thân trong thân xác của anh hàng thịt. Trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, ông không chỉ đơn thuần nói về cái câu chuyện sống lại hoang đường của hồn Trương Ba trong xác hàng thịt mà đi sâu vào nội tâm của các nhân vật, tinh tế và sáng tạo, mở ra một góc nhìn mới. Vở kịch tập trung khai thác bi kịch của Trương Ba phải sống kiểu chắp vá hồn một đằng xác một nẻo, luôn phải đấu tranh để giữ lại cái sự thanh cao, thánh thiện của tâm hồn, luôn phải chống lại những cái dung tục tầm thường, chống lại sự sai khiến của xác thịt đui mù.

Trương Ba vốn là một người đàn ông hiền lành, chăm chỉ, có một gia đình hạnh phúc, êm ấm, tính tình thanh cao, thích chăm sóc vườn tược, lại có tài chơi cờ, khiến Đế Thích cũng yêu quý mà tìm tới làm bạn. Bi kịch bắt nguồn từ sự tắc trách của Nam Tào khi lỡ tay gạch nhầm tên Trương Ba trong sổ sinh tử khiến ông bị chết oan. Mãi đến một tháng sau Đế Thích mới biết tin thì đã muộn, nhưng vì quá nuối tiếc người bạn cờ, thế nên ông đã tìm cách thương lượng với Nam Tào cho Trương Ba được sống lại trong xác anh hàng thịt vừa mới chết. Những tưởng Trương Ba sẽ được sống lại một cuộc đời mới, tiếp tục hạnh phúc bên gia đình, vui vầy với vườn tược nhưng không, sự sống lại một cách kỳ lạ, đã đem đến cho Trương Ba và những người thân của ông những bi kịch khốn khổ, xuất phát từ sự thay đổi tính nết, từ những mâu thuẫn giữa hồn và xác.

Trong đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt, lúc này Trương Ba đã bắt đầu nhận ra sự thay đổi của bản thân, ông dần sa ngã, chiều chuộng theo những sở thích của cái xác, mà quên đi những thói quen, những thú vui xưa kia của mình. Sự thực ấy khiến Trương Ba vô cùng đau khổ và dằn vặt khi phải luôn đấu tranh chống lại những ý muốn tầm thường của xác thịt để giữ lại cho mình sự trong sạch, thanh cao một đời gìn giữ. Trương Ba muốn rời khỏi xác thịt, muốn thoát khỏi bi kịch tha hóa của bản thân. Trương Ba đã có cuộc tranh luận gay gắt xác người hàng thịt, tuy nhiên trong trận tranh cãi ấy, Trương Ba lại trở thành kẻ đuối lý, liên tục bị cái xác vạch trần, mỉa mai, thậm chí là chế giễu, điều đó khiến ông vừa đau khổ vừa căm tức.

Ngay lúc vừa đối diện ba mặt một lời với cái xác, Trương Ba đã vội vàng phê phán, chỉ trích cái xác chỉ là thứ “xác thịt đui mù”, “vô tri, không có tiếng nói, “không có tư tưởng cảm xúc”,… nhằm giải phóng nỗi căm giận trong lòng, cũng như để áp chế sự ngông cuồng, ngạo mạn của nó. Thế nhưng đáp lại lời chỉ trích của Trương Ba cái xác lại tỏ ra rất bình tĩnh, ung dung, nó chỉ ra những sự thay đổi ghê gớm của ông bao gồm việc thích ăn thịt, uống rượu, thèm tiết canh, rồi thì có lòng ham muốn nhục dục khi đứng trước người vợ trẻ trung của hàng thịt. Từ khi sống trong thân xác mới, Trương Ba không còn thiết tha với cái thú cờ vây tao nhã, không còn khéo léo khi chăm sóc vườn tược, trở nên nóng tính, cục cằn, điều đó bộc lộ rõ khi ông đã dùng sức mạnh của người hàng thịt để tát anh con trai đến hộc cả máu mồm chỉ vì anh này muốn bán cái vườn để mở sạp thịt lợn.

Trước những lời vạch trần của cái xác, Trường Ba vẫn cố cự lại bằng những lời lẽ yếu ớt, ông đổ tại rằng do xác thịt đã sai khiến, do cái xác đã làm ông trở nên thay đổi, tha hóa. Ông khẳng định mình và cái xác đui mù ấy rõ ràng là hai cá thể tách biệt chẳng hề có sự liên quan gì tới nhau, tất cả những thay đổi đều là của xác thịt còn bản thân ông vẫn giữ nguyên một tâm hồn “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Tuy nhiên trước cái lý lẽ yếu ớt ấy của Trương Ba, cái xác đã lập tức phản bác, thẳng thừng phê phán ông là người ưa sĩ diện, luôn lấy cái xác ra để che đậy cho hành vi thỏa mãn ham muốn thú vui tầm thường, còn bản thân thì vẫn tự nhận mình là thanh cao, thánh khiết, để lòng được thanh thản, không cảm thấy dằn vặt. Sự vạch trần ấy đã làm Trương Ba trở nên đuối lý, bởi lẽ cái xác đã nói đúng, bản thân ông không thể chiến thắng những suy nghĩ tầm thường, thuận theo sở thích của cái xác, không thể bảo vệ bản ngã, giữ gìn được những nét đẹp tâm hồn mà bản thân đã xây dựng bấy lâu nay. Điều đó đối với Trương Ba là một sự đau khổ tột cùng, một cú sốc lớn, cũng chính là sự xấu hổ, nhục nhã khi bản thân trở nên sa ngã, trở thành một người không phải mình, sau khi đã sống được hơn hai phần ba cuộc đời.

Cuộc đối thoại kết thúc trong sự bế tắc và đau khổ của Trương Ba, chuyển cảnh sang cuộc đối thoại giữa ông và những người thân trong gia đình, lúc này đây người ta lại thấy được một bi kịch khác của nhân vật này, bi kịch bị chính những người thân yêu nhất chối bỏ. Thoạt đầu chính là người vợ kết tóc của Trương Ba, sau một thời gian chứng kiến quá nhiều sự thay đổi chóng mặt của chồng, bà trở nên chán nản và đau khổ, chính lẽ đó bà muốn bỏ nhà đi thật xa để không còn phải thấy cảnh chồng mình ngày càng trở nên khác lạ, tha hóa theo những thói xấu, tầm thường dung tục như biến thành một người khác, cũng để cho Trương Ba được sống cuộc đời mà ông muốn (mà ý thực sự là cuộc đời với người vợ của hàng thịt, ấy là cái lòng ghen, lòng chua xót của một người vợ khi thấy chồng mình xao xuyến trước người phụ nữ khác). Trương Ba nghe thấy thế thì thấy sững sờ và càng trở nên bàng hoàng trước sự thay đổi của người vợ kết tóc.

Đến khi gặp cô cháu gái mà ông yêu quý nhất, phản ứng của cô bé lại càng khiến ông trở nên đau khổ đến tột cùng, cô bé đã thẳng thừng từ chối tình cảm của ông. Nó chối bỏ ông nội của mình trong thân xác của anh hàng thịt chỉ bởi lẽ nó thấy ông thay đổi quá, không còn khéo léo, yêu cây, yêu vườn như xưa mà trở thành kẻ tội đồ phá hoại hết tất cả những cây cỏ mà ông nội của nó trước đây đã dày công gây dựng. Rồi nghiêm trọng nhất là việc ông đã phá hỏng chiếc diều mà cu Tị yêu thích nhất, giờ thằng bé lại ốm nặng, điều đó khiến cái Gái buồn khổ vô cùng. Nó vì quá thương người ông trước kia, vì thương cu Tị mà đã lớn tiếng trách móc “Ông xấu lắm! Ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể!”. Những lời nói tuyệt tình ấy dường như giáng một cú thật mạnh vào lòng Trương Ba khiến ông bàng hoàng và đau đớn vô cùng, đồng thời cũng ngày càng nhận thức rõ rệt sự thay đổi của bản thân đã đem đến những tấn bi kịch kinh hoàng cho biết bao con người trong gia đình và cả ông.

Cho đến khi gặp người con dâu, Trương Ba mới chính thức hiểu rõ được bản thân mình đã thay đổi đến độ nào, thông qua đoạn thoại “mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòe mờ dần đi,… đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Những lời tâm sự ấy, đã khiến Trương Ba hoàn toàn bình tĩnh trở lại, ông đã thức tỉnh, nhận ra sự sa ngã nghiêm trọng của bản thân, đồng thời tìm cách để giải thoát cho bản thân, cũng như mở nút thắt cho tấn bi kịch của gia đình do sự sống lại kỳ dị của ông đã gây ra.

Trương Ba tìm gặp Đế Thích nói với ông bạn cờ của mình những trăn trở trong lòng, bày tỏ mong muốn được rời khỏi xác hàng thịt, ông không muốn sống cuộc sống hồn này xác kia đầy đau khổ nữa, muốn tìm lại chính mình, tìm lại một Trương Ba trong sạch, thanh cao được mọi người yêu quý, tôm trọng chứ không phải cái cảnh bị chối bỏ đầy đau lòng. Trương Ba nhấn mạnh “tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, ông chấp nhận không được sống trên đời nữa, phải rời đi mãi mãi, xa vợ con, xa những điều ông hằng trân quý, thế nhưng đổi lại Trương Ba được trở lại là chính bản thân, không phải chịu đựng cảnh hồn và xác khác biệt, chịu cảnh bị xác thịt chi phối, rồi dần đánh mất bản ngã, trở nên sa đọa với những thói dung tục, tầm thường. Trước đề nghị của Trương Ba, Đế Thích rất lấy làm không đồng tình, Đế Thích không hiểu được những nỗi khổ đau, bất hạnh mà Trương Ba phải gánh chịu khi sống lại trong thân xác hàng thịt. Chính lẽ đó Đế Thích đã hết lòng khuyên bảo Trương Ba từ bỏ ý định, đồng thời nghĩ rằng bạn mình không thích xác hàng thịt thô lỗ, xấu xí, bèn đề nghị hồn Trương Ba trú tạm vào xác của cu Tị vừa mới chết.

Có thể nói rằng lời gợi ý này của Đế Thích là một chi tiết kịch độc đáo, mở ra những triết lý mới, cũng như là một thử thách đối với nhân cách của Trương Ba, cũng như cách thức giải quyết những bi kịch của ông. Trương Ba khi nghe lời ấy của Đế Thích, ông lại từ chối, chối bỏ cơ hội được tiếp tục sống trên đời với thân xác mới, Trương Ba quyết tâm rời đi, quyết tâm chết hẳn, đồng thời ông cầu xin Đế Thích cho cu Tị một cơ hội được sống lại trong thân xác của thằng bé. Điều ấy là minh chứng cho sự trở lại toàn vẹn và nguyên bản của một tâm hồn lương thiện, thánh khiết, thanh cao. Ông không còn coi trọng việc sống chết, được mất ở đời, Trương Ba quyết định từ bỏ cuộc đời hồn một đằng xác một nẻo ở nhân thế, để được trở lại là một Trương Ba toàn vẹn, được sống và chết là chính bản thân mình, không bị bất kỳ thế lực nào chi phối.

Trương Ba cũng quyết không để bi kịch lại một lần nữa tiếp diễn trên chính bản thân và trong gia đình ông, ông muốn đưa mọi thứ về vị trí vốn có của nó. Bên cạnh đó việc ông nhường cơ hội sống cho cu Tị còn chính là biểu hiện của tấm lòng bao dung, vị tha, tấm lòng yêu thương đứa cháu gái, thương tiếc cho cuộc đời ngắn ngủi của cu Tị, và nỗi đau của người mẹ mất con. Ở cảnh cuối của vở kịch, hình ảnh khu vườn xinh đẹp, cùng bóng dáng Trương Ba xuất hiện chập chờn, đã thể hiện một triết lý trong cuộc sống rằng, con người ta khi chết đi ở nhân thế cũng chưa phải là đã kết thúc hoàn toàn, mà trái lại họ vẫn còn sống mãi trong ký ức của những người ở lại. Trương Ba tuy đã chết phần xác thịt, thế nhưng vẫn mãi sống trong tình yêu, nỗi nhớ thương bởi tấm lòng cao thượng, sự bao dung, tâm hồn thánh khiết, sự khéo léo cùng tài chơi cờ nổi bật.

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một vở kịch chứa đựng nhiều ý nghĩa và giá trị nhân văn tốt đẹp khi thông qua câu chuyện sống lại đầy kỳ dị trong xác anh hàng thịt của hồn Trương Ba để khẳng định chân lý về sự tồn tại thống nhất giữa linh hồn và thể xác. Mà một khi vượt ra ngoài chân lý ấy, cố gắn ghép, chắp vá một cách gượng ép, chống lại quy luật nhân sinh đều sẽ gây ra những bi kịch đau khổ, nó không chỉ là bi kịch cho một người mà là tất thảy những ai có liên quan. Bên cạnh đó Lưu Quang Vũ còn muốn đem đến bài học về việc con người luôn phải liên tục đấu tranh với bản thân, với sự thèm muốn những thứ dung tục, tầm thường, để không ngừng hoàn thiện bản thân, giữ được một tâm hồn cao đẹp, thánh khiết, để lại tiếng thơm đến muôn đời sau.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 13

Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng tạo. Ông đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và quan niệm sống của mình đến với khán giả.

Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng không thể hòa hợp. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, đầy bản năng, thô lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người. Đây là mâu thuẫn nội tại.

Bi kịch của Trương Ba là ông phải chịu chết oan, khi được sống lại phải sống trong cái xác của anh hàng thịt. Ông nhận ra bản thân dần bị tha hóa, tâm hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hôn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, không phải là chính mình.

Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ông đi. Đứa con dâu là người cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét không nhận và đuổi ông đi, dù ông có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.

Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất. Ông đã tự ý thức được tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.

Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.

Anh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…”. Vì thế mâu thuẫn cũng khó có thể giải quyết nhanh chóng. Qua lí lẽ của anh hàng thịt tác giả cũng muốn nói lên một điều: Con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu chính đáng rất con người. Mặt khác tác giả cũng muốn nói lên những người vượt lên hoàn cảnh đã gặp không ít trở lực có lúc làm cho họ nản lòng. Điều đó thể hiện qua những câu thoại có vẻ đuối lí của Trương Ba. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt, đuối lí bởi những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lí. Màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch. Màn đối thoại vừa toát lên giọng điệu nghiêm trang lại vừa có ý mỉa mai hài hước. Đó là một sự kết hợp giữa hài kịch và bi kịch của người nghệ sĩ tài ba. Bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.

Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rất đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thật thiết tha. Cái chết của Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.

Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 14

Nhắc đến Lưu Quang Vũ là nhắc đến một nhà soạn kịch tài hoa, một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Tài năng bao trùm trên các lĩnh vực văn chương nghệ thuật, và trong mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ lại để lại những dấu ấn đặc biệt, để lại những thành tựu trải dài suốt hàng thế kỉ.

Trong đó, Lưu Quang Vũ đặc biệt được ghi nhận ở mảng viết kịch và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được xem là một trong những vở kịch thành công nhất của Vũ. Chính vì thế mà nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nói: “Bóng rợp tài năng của Lưu Quang Vũ đã trùm lên che mát cả một vùng sân khấu rộng lớn theo chiều dài đất nước trong một thập niên”.

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch viết về cuộc xung đột căng thẳng giữa Hồn và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian để xây dựng nên. Trương Ba là một người hiền lành, chăm chỉ, có học thức lại giỏi đánh cờ nhưng lại chết một cách vô lí. Cái chết của Trương Ba chính do bởi sự vô tâm, tắc trách nơi Nam Tào. Sau đó, để sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại là nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết.

Nhưng không ngờ sự sửa chữa lại dẫn tới một sai lầm trầm trọng hơn, Trương Ba rơi vào hẳn đời bi kịch khi phải sống trong xác hàng thịt – một con người hoàn toàn đối lập với mình. Sau cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết, trả lại thân xác vay mượn cho Hàng Thịt bởi vì ông muốn “tôi muốn được là tôi của toàn vẹn” bởi “sống thế này, còn khổ hơn là cái chết”.

Và từ đó, vĩnh viễn “không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nữa”. Qua đó, vở kịch đã mang đến một thông điệp to lớn: được sống làm người là quý giá thật, nhưng càng quý giá hơn khi được sống là chính mình, theo đuổi những giá trị mình mong muốn, sống một cách tự nhiên với sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.

Với cốt truyện như trên, trích kịch xoay cuộc đối thoại nảy lửa giữa hồn và xác. Nguyên nhân xuất phát từ việc Trương Ba phải chịu sự lấn át của thể xác thô lỗ, chiều theo những nhu cầu tầm thường, dung tục mà khiến tâm hồn thanh cao bị nhiễm độc, tha hóa. Hàng thịt bây giờ là cái bình để chứa đựng linh hồn Trương Ba, hàng thịt đòi hỏi những nhu cầu ăn uống rượu thịt, tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…và cả đời sống vợ chồng mà Trương Ba cho là thô phàm, thấp kém.

Trong khi Trương Ba càng cố gắng chối bỏ, đề cao sự nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn thì hàng thịt lại càng khinh khi, phỉ nhổ: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Qua đó, Lưu Quang Vũ đã gửi đến cho người đọc những triết lí nhân sinh quý giá qua bi kịch của cuộc đời Trương Ba.

Bi kịch thứ nhất của Trương Ba là bi kịch sống, sống gửi, không được là chính mình. Nghịch cảnh trớ trêu, sự hoán đổi bất ngờ đã xáo trộn hiện thực. Trích kịch mở đầu với những lời kêu gào thống thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!” Trương Ba đang độc thoại trước cảnh bế tắc. u uẩn không lối thoát của hiện tại. Thân xác kềnh càng, bản tính cục cằn thô lỗ của hàng thịt đang dần dần lấn át đi tâm hồn nhân hậu, thanh cao của chính ông.

Đau khổ, quẫn bách, dày vò không ngờ lại trở thành cuộc đời của Trương Ba. Sự hoán đổi quá chênh lệch, linh hồn thanh cao gửi vào xác thân phàm tục đã khiến cho ông muốn bứt mình ra khỏi hiện tại dù chỉ là trong khoảnh khắc: “Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó được tách khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!”.

Trong chán nản tuyệt vọng, sự khát khao tách bạch trở nên tha thiết hơn bao giờ hết, tiếng kêu gào thống thiết kia chính là lời cầu cứu của một linh hồn khát khao được nguyên vẹn là mình. Và cũng trong giây phút đó, Hồn và Xác đã được tách ra, cuộc hội thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt được bắt đầu.

Ta thấy trong cuộc đối thoại đặc biệt đó, Hồn Trương Ba đã bị nhạo báng, thách thức và đôi lần đuối lí trước lời nói hùng hồn của Xác hàng thịt. Lời nói của Hồn Trương Ba vô cùng ít ỏi và tất cả đều xoay quanh việc bảo vệ sự trong sạch của chính mình, đề cao tâm hồn cao thượng, lối sống nhân hậu, thanh cao và lên án xác thân hàng thịt đã làm ông dơ bẩn, tha hóa. Xác trước những buộc tội đó không hề đuối lí mà ngược lại, còn ung dung, ngạo mạn thách thức linh hồn.

Trước lời khinh miệt thân xác vô hồn, đui mù “mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”, hàng thịt đã nghiễm nhiên đáp lại: “Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!” Ta thấy, mỗi lời hàng thịt nói ra đều buộc Trương Ba phải thừa nhận có sự tồn tại của thể xác, hơn nữa, ông đang bị thể xác mà mình khinh khi, xem thường kia trói buộc.

Hồn im lặng và đau đớn thừa nhận sự thắng thế của Xác, nhiều lần phải bất lực đáp lại: “Im đi”, “Ta… ta… đã bảo mày im đi!”, “Ta không muốn nghe mày nữa!”,… Trong suốt cuộc đối thoại, Xác hàng thịt lần lượt kể lại những hành động, những việc làm, những thói quen nhuốm màu phàm tục như “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”, “ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi không?” để cuối cùng khẳng định một điều chắc nịch với hồn Trương Ba: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!”.

Bên cạnh đó, Xác hàng thịt còn lần lượt kể lể về những lí lẽ vô cùng thuyết phục như “những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”, kể về những “trò chơi tâm hồn” mà mình đã nhân nhượng với Trương Ba. Cuộc đối thoại đến hồi kết, hồn Trương Ba cam cảnh thua cuộc và phải quay về với xác hàng thịt.

Qua tấn bi kịch sống nhờ sống gửi này, chúng ta thấy hình tượng Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt chính là ẩn dụ cho hai lối sống đối lập, một bên đại diện cho sự thanh cao, nhân hậu, khát vọng sống cao khiết, một bên là sự tầm thường, dung tục. Đó đồng thời cũng là sự đấu tranh, đối thoại gay gắt trong một con người. Khi con người sống trong thể xác tầm thường dung tục thì ắt sẽ bị nó ngự trị. Ngược lại, nếu chỉ một mực chăm chút linh hồn mà xem thường thể xác thì thể xác cũng nhếch nhác, tầm thường.

Bi kịch thứ hai của Trương Ba là bi kịch bị người thân cự tuyệt. Có thể nói, đây mới là tấn bi kịch đau đớn nhất, sâu sắc nhất của Trương Ba. Ông tuyệt vọng, khổ đau không chỉ bởi sự thay đổi ngỡ ngàng đến không thể nhận ra của chính mình mà còn bởi sự xa lánh, rời bỏ của người thân. Khoảng cách gia đình, những vết rạn nứt đã mơ hồ xuất hiện.

Từng nhớ, trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, từng có một Chí Phèo bị người thân bỏ rơi từ lúc nhỏ, bị Thị Nở ngoe nguẩy cự tuyệt trên con đường hoàn lương để rồi đi vào một hướng giải thoát mang tính chất đánh đổi: đó là mạng sống, là cái chết. Hoàn cảnh Trương Ba cũng tương tự khi vợ, khi cháu và khi cả con dâu lần lượt rời xa ông. Làm sao Trương Ba có thể thanh minh cho hoàn cảnh hiện tại của chính mình? Làm sao ông có thể giải quyết sự mâu thuẫn giữa hồn và xác đang ngự trị?

Tình thân bị đặt vào giữa bi kịch nghiệt ngã, càng đẩy Trương Ba rơi sâu hơn vào bế tắc của chính mình. Người vợ mà ông hết mực yêu thương cũng không hiểu được ông: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”, đòi bỏ ông ra đi “để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt”, “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”… Mỗi lời nói ra của người vợ như một vết cắt, cắt sâu vào nỗi đau của Trương Ba. Ngay cả đứa cháu ông – Gái cũng đã lên tiếng khước từ, phủ nhận “Tôi không phải là cháu của ông!”

Chính lời nói của đứa trẻ ngây thơ, vô tội đã cáo buộc đanh thép “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, “ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng cả cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”… Nó xua đuổi ông như đuổi một tên hung thần, một tên ác quỷ, nó gọi ông bằng những danh xưng xấu xa, bằng lão đồ tể.

Cuối cùng, đến cả chị con dâu – người mà ông tin tưởng nhất cũng đã tỏ ra nghi ngờ: “mỗi ngày con thấy thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Chị vẫn tự nhủ mình phải kính trọng, phải yêu thương, phải cảm thông cho người bố chồng bất hạnh nhưng hiện thực giờ đây là cửa nhà tan hoang, là nỗi đau khổ của từng người từng người một “nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”

Bây giờ đây, Trương Ba hoàn toàn tuyệt vọng, ông không còn chút niềm tin nào để bấu víu, không còn thiết tha gì một mạng sống đã làm khổ chính mình, hành hạ người thân. Bi kịch nhường ấy là quá đủ. Nỗi đau này phải tiếp tục cho đến bao giờ, Trương Ba “mặt lặng ngắt như tảng đá”, từ chối bỏ, nghi ngờ, chịu ép vế nay đã phải hoàn toàn thừa nhận sự thắng thế của thân xác. Bi kịch bị người thân cự tuyệt đã giúp ông có những suy nghĩ dứt khoát, những hành động quyết liệt nhất để tìm ra con đường tự cứu lấy mình. Cuối cùng, ông đã xin với Đế Thích cái chết bởi “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.

Sở dĩ Trương Ba từ chối cơ hội cuối cùng mà Đế Thích ban cho, đó là nhập hồn vào xác Cu Tị vừa mới chết là vì ông không muốn một lần nào nữa xảy ra bi kịch oái oăm tương tự. Làm có thể sống một cách bình thường, làm sao có thể dung hòa sự khi bên ngoài và bên trong hoàn toàn trái ngược?

Tâm hồn của Trương Ba là một tâm hồn hoàn toàn khác so với thân xác đang trú ngụ kia. Sẽ chẳng có một lối thoát, một cứu cánh nào vẹn toàn cả “trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Đế Thích quan niệm cuộc sống khác ông, sống chỉ đơn giản là không chết, chẳng cần phải vẹn toàn, phải ý nghĩa, phải như mong muốn gì cả “tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong”, “dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông”.

Cái chết của Trương Ba chính là cuộc hồi sinh ngắn ngủi trong lòng những người thân, khi người chồng, người ông, người cha kính yêu, hiền lành khi xưa đã quay trở về. Từ bỏ cuộc sống giả tạo, mệt mỏi, Hồn Trương Ba quay về với nếp nhà hiền hậu ban đầu, với cuộc sống của chính mình, với bậc cửa ở nhà, với ánh lửa, với cầu ao, với cơi trầu, con ao…

Trương Ba đã nói một câu hết sức bình thường giản dị nhưng lại vô cùng thấm thía cảm động: “Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có nhiều đặc điểm nghệ thuật nổi trội và đã gặt hái thành công rực rỡ ở những buổi công diễn sân khấu kịch. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã lồng ghép vào triết lí nhân sinh quý giá về cuộc sống, cách sống của mỗi con người. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, xúc động và gay cấn qua các màn độc thoại, đối thoại đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.

Tóm lại, thông qua trích kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ đã khắc họa một cuộc đối thoại sinh động giữa Hồn và Xác để từ đó đi đến kết luận về một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, một cuộc sống thể xác và tâm hồn để tìm sự sự dung hòa hợp lí. Và trong bất kì hoàn cảnh nào, con người phải biết đấu tranh vươn lên những giá trị chân thiện mỹ, biết tự hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện chính là thông điệp nhân sinh quý giá mà vở kịch mang lại.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 15

Lưu Quang Vũ (1948-1988) là nhà thơ, nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, và đặc biệt thành công trong thể loại kịch nói. Dù có đời sáng tác không dài chỉ trong khoảng 10 năm, thế nhưng Lưu Quang Vũ đã để lại cho nền văn học nước nhà tới gần 50 vở kịch có giá trị, phản ánh rõ những thực trạng của đất nước và con người đương thời, đặc biệt là ở giai đoạn những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhưng con người vẫn chưa kịp thích nghi còn bị chi phối bởi những điều cũ dẫn tới tình trạng mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể. Trong số nhiều vở kịch được dàn dựng của Lưu Quang Vũ thì Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch nổi tiếng và được dựng lại nhiều nhất. Tác phẩm thu hút người đọc người xem không chỉ ở cốt truyện hấp dẫn mà còn nằm ở những triết lý sống rất sâu sắc được thể hiện thông qua các nhân vật, về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về lối sống thanh bạch, về mối quan hệ tình cảm giữa con người với nhau,… tất cả đã làm nên sức hấp dẫn qua nhiều năm của tác phẩm.

Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong một tình huống dở khóc dở cười của nhân vật Trương Ba, mà sau đó nó đã diễn tiến dần trở thành bi kịch tồi tệ nhất trong cuộc đời ông cũng như đối với cả gia đình ông. Trương Ba vốn là một nông dân có cuộc đời viên mãn, sống hiền lành bên vợ con và các cháu, ông không chỉ khéo léo trong công việc vườn tược mà còn là một người có tài đánh cờ rất hay. Cũng chính nhờ cái tài đánh cờ ấy mà ông trở thành người bạn tâm giao của Đế Thích, hai người thường xuyên đấu cờ với nhau rất vui vẻ. Tuy nhiên thật không may rằng, trên Thiên Đình trong lúc Nam Tào và Bắc Đẩu xem xét sổ sinh tử đã vô tình gạch nhầm tên của Trương Ba khiến ông phải nhận cái chết oan ức. Đúng lúc ấy, Đế Thích lại đi vắng thế nên không thể cứu sống được Trương Ba, đến lúc trở về thì bạn cờ của ông đã chết được một tháng, phần hồn tuy còn nhưng xác đã hỏng cả, không thể cứu vãn.

Để cố cứu bạn mình Đế Thích bèn thương lượng với Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết. Trương Ba cuối cùng cũng sống lại, thế nhưng thay vì hạnh phúc sung sướng khi được đoàn tụ với gia đình thì ông lại lâm vào những bi kịch không hồi kết, bi kịch của việc hồn một đằng xác một nẻo! Trương Ba sống lại một cách “kỳ dị”, đồng thời phải đối diện với hai gia đình, hai người vợ, mà nói cách nào ông cũng không thể bỏ bên này đến bên kia. Đồng thời ngoài sự giằng xé thân tình, Trương Ba còn phải chịu đựng sự giằng xé giữa tâm hồn và thể, ông luôn phải tranh đấu quyết liệt với những ham muốn tầm thường của xác thịt để bảo vệ cái phần hồn thánh khiết mà ông vẫn tự hào.

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt bắt đầu với cảnh Trương Ba quay cuồng đau khổ khi phải chống lại sự chi phối của cái xác, cùng với đó là cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn Trương Ba và cái xác của hàng thịt. Trước đó chính bản thân Trương Ba sau khi về đoàn tụ với gia đình, ông đã nhận ra bản thân mình có quá nhiều sự thay đổi thông qua những lời nói của những người xung quanh, từ lời ông Trưởng Hoạt, đến cô con dâu, rồi sự đau khổ của người vợ kết tóc, cuối cùng là sự xa lánh của đứa cháu gái ông vẫn hằng yêu quý. Và điều đó càng trở nên rõ ràng thông qua cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn Trương Ba với cái xác.

Trong khi bản thân Trương Ba luôn cố gắng để tuyệt đối hóa phần hồn, coi xác thịt chỉ là thứ “âm u đui mù” không có tiếng nói, và không có khả năng chi phối phần hồn. Thì trên thực tế, hồn Trương Ba lại đang bị chính xác thịt lấn át không chỉ trong cuộc tranh cãi bằng những lý lẽ bén nhọn, mà còn cả trong cuộc sống trong những thói quen thường ngày. Cái xác đã chỉ ra tường tận những sự thay đổi trong con người Trương Ba, từ việc ông trở nên ham thích uống rượu ăn thịt, ghiền cả món tiết canh mà trước đây ông vẫn từng ghê sợ, đến việc ông không còn thiết tha gì mấy với món cờ mà ông vẫn từng tâm đắc. Không chỉ vậy trong mối quan hệ gia đình, tình cảm cha con đã sứt mẻ chỉ bởi vì ông giáng cho thằng con trai một cái tát đến hộc cả máu mồm, việc mà trước đây người dịu dàng, thanh cao như Trương Ba chẳng tài nào làm nổi,… Ngoài ra ấn tượng nhất là việc xác thịt đã chỉ ra việc Trương Ba nổi lên khao khát nhục dục với người vợ trẻ trung của anh hàng thịt, khiến Trương Ba cảm thấy xấu hổ và tội lỗi vô cùng cực.

Cái xác đã chỉ ra từng cái từng cái một, lên án, và vạch trần Trương Ba bằng những lý lẽ và chứng cứ bén nhọn nhất, khiến ông không thể nào chối cãi. Đứng trước thực cảnh tủi nhục và khốn khổ ấy Trương Ba chỉ có thể cố hết sức chống chế bằng những lý lẽ yếu ớt, ông không chịu công nhận sự tiếng nói của cái xác, cho rằng nó không có tư tưởng, không có cảm xúc. Trương Ba đổ lỗi cho cái xác đã làm ông tha hóa, khiến ông trở nên  tầm thường, làm hại ông bởi những thèm muốn khát khao của nó. Thế nhưng cái xác đã nhanh chóng phản bác lại Trương Ba thật sâu cay rằng Trương Ba đã thực sự buông thả, bản thân chiều theo ham thích của cái xác, để mình cũng được “tham dự vào chút đỉnh”. Thế nhưng là một người ưa sĩ diện, ông đã đem đổ hết những tội lỗi ấy cho cái xác, còn bản thân mình một một lòng đinh ninh rằng bản thân sống với một tâm hồn hồn “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, để bản thân được cảm thấy thanh thản, dễ chịu bằng cách tự lừa mình dối người như thế. Nhưng đứng trước sự vạch trần đầy thách thức và có phần bỉ ổi của cái xác, những lớp phòng tuyến cuối cùng để bảo vệ cái tôi thanh bạch của Trương Ba dần sụp đổ. Ông giận dữ và tủi nhục trước những sự thực không thể chấp nhận, trước việc bản thân dần tha hóa theo lối sống dung tục, tầm thường, quên đi hết cái “chất” Trương Ba thánh khiết, cao thượng ngày xưa. Và ngay lúc này ông chỉ muốn cái xác lập tức im miệng, thôi không vạch trần ông nữa, đồng thời muốn tách ra khỏi nó ngay lập tức, để khỏi chịu phụ thuộc, khỏi bị nó chi phối, kéo dẫn ông vào những sự đổ đốn khác.

Sau màn tranh cãi nảy lửa, và phần thắng thuộc về cái xác, Trương Ba rơi vào cảnh trầm tư, với hàng vạn nỗi đau khổ trong lòng. Đang lúc ấy, người vợ của ông về đến, và nói ra ý định ra đi của mình, điều này lại tiếp tục mở ra một bi kịch khác trong câu chuyện – bi kịch tan ra của một gia đình. Người vợ bấy lâu vẫn gắn bó với Trương Ba, sau khi chứng kiến sự thay đổi quá nhiều của người chồng, không còn là người chồng trước đây mà bà yêu quý, tôn thờ nữa, nên bà muốn dứt áo ra đi, để mắt không trông thấy thì không còn đau khổ nữa, cũng để cho Trương Ba được thanh thản làm những việc mình muốn. Thêm vào đó là câu chuyện người con trai của Trương Ba muốn bán đi khu vườn, vốn là tâm can của ông để hành nghề mổ lợn, ấy thế là khu vườn nơi lưu dấu biết bao nhiêu kỷ niệm của gia đình, là nơi một tay Trương Ba săn sóc tỉ mẩn cũng sắp tiêu tán mất. Trương Ba đối diện với từng sự việc ấy chỉ biết ôm đầu đau khổ, khi ông nhìn thấy đứa cháu gái mình thương yêu nhất, ông đã như tìm được ngọn cỏ cứu mạng, thế nhưng sự lạnh lùng, chối bỏ của đứa cháu đã như cắt vào tim của Trương Ba, khiến ông đau đớn khôn nguôi. Cái Gái không chịu nhận người trước mắt là ông nội, trong mắt nó Trương Ba trong xác hàng thịt là một kẻ thô lỗ cục cằn, bàn chân to bản đã xéo nát hết cả đám sâm quý mới ươm, đôi tay giết lợn đã làm gãy tiệt cả cái chồi non mới nhú. Sự vụng về tệ hại ấy đã khiến đứa bé căm ghét đến tận cùng, đối với nó kẻ trước mắt này đang phá hoại hết tất cả những gì mà ông nó dày công gây dựng, chăm sóc cả đời. Rồi cả việc Trương Ba làm hỏng cái diều của cu Tị, thằng bé hàng xóm đang bị ốm nặng gần hấp hối, điều đó càng khiến cái Gái ấm ức và tức giận hơn. Con bé bỏ chạy, để lại Trương Ba thẫn thờ và ngơ ngác, thì người con dâu xuất hiện, cô vẫn kính trọng và thương cha chồng như xưa. Và hơn ai hết cô chính là người thấu hiểu tất cả những nỗi đau và bi kịch của mọi người trong gia đình này, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những sự đổi khác của Trương Ba sau khi từ cõi chết trở về, “mọi thứ cứ lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi chính con cũng không nhận ra thầy nữa,…” Những câu nói từ tận đáy lòng ấy đã thức tỉnh Trương Ba, để ông hoàn toàn chấp nhận sự thay đổi đáng sợ của mình, cũng từ đó nhìn rõ được căn nguyên của mọi bi kịch đó chính là sự tham lam sự sống, sự chắp vá gượng ép, khiên cưỡng khi mà hồn và xác chẳng có chút sự tương đồng nào cả. Từ đó hướng nhân vật đến cách tháo gỡ bi kịch, thoát khỏi cảnh đau khổ vì những sai lầm bấy lâu nay.

Trương Ba tìm Đế Thích và nói việc ông muốn rời khỏi xác hàng thịt, khẳng định rằng bản thân không thể tiếp tục cái cuộc đời bên trong một nẻo, bên ngoài một đằng nữa, “tôi muốn là tôi toàn vẹn”. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa là Trương Ba phải chấp nhận rời đi mãi mãi không còn được sống trên cuộc đời này nữa, Đế Thích thấy vậy thì thật không cam lòng, trước hết là tiếc vì mất đi một người bạn tri kỷ, thêm nữa là bao công sức để cho Trương Ba sống lại giờ trở thành vô nghĩa. Sự ích kỷ trong lòng Đế Thích khiến ông ta dùng mọi lý lẽ để khuyên giải ông bạn của mình, thế nhưng Trương Ba dường như không muốn thay đổi ý định, bởi lẽ ông đã đủ đau khổ lắm rồi và ông chỉ muốn kết thúc hết mọi bất hạnh này bằng cách đưa mọi thứ về vị trí vốn có của nó. Đúng lúc ấy tin cu Tị chết truyền đến, Đế Thích vẫn không từ bỏ việc lay chuyển quyết định của Trương Ba, bèn thuyết phục hồn Trương Ba đến trú nhờ và xác của cu Tị. Phải nói rằng đề nghị này của Đế Thích chính là một cám dỗ và thử thách dành cho Trương Ba, khiến ông phải cân nhắc đắn đo một hồi. Thế nhưng sau khi trải qua một lần bi kịch hồn một nơi, xác một nẻo Trương Ba hiểu rõ rằng dù có thay nơi trú ngụ linh hồn, thì đến cuối cùng có lẽ bi kịch lại tiếp tục xảy ra, ông lại sẽ đi vào vết xe đổ một lần nữa. Trương Ba quyết định từ chối đề nghị của Đế Thích đồng thời cầu xin ông ta cho cu Tị một cơ hội được sống lại, còn bản thân mình chấp nhận cái chết. Chi tiết truyện đã mang đến cho người đọc những nhận thức mới rằng, dường như con người Trương Ba đang dần trở lại, với một tâm hồn thánh khiết và cao thượng, không bị cám dỗ bởi những thứ dung tục tầm thường, kể cả đó có là một cuộc đời được tại thế dài hơn nữa trong thân xác cu Tị. Đoạn kết của tác phẩm là cảnh khu vườn xanh mướt có hồn Trương Ba đang chập chờn xuất hiện, khẳng định tính nhân văn của vở kịch rằng dù không còn sống trên đời nữa thế nhưng Trương Ba vẫn sống trong ký ức của mọi người với một tâm hồn cao đẹp, thánh khiết, sự chăm chỉ, khéo léo và tài chơi cờ nổi bật. Khẳng định một triết lý nhân sinh cao đẹp rằng con người chết không phải là hết, mà vẫn tiếp tục cuộc sống theo một cách khác, ấy là sống trong trái tim những người ở lại.

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm có sức hấp dẫn và sâu sắc với nhiều triết lý nhân sinh được lồng ghép. Khẳng định sự thống nhất và liên quan chặt chẽ giữa phần hồn và phần xác, hai thứ vốn phải luôn đi chung, không thể tách rời, khẳng định tất mọi sự chắp vá xiên xẹo chỉ đều đem đến sự vô lý và nhiều bi kịch. Đồng thời tác phẩm cũng cổ vũ con người luôn hướng tới việc hoàn thiện nhân cách, phẩm giá, chiến thắng những cám dỗ tệ hại, lên án lối sống trong ngoài bất nhất, không lành mạnh.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 16

Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là con trai của nhà biên kịch Lưu Quang Thuận, quê gốc Quảng Nam, sống và làm việc trên đất Bắc. Thừa hưởng truyền thống văn chương của dòng họ, Lưu Quang Vũ sáng tác khá sớm. Ở tuổi hai mươi, khi đang là một chiến sĩ của binh chủng Phòng không – Không quân, Lưu Quang Vũ đã có nhiều bài thơ trữ tình được thế hệ trẻ yêu thích. Từ năm 1978 đến năm 1988, ông là biên tập viên của tạp chí Sân khấu. Trong giai đoạn đầu tiên của thời kì đổi mới, xã hội Việt Nam có rất nhiều vấn đề nóng bỏng và bức xúc, liên quan tới quá trình phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Vốn là người quan tâm tới thời cuộc, Lưu Quang Vũ đã quyết định chuyển hẳn sang sáng tác kịch để có điều kiện bày tỏ, thể hiện những nhận thức và quan điểm của mình trước công luận. Chỉ trong vòng mười năm, hơn năm mươi vở kịch với những đề tài hết sức thời sự và thiết thực của Lưu Quang Vũ đã được dàn dựng, biểu diễn trên khắp cả nước, đem lại một sức sống mới cho sân khấu Việt Nam và tạo ra những tranh luận, đánh giá sôi nổi, thậm chí có những ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau. Người ta gọi đó là “hiện tượng Lưu Quang Vũ” vì hiện tượng này có thể nói là chưa từng xảy ra trong lịch sử sân khấu Việt Nam. Những vở kịch như: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Nếu anh không đốt lửa, Khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, Tôi và Chúng ta… đã khẳng định tài năng xuất sắc và nhiệt tình cháy bỏng cộng tình yêu thương con người, cuộc đời và trách nhiệm công dân rất cao của Lưu Quang Vũ. Ông mất đột ngột trong một tai nạn giao thông năm 1988. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và văn học nghệ thuật.

Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt vốn là một câu chuyện dân gian có từ lâu đời đã được tác giả Lưu Quang Vũ xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân văn sâu sắc. Vở kịch được công diễn nhiều lần trong và ngoài nước, được dư luận đánh giá tà một trong những vở kịch làm nên tên tuổi Lưu Quang Vũ. Nội dung vở kịch tóm tắt như sau; Trương Ba là một người làm vườn có tài chơi cờ tướng. Vì sự nhầm lẫn của Nam Tào (vị quan trên Thiên đình trông coi về việc sinh tử của con người dưới trần gian) nên Trương Ba chết oan. Để sửa sai Nam Tào cùng Đế Thích (tiên cờ) làm cho Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Mọi chuyện rắc rối xảy ra từ đây. Trương Ba bị làm phiền liên tục, bị người thân sợ hãi, xa lánh. Bản thân Trương Ba cũng, rất “khó chịu vì phải sống trong thân xác không phải của mình”. Cuối cùng ông đã quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết thực sự để giải thoát cho mình. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

Ở đoạn này, đỉnh điểm của mâu thuẫn kịch đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, giằng xé đau đớn của hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!… Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rỗi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!

Tiếp sau đó, hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn Và xác bất đầu. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ của người xem kịch. Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng ngôn ngữ để phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của hồn Trương Ba: Vở kịch, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác… Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi thường, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói. Mày không có tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm u đui mù… Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt.

Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh luận giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có những lúc tiếng nói của xác thịt đường như lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế lúng túng, bị động: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!… Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ. Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn mảnh đất cây cối, những người thân… Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông hay vịn vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ… Tôi thông cảm với những “trò chơi tâm hồn của ông”. Nghĩa là: Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện, Hà hà, miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi. Hồn Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của xác hàng thịt: Lí lẽ của anh thật ti tiện, nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: Trời!

Cả gia đình Trương Ba cũng bị cuốn vào bi kịch bởi những điều lộn xộn, tréo ngoe do hồn một đằng xác một nẻo gây ra. Vợ Trương Ba thì trách móc chồng: ông bây còn biết đến ai nữa! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế! Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người… Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà… Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh! Bà muốn bỏ nhà mà đi. Bà nói như khóc: Tôi nói thật đấy… ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ: Có thể tôi phải đi.. Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt. Để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt.. Còn hơn là thế này… Tôi biết, ông vẫn là người hết lòng thương yêu vợ con… Chỉ tại bây giờ… ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa…

Cái Gái, đứa cháu nội yêu quý của Trương Ba cũng tỏ thái độ gay gắt : Tôi không phải là cháu của ông! ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi. Khi hồn Trương Ba cố gắng thanh minh:… sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy sao: Chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế… thì cái Gái lại càng gào lên căm giận: Quý cây! Hừ, tôi phải rình lúc này, cả nhà đi vắng hết để đến nói với ông: Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! Ông mà quý cây à? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cà cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy?

Chị con dâu của Trương Ba là người hiểu ông, thương ông nhất. Lúc đầu, chị chấp nhận tình cảnh trớ trêu của cha chồng vì thân xác tuy là của anh hàng thịt thô kệch nhưng tâm hồn ông vẫn thuần hậu như xưa. Chị nói: Thầy vẫn dạy chúng con : Cái bên ngoài có quan trọng gì, chì có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể. Nhưng đến lúc này, chị cũng thấy vừa thương vừa sợ. Chị đau đớn, day dứt khi phải thật tình bộc bạch suy nghĩ của mình với cha chồng: …thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa… Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giờ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi! Chị con dâu đã nhận xét rất đúng, rất đầy đủ về tình cảnh nan giải của Trương Ba lúc này.

Lời nói của chị con dâu chứa đựng sự thực phũ phàng có tác dụng thức tỉnh hồn Trương Ba, thúc đẩy ông tới một sự lựa chọn một hành động đau xót nhưng quyết liệt. Đoạn độc thoại thể hiện sự dằn vặt khổ sở của hồn Trương Ba khi phải đối diện với chính mình, khi tự đặt ra và trả lời những câu hỏi của lương tâm: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”. Mày nói như thế hả? Nhưng có thật ta không còn cách nào khác? Không cần cái đời sống do mày mang đến. Không cần!

Để củng cố thêm quyết tâm, Trương Ba thắp nhang cầu khẩn sự giúp đỡ của vị tiên cờ Đế Thích và thổ lộ nỗi khổ tâm của mình: Ông Đế Thích ạ! Tôi không thể tiếp tục mang thân xác anh hàng thịt được nữa, không thể được.. Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Thế nhưng những lời giải thích của Đế Thích lại làm cho Trương Ba một phen bàng hoàng: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất trên trời đều thế cả nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào, thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù nào của ông đâu!

Bàng hoàng nhưng Trương Ba vẫn như đang đắm mình trong dòng suy nghĩ, dằn vặt, thoáng chút trách móc: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.

Sự giằng xé trong tâm trạng Trương Ba được tác giả vở kịch thể hiện tự nhiên, sinh động và chân thật. Muốn thoát khỏi tình huống khó xử và khó chịu như thế này, Trương Ba chỉ còn một cách là chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Ông muốn Đế Thích trả lại thân xác cho anh hàng thịt để phần hồn sẽ sống hòa thuận với thân xác anh ta, để vợ anh ta không còn phải sống trong cảnh góa chồng thật đáng thương. Trong khi, Đế Thích đang phân vân hỏi nếu làm như vậy thì hồn Trương Ba sẽ trú ở đâu, Trương Ba đã trả lời dứt khoát: Ở đâu cũng được chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ… tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất. Mâu thuẫn kịch được đẩy lên cao hơn với chi tiết cu Tị con chị Lụa hàng xóm sắp chết. Cu Tị là bạn thân của cái Gái! cháu nội ông Trương Ba. Đế Thích nhân cơ Hội này đề nghị Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị Trương Ba suy nghĩ rất nhanh, hình dung rất nhanh về hậu quả của sự việc đó để rồi từ chối, bởi những rắc rối mà ông đang phải chịu đựng đã khiến ông vô cùng khổ sở, khổ sở hơn là chết.

Thương Trương Ba con người hiền lành, đôn hậu và không muốn mất người bạn cờ tri âm tri kỉ nên Đế Thích vẫn cố gắng thuyết phục, nhưng Trương Ba khăng khăng không đổi ý: Tôi đã nghĩ kĩ.. Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn! Hành động trả lại thân xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là hành động đúng đắn, dũng cảm và hợp đạo lí. Điều đó khẳng định rằng: Một linh hồn dù tốt đẹp đến đâu nhưng phải trú ngụ trong một thể xác khác thì cũng không thể nào thấy thoải mái vì mặc cảm giả dối. Sống như thế thì không phải là sống theo đúng ý nghĩa của từ này mà chỉ là sự tồn tại đơn thuần mà thôi. Trương Ba chết nhưng tâm hồn tốt đẹp cua ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc nhớ của gia đình, bạn bè; làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự. Có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người vì sự tốt đẹp của cuộc đời. Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao thượng. Tất cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến vở kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên kịch xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 17

Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nổi tiếng với những tác phẩm có nội dung giàu tính hiện thực, có tính đả kích sâu sắc và mang đậm giá trị nhân văn. Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông phải nhắc đến đó chính là tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt. Trong tác phẩm này những vấn đề mấu chốt và tình huống truyện đều tập trung xoay quanh nhân vật Trương Ba, một con người phải sống nhờ ở đậu trong thân xác của người khác.

Trước khi đột ngột qua đời, Trương Ba là một người đàn ông hiền lành đức độ trong gia đình, ông là một hình mẫu mực thước cho tất cả các thành viên noi theo. Chính vì vậy ông rất được vợ con yêu thương, con cháu kính trọng. Ông là người không những nho nhã, thanh lịch lại rất thông minh và hiểu biết, nước cờ ông đánh họa chăng chỉ có Đế Thích mới giải vây được. Có thể thấy được đây là con người tri thức, nền nã vừa đẹp ở tâm hồn nhân cách lại có những hành vi ứng xử văn minh.

Tuy nhiên, chỉ vì một sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khi vội đi chơi mà khiến cho Trương Ba phải chết oan. Cái chết của Trương Ba đột ngột và vô lý đến nỗi khi vợ Trương Ba gặp Đế Thích để đòi lại sự công bằng Đế Thích cũng phải bối rối. Công bằng ấy được sửa chữa, vá víu bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào trong thân xác của hàng thịt. Thế nhưng đây cũng là lúc bắt đầu bi kịch của Trương Ba.

Trương Ba dần trở nên thô thiển hơn, có những hành động lỗ mãng, không còn giống với con người của ông trước kia. Ông trở nên tham ăn tục uống, ăn uống phàm phu tục tử, nói năng thì bỗ bã, thô thiển, hành vi thì lố bịch. Trương Ba đã làm những việc trước đây ông chưa từng làm: tát con trai, làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Không chỉ vậy, trong một lần vợ hàng thịt nằng nặc đòi chồng ở lại với mình, Trương Ba đã suýt chút nữa mà nghe theo.

Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho chính gia đình ông cũng không chấp nhận được, vợ Trương Ba chấp nhận bỏ đi để ông về sống với vợ hàng thịt. Cái Gái cháu ông thì không nhận ông, cô con dâu ngoan hiền hiểu chuyện nhất cuối cùng cũng trách cứ cha mình. Trương Ba đau khổ lắm. Không phải ông không biết những sự thay đổi đã diễn ra với mình chỉ là ông không thể làm được gì để thay đổi thực tại. Hoàn cảnh của ông đích thực là lực bất tòng tâm. Dù linh hồn của ông muốn nhưng thân xác không chịu nghe theo thì ông cũng không thể điều khiển được. Huống hồ việc ban ngày ở trong thân xác hàng thịt lâu dần khiến cho ông bị tha hóa, trở nên thô thiển, cục mịch, ngày càng giống với con người hàng thịt.

Trương Ba vô cùng đau khổ và day dứt về sự thật này nên đã gặp Đế Thích và trình bày nỗi lòng của bản thân. Có thể thấy ông là một người rất có nhân cách, lòng tự trọng. Ông đã thẳng thừng nói với Đế Thích chỉ quan tâm cho người ta sống còn sống thế nào thì Đế Thích không quan tâm. Những lời phê phán của Trương Ba rất gay gắt nhưng cũng vô cùng chính xác về Đế Thích và cách làm của ông. Trương Ba cuối cùng đau khổ lựa chọn cái chết còn hơn chấp nhận hoán đổi linh hồn mình vào một thể xác mới. Đây là một sự lựa chọn cao cả và thể hiện đúng tính cách con người ông. Ông không thể chấp nhận sự giả dối, hoán đổi, không thể sống mà trong một đằng ngoài một nẻo. Dù cho ông có được đổi sang một thân xác nào đi nữa thì đó cũng là thân xác đi mượn và rồi ông sẽ lại gặp rất nhiều rắc rối khi không được là chính mình. Cách lựa chọn này đã đưa Trương Ba trở về là chính ông dù điều đó đồng nghĩa với việc ông phải vĩnh viễn rời xa vợ con của mình.

Bi kịch của Trương Ba đã nói lên một vấn đề đó là sống nương nhờ trong thân xác của người khác. Con người phải sống là chính mình, nhất quán, đồng điệu giữa tâm hồn và thể xác không thể có chuyện linh hồn người này nhưng lại sống trong thân xác của người khác.

Cách lựa chọn giải quyết vấn đề cũng cho thấy được nhân cách cao đẹp trong con người Trương Ba, ông đã lựa chọn cái chết để được làm chính mình còn hơn cố gắng níu giữ sự sống trong khi mình dần bị tha hóa, biến đổi. Cuối cùng thì Trương Ba vẫn trở về là người chồng yêu thương vợ con, là người cha mẫu mực, người ông đáng kính trọng của tất cả con cháu trong nhà.

Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt – Mẫu 18

“Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi

Như tiếng gọi ngàn đời không khuất phục

Đất nước giống như con thuyền xuyên gió mạnh

Bạn đang xem: Phân tích Hồn trương ba da hàng thịt hay nhất (18 mẫu)

Những mối tình trong gió bão tìm nhau”

(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi – Lưu Quang Vũ)

Từ những năm 60 của thế kí trước, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tên tuổi của mình bằng việc sáng tác thơ ca, ngay từ đầu ông đã tạo được dấu ấn về một lối viết tài hoa, nồng nàn cảm xúc toát lên tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, mà Hoài Thanh đã từng nhận định rằng “Thơ anh là một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”. Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu chuyển sang lĩnh vực sân khấu. Có thể khẳng định “Sân khấu mới là mảnh đất của người nghệ sĩ tài ba này”…

Cảm hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp, cái thiện, cái tôi hoà tan trong cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn đề muôn thuở của nhân loại mà tiêu biểu đó là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Đó là cuộc giao tranh giữa cái thiện và cái ác, cuộc giao tranh này là muôn đời muôn kiếp từ khi khai sinh cho đến ngày không còn trái đất thì vẫn còn giao tranh thiện ác. Cho nên có người đã từng nói “kịch Lưu Quang Vũ là có tính vĩnh cửu”.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được sáng tác vào năm 1981 đến năm 1984 mới ra mắt công chúng. Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch gồm 7 cảnh được tác giả dựa trên cốt truyện dân gian. Đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nằm ở cảnh 7 của vở kịch, qua việc xây dựng xung đột giữa tâm hồn thanh cao của Trương Ba với thể xác phàm tục của anh hàng thịt đã khắc họa bi kịch tha hóa và cuộc đấu tranh gay gắt bảo vệ, hoàn thiện nhân cách của con người. Từ đó tác giả đã phê phán một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội và gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc về yêu cầu thống nhất giữa thể xác và tâm hồn.

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: ”Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!”. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận: cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.

Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân: “…tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi”.

Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”.

Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.

Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!

Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.

Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

Nhiều thập kỉ trôi qua, bạn đọc ngày nay được sống trong sự đổi mới toàn diện trong khí thế vươn lên của đất nước và của dân tộc và chúng ta vẫn sẽ còn tìm thấy những tầng ý nghĩa thú vị hàm ẩn trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Thông qua nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề thấm đẫm tư tưởng nhân văn, không chỉ có ý nghĩa nhất thời mà còn có ý nghĩa muôn đời với tất cả mọi người.

*****

Trên đây là 18 bài mẫu Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt lớp 12 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường cấp 3 Lê Hồng Phong biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button