Giáo dụcLớp 11

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù (7 Mẫu)

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù lớp 11 bao gồm 10 bài văn mẫu hay nhất được thầy cô chọn lọc từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc sẽ giúp các em có thêm nhiều gợi ý để hoàn thành bài tập làm văn của mình thêm hay, thêm sinh động.

Đề bài: Phân tích một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù
Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù

Vì sao cảnh cho chữ được xem là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?

– Cảnh cho chữ – Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có:

+ Về không gian: Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nơi ngục tù ẩm mốc, bẩn thỉu, đầy những phân chuột phân gián.

+ Về thời gian: cảnh cho chữ này diễn ra vào thời gian giữa đêm khuya thanh vắng. Đặc biệt đó là đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao bị thi hành án tử.

+ Tác phong người cho chữ và người xin chữ cũng vô cùng đặc biệt: Người cho chữ mặc dù bị cùm gông nhưng vẫn ung dung, tự tại, oai phong phóng bút với những nét bút đẹp tuyệt trần. Trong khi đó, viên quản ngục và thầy thơ lại cúi đầu đón nhận như một đặc ân từ tử tù.

+ Trật tự, kỉ cương trong nhà tù bị đảo lộn hoàn toàn: Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp.

– Ý nghĩa:

Cảnh cho chữ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, của cái thiện đối với cái ác,…

8 Bài văn mẫu Phân tích một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù lớp 11 hay nhất

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 1

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông cùng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xả hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị tri đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

Huân Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bà Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tính Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa tùng có?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyền Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 2

Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường và xây dựng các hình tượng nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm Chữ người tử tù. Đây là thiên truyện ngắn kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.

Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, cảnh tượng cho chữ được diễn ra vào cuối tác phẩm và diễn ra trong hoàn cảnh trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài qua lời kể của thầy thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù. Trong không gian đêm khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật hẹp và ẩm ướt, Huấn Cao – người tử tù “cổ đeo gông, ch”khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Tác giả Nguyễn Tuân đã vận dụng thành công thủ pháp đối lập để tái hiện thành công cảnh cho chữ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Trong hệ hình văn hóa thời trung đại, chơi chữ là một thú vui tao nhã, những nét chữ uốn lượn tung hoành còn thể hiện rõ phẩm chất, tài năng của bậc quân tử, đấng anh hùng. Bởi vậy, thú vui này thường gắn liền với những bối cảnh thanh tao như chốn viện sảnh, thư phòng, trà thất. Tuy nhiên, cảnh tượng cho chữ diễn ra trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” lại được khắc họa trong một bối cảnh hoàn toàn đối lập. Đó là buồng giam chật hẹp nơi tỉnh Sơn với sự tăm tối, chật hẹp, ẩm ướt, “tường đầy mạng nhện”, “đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian diễn ra cảnh cho chữ trong đêm khuya trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường đã tô đậm hơn nữa bối cảnh độc đáo của cảnh tượng này.

Không chỉ đặc biệt ở bối cảnh không gian và thời gian, cảnh cho chữ còn là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự đảo lộn vị thế giữa người cho chữ và người nhận chữ. Huấn Cao – người cho chữ vốn là kẻ tử tù “đường bệ ung dung” phác họa những nét chữ thể hiện hoài bão, lí tưởng, còn viên quản ngục- người nhận chữ là đại diện cho quyền lực lại “khúm núm sợ sệt”. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối quan hệ xã hội giữa người tử tù và quản ngục, thơ lại, mà chỉ còn người nghệ sĩ tài hoa đang tạo ra cái đẹp – những nét chữ uốn lượn trước đôi mắt và sự kính phục của những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu cái đẹp. Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn trên tấm lụa trắng hương thơm của thoi mực đã chiến thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt chốn ngục tù tăm tối. Người tử tù vươn lên làm chủ, còn những người vốn có quyền uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng “Ngài”, “xin bãi lĩnh”, “xin lĩnh ý” đầy tôn kính và thái độ nhún nhường, khép nép cùng hành động cúi đầu, vái lạy trước tù nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục tù đã trở thành nơi tri ngộ, gặp gỡ của những con người yêu và say mê cái đẹp. Không chỉ dừng lại ở đó, cảnh tượng cho chữ còn thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên của Huấn Cao đã thể hiện quan điểm thẩm mỹ và thái độ của ông về nghệ thuật và cuộc sống con người.

Thông qua việc tái hiện cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”, tác giả Nguyễn Tuân đã gửi gắm những ý niệm ẩn dụ về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật. Trước hết, sự thay đổi vị thế giữa các nhân vật đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước những điều tầm thường, sự xấu xa, độc ác. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp của nhân vật đã được khắc họa rõ nét hơn. Hình tượng nhân vật Huấn Cao đã hiện lên chân thực, sinh động với phẩm chất, tài năng, khí phách hiên ngang, phi thường; còn bức chân dung viên quản ngục – “thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” được tô đậm hơn nữa ở tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và hướng về cái đẹp. Đặc biệt, lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục còn thể hiện quan điểm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân: “cái đẹp gắn liền với cái thiện”, sự thiên lương, trong sáng không thể tồn tại trong môi trường của cái xấu, cái ác.

Như vậy, bằng bút pháp lãng mạn, tác giả Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công cảnh cho chữ diễn ra chốn ngục tù để thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đoạn văn còn thể hiện tài năng của nhà văn trong việc vận dụng thủ pháp tương phản, đối lập kết hợp ngôn ngữ giàu chất tạo hình, điêu luyện để tạo nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” về sự chiến thắng của cái đẹp.

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 3

Nếu Xuân Diệu cả đời đi tìm một tình yêu đúng nghĩa thì Nguyễn Tuân lại dành cả đời mình để đi tìm cái đẹp. Ông tìm cái đẹp trong chính nét văn hoá cổ truyền của dân tộc: đó là chữ viết thư pháp. Tập truyện “Vang bóng một thời” đã thể hiện những hoài niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp ấy. Đặc biệt, trong tác phẩm “Chữ người tử tù” cái giá trị nghệ thuật cao quý truyền thống lại càng được tôn vinh và trân trọng. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Bật lên trong truyện là một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có”, thể hiện những giá trị lớn lao của tác phẩm: cảnh cho chữ.

Huấn Cao là một nguời tài hoa có tài viết chữ đẹp nhưng dám nổi dậy chống lại triều đình nên bị xem là một tên nghịch thần, bị bắt và bị kết án tử. Viên quản ngục vốn là một người say mê chữ đẹp. Hai con người gặp nhau trong một hoàn cảnh hết sức ngang trái: một bên là tử tù và một bên là quản ngục. Vốn hâm mộ tài viết chữ của Huấn Cao, Viên quản ngục đã tâm sự với thầy thơ lại và cùng thầy đến nhà giam bày tỏ nỗi lòng và xin Huấn Cao cho chữ. Huấn Cao vô cùng cảm mến tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và thái độ chân thành của Viên quản ngục nên đã đồng ý cho chữ.

Hoàn cảnh cho chữ được tác giả miêu tả một cách thật đặc biệt: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đó là một đêm khuya vắng lặng chỉ có “tiếng mõ vọng canh”. Quang cảnh nhà tù, buồng giam dưới ngòi bút của nhà văn thật ảm đạm và nhơ bẩn. Không dừng lại ở đó, không gian ấy còn bị thu hẹp dần trở nên thật bé nhỏ, tù túng, chật hẹp. “Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên lân hồ. Khói bốc toả cay mắt”. Nhà tù lạnh lẽo, ẩm thấp bỗng dưng được sưởi ấm bằng “ánh sáng đỏ rực” của bó đuốc tẩm dầu. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để tạo ấn tượng về hoàn cảnh cho chữ. Nguyễn Tuân thật không hổ danh là một người nghệ sĩ tài hoa có con mắt tinh đời và tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy.

Cảnh cho chữ diễn ra thật đẹp, chính lúc này, tài hoa mới thực sự toả sáng. “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván”. Hình ảnh Huấn Cao hiện lên sao mà sắc sảo, tinh tế đến vậy? Người nghệ sĩ tài hoa không phải ở trong tư thế tự do mà phải mang vác nào gông, nào xiềng và đội cả án tử trên đầu. Một con người ngang tàng tung hoành trong xã hội dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn say mê sáng tạo cái đẹp, bất kể ngày mai, khi trời sáng, cái chết đã cận kề. Huấn Cao dường như không phải đang viết mà là đang vẽ chữ, ông “dậm tô nét chữ” một cách ung dung, đĩnh đạc, không màng tất cả.

Thông thường, sáng tạo nghệ thuật là một việc thanh cao cần được diễn ra ở những nơi trang trọng, thiêng liêng; nhưng không, lúc này đây, Huấn Cao lại đang viết chữ, cho chữ trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, nhơ nhớp. Thủ pháp tương phản lại một lần nữa được Nguyễn Tuân sử dụng một cách tài tình. Một bên là tử tù uy nghi, lồng lộng, một bên là quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”. Những con người mâu thuẫn về giai cấp, lý tưởng lại bỗng dưng trở thành tri âm tri kỉ về tinh thần. Họ chụm đầu lại, cùng nhau say sưa sáng tạo cái đẹp và thưởng thức cái đẹp.

Dường như giữa chốn ngục tù đầy rẫy những bạo tàn, bất công, phép tắc, kỉ cương đã bị đảo lộn, thế chủ động không còn nằm trong tay những kẻ uy quyền thống trị mà thuộc về người tử tù. Chính lúc này đây, cái đẹp đã thực sự toả ánh hào quang rực rỡ làm bừng sáng cả không gian. Thiên lương đang lấn dần, đẩy lùi bóng tối, vươn lên làm kim chỉ nam soi sáng cho những con người lầm đường, lạc bước. Huấn Cao từ tốn, chân thành: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người….Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái ghế này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.

Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Huấn Cao đã không còn giữ khoảng cách với Viên quản ngục, đã thực sự xem Viên quản ngục là tri âm tri kỉ nên mới có những lời khuyên dốc từ tận đáy lòng đến vậy. Không chỉ quan tâm, trân trọng thú chơi chữ thanh cao của Viên quản ngục mà Huấn Cao còn chú ý đến cả lọ mực mà Viên quản ngục đem đến. “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”. Câu nói nhẹ nhàng mà đầy tinh tế làm cái đẹp không chỉ có sắc mà còn có hương thơm ngát. Trong cái buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, nhơ nhớp dường như chỉ còn lại mùi mực thơm tho – mùi của thiên lương trong sáng. Vẻ đẹp nhân cách của nhân vật Huấn Cao nói chung và lúc cho chữ nói riêng bỗng trở nên chói sáng, rực rỡ nhất trong cái đêm đen tối tăm, không lối thoát của xã hội.

Cảnh cho chữ đã khẳng định chiến thắng thuyết phục hoàn toàn của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái xấu, cái cao thượng với cái tầm thường, của cái cao quý, thanh khiết với sự nhơ nhớp, bẩn thỉu, của cái thiện với cái ác. Đây thực sự là một bức tranh nghệ thuật sắc sảo nhằm tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhất là nhân cách cao cả của con người. Đúng như Dostoevsky từng phát biểu: “Cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người”. Thông qua cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân còn thể hiện được tinh thần dân tộc, qua đó ý nhị bộc lộ một nỗi niềm yêu nước thầm kín. Tác giả như đau đớn cất lên khúc vãn ca cho một nét đẹp văn hoá truyền thống từng “Vang bóng một thời” bỗng lụi tàn bởi thời cuộc, bởi sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của một đại bộ phận người trong xã hội.

Cái “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Nguyễn Tuân vung tay múa chữ rất điệu nghệ. Ông thoả sức thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình một cách sắc sảo, tuyệt đỉnh. Những lớp ngôn từ dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật đa dạng, phong phú tạo nên nét cổ kính, trang trọng cần và đủ, vừa sống động, vừa tinh tế. Mỗi con chữ đảm nhiệm một sức nặng riêng, có nhịp điệu riêng và giàu tính tạo hình, gợi cảm. Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản, đối lập. Bút pháp tả thực của tác giả cũng đạt đến một đỉnh cao nhất định. Cảnh cho chữ được tác giả miêu tả vừa ảm đạm, vừa hùng hồn khiến cả ba con người xuất hiện ở đó: Huấn Cao, Viên quản ngục, thầy thơ lại bỗng trở thành những hình tượng độc đáo, nổi bật.

Tóm lại, cảnh cho chữ đã làm bật nồi được chủ đề của toàn bộ tác phẩm, khẳng định chân lý “cái đẹp cứu rỗi nhân loại” (Dostoevsky) và tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của tác giả. Bên cạnh đó, “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” còn cho thấy tài năng văn chương kiệt xuất của Nguyễn Tuân – một nhà văn có phong cách rất độc đáo, tài hoa và uyên bác. Đoạn văn thể hiện được vốn hiểu biết phong phú của ông về nét đẹp thư pháp – một nét đẹp văn hoá truyền thống dân tộc cần đựợc gìn giữ và duy trì.

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có hay nhất
Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có hay nhất

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 4

Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam với phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo. Ông luôn tiếp nhận đời sống theo phương diện văn hóa thẩm mĩ và khám phá con người dưới góc độ tài hoa nghệ sĩ. Bằng phong cách nghệ thuật ấy, truyện ngắn Chữ người tử tù đã trở thành một trong những đóa hoa tươi thắm nhất trên hành trình “đi tìm kiếm cái đẹp” của ông. Trong đó cảnh cho chữ trong nhà giam là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này. Đây có thể coi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Bừng sáng trong thiên truyện ngắn là sự hội tụ của ba vẻ đẹp: tài hoa nghệ sĩ, khí phách kiên cường và thiên lương trong sáng. Ba vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau thăng hoa trong cảm hứng lãng mạn dễ đạt tới sự phi thường, phi thường của những tấm lòng trong thiên hạ. Có ai đó từng nói đại ý rằng: tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh. Bức tranh trong Chữ người tử tù cũng được tô vẽ đậm nét hơn bởi tình huống truyện độc đáo, Đó là cuộc gặp gỡ giữa những con người, cuộc gặp gỡ ấy dường như không bình thường như bao cuộc gặp gỡ mà ta thường thấy, đây có thể nói là một cuộc hội ngộ.

Huấn Cao là một nhân cách vô cùng đáng kính trọng với tài năng phi thường, khí phách, hiên ngang thiên lương trong sáng. Ông Huấn đã dám hi sinh, từ bỏ cả sự nghiệp của mình để chống lại triều đình nhà Nguyễn. Cơ sự không thành, ông bị kết tội đại hình và giam vào đề lao. Đây chính là ngọn lửa khởi đầu cho cuộc gặp gỡ với quản ngục – một người đam mê và khao khát cái đẹp. Ở đây, tình huống truyện là xung đột lên đến đỉnh điểm khi người quản ngục muốn xin chữ mà Huấn Cao đồng ý. Người đọc luôn đặt ra câu hỏi: Liệu đến khi từ giã cõi đời, Huấn Cao có hiểu hết được tấm lòng của quản ngục? Liệu quản ngục có xin được chữ của ông Huấn? Bao nhiêu thắc mắc, cao trào, đỉnh điểm đều được Nguyễn Tuân cởi nút qua cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ ấy không phải chỉ có ý nghĩa với quản ngục, thầy thơ lại, Huấn Cao mà quan trọng hơn cả, nó đưa tác phẩm lên một tầm cao mới. Cũng chính bởi cái “độc và lạ” trong cách viết mà Nguyễn Tuân đã xây dựng cảnh cho chữ là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Cảnh cho chữ nằm ở cuối tác phẩm có ý nghĩa cởi nút, giải tỏa những băn khoăn nơi người đọc, từ đó làm toát lên những ý nghĩa lớn lao của tác phẩm. Xưa kia cảnh cho chữ luôn diễn ra ở nơi mang tính nghệ thuật, đó phải là thư phòng ấm áp, ánh đèn rực sáng. Ở những nơi như thế, tài năng của con người như được chiếu sáng. Thế nhưng, cảnh cho chữ ở đây diễn ra trong một không gian phi nghệ thuật. Thật kì lạ khi không gian ấy chính là để láo, nơi ẩm thấp, tăm tối, mạng nhện chăng bốn bức tường, dưới nền đầy phân chuột, phân gián, bút pháp tương phản, Nguyễn Tuân không chỉ cho ta thấy được cái lạ của “cảnh cho chữ” với không gian, thời gian mà ông còn chớp được bao sự mới lạ khác.

Huấn Cao – người nghệ sĩ đang tạo ra cái đẹp – không được tự do về thể xác. Hình ảnh người tù, cổ đeo gông, chân tay đầy xiềng xích vẫn đang vẽ lên tấm lụa bạch những nét chữ cuối cùng trước khi từ giã cõi đời. Tuy không được tự do về thể xác như bao người nghệ sĩ khác mà ta thường thấy, nhưng cảm hứng cái đẹp ở Huấn Cao đang được tỏa sáng, bay xa, đón lấy tinh túy ở tâm hồn nghệ sĩ và đưa vào những dòng chữ cuối cùng. Đến đây, Nguyễn Tuân dường như giúp cho bạn đọc hiểu về một chân lí trong nghệ thuật, đặc biệt là người sáng tạo ra nghệ thuật. Người nghệ sĩ có thể bị trói buộc về thể xác nhưng tâm hôn và “chất nghệ thuật” ở họ không gì có thể trói buộc được.

Để khắc họa rõ nét về cái “chưa từng có” trong cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân còn chớp lấy được bao cảnh tinh tế về những con người cùng chụm lại vào tấm lụa bạch. Người quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền đánh dấu ô chữ trên tấm lụa bạch”. Trong khi ấy, người tử tù là ông Huấn Cao lại oai phong lẫm liệt viết lên tấm lụa bạch dòng chữ cuối cùng. Dường như có sự hoán đổi vị trí ở đây. Người ta thường nghĩ đến người tử tù khúm núm, sợ sệt trước quản ngục đầy quyền lực.

Nhưng, Nguyễn Tuân đã xây dựng theo một cách độc đáo, mới mẻ đúng như phong cách nghệ thuật của ông vậy. Tác giả cũng chớp lấy được cái vái lạy cùng những giọt nước mắt khâm phục đối với Huân Cao của quản ngục ở cuối thiên truyện, có những cái cúi lạy làm người ta trở nên hèn yếu, nhưng cái cúi lạy của người quản ngục lại trở nên đẹp như sự cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai. Chi tiết “dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào” là một chi tiết rất đắt giá. Dòng nước mắt là hình tượng nghệ thuật gợi sự tương tác đa chiều giữa con người với con người và con người với nghệ thuật. Đó là giọt nước mắt trước cái đẹp, dành cho cái đẹp nâng niu, trân trọng và đề cao giá trị của cái đẹp. Đó cũng là giọt nước mắt ân hận của viên quản ngục bởi ông đã có thời gian gắn bó với chốn tù lao tăm tối, nơi chứa đầy tội ác, bóng tối và tử thần. Và đó còn là giọt nước mắt của tấm lòng tri ân đối với Huấn Cao.

Viên quản ngục và Huấn Cao, hai con người thuộc về hai tầng lớp, hai thế giới khác nhau, tưởng chừng không thể dung hòa, nay đã trở thành tri kỉ. Khoảng cách xã hội được xóa nhòa khi cái đẹp và nghệ thuật tỏa sáng, khi bên trong nó thực sự là những trái tim lương thiện và yêu thương. Ở đây, sức mạnh của chân – thiện – mĩ đã cảm hóa được con người!

Cắt lát những tấc phim của “cảnh cho chữ”, bạn đọc đều thấy được cái lạ, cái chưa từng có trong khung cảnh này. Cùng với những điều mới lại khác với xưa nay ấy, Nguyễn Tuân còn xây dựng nên một Huấn Cao với khí phách hiên ngang – người tử tù sắp từ giã cõi đời nhưng không hề lo sợ cái chết, cũng chẳng hề nghĩ tới cái chết. Mà ngược lại, ông Huấn vẫn lo gìn giữ thiên lương cho người còn sống. Huấn Cao khuyên quản ngục từ bỏ cái nghề này để giữ thiên lương cho bền vững. Huấn Cao không chỉ gieo hạt giống vào cánh đồng thiên lương mà còn biết cứu vớt cái đẹp, đặt nó đúng vào vị trí của riêng mình: cái đẹp phải gắn với thiên lương trong sáng. Bằng tất cả những lát ảnh trên; thước phim về cảnh cho chữ đã trở thành một thành công của Nguyễn Tuân, nó xứng đáng được coi “cái độc và lạ” trong ngòi bút của ông.

Đọc xong “cảnh cho chữ”, thấu hiểu về nó, trong lòng người đọc dâng lên một cảm xúc khó tả về giá trị của nó. “Cảnh cho chữ” chẳng những cổ giá trị về nghệ thuật – là tình huống cởi nút cho tác phẩm mà nó còn hàm chứa bao ý nghĩa sâu sắc. Cảnh cho chữ không phải là sự trả ơn của Huấn Cao đối với những bữa tiệc rượu hậu hĩnh của quản ngục. Đó cũng không phải là sự phô diễn tài năng của ông Huân trước khi từ giã cõi đời. Điều Nguyễn Tuân muốn hướng tới ở cảnh cho chữ đó chính là cuộc hội ngộ giữa tấm lòng trong thiên hạ, là tấc lòng của người tri âm đối với người tri kỉ. Cùng với điều đó, “cảnh cho chữ” dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng cho ta thấy rằng: trong bất kì hoàn cảnh nào, cái đẹp vẫn đăng quang và chiến thắng. Ngọn đèn soi sáng tấm lụa bạch như đánh tan đi cái u tối, hôi hám và tăm tối trong đề lao và chính điều đó làm bừng sáng lên vẻ đẹp của ba tấm lòng trong cuộc hội ngộ.

Nếu như Huấn Cao bừng sáng lên với vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, lẫm liệt thì quản ngục, thầy thơ lại lại đẹp bởi vẻ đẹp của kẻ liên tài: họ cúi đầu, khâm phục trước nét chữ của Huấn Cao. Ba con người – ba người tài hoa nghệ sĩ – đều bừng sáng lên một vẻ đẹp khác thường trong cảm hứng lãng mạn thăng hoa. Nguyễn Tuân đã kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh: ba người chụm đầu lại vào ngau cùng nhìn vào tấm lụa bạch. Đó là hình ảnh đẹp nhất, viên mãn nhất của cuộc hội ngộ giữa những tấm lòng trong thiên hạ.

“Cảnh cho chữ” cho chúng ta thấy được quan niệm về cái đẹp ở Nguyễn Tuân. Cái đẹp phải gắn với thiên lương trong sáng, gắn với tấm lòng thiện. Hãy tưởng tượng, nếu như Huấn Cao chỉ dừng lại ở tài hoa nghệ sĩ, khí phách hiên ngang, hẳn người đọc sẽ kính trọng nhưng chưa chắc đã yêu quý. Thế nhưng, cái tài hoa, khí phách ấy được Nguyễn Tuân gắn liền với thiên lương trong sáng làm cho bức chân dung càng trở nên hoàn mĩ. Hơn nữa, người đọc thấy được trong bất kì hoàn cảnh nào cái đẹp cũng đăng quang, tỏa sáng vượt qua mọi trở ngại. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp còn phải cứu vớt sự sống, làm cho người gần người hơn, là nơi hội tụ của bao tấm lòng cho dù họ có khác nhau về hoàn cảnh.

Bằng bút pháp nghệ thuật tương phản, ngôn ngữ giàu hình ảnh và những chi tiết hàm xúc, Nguyễn Tuân đã truyền cảm hứng tới bạn đọc bằng “cảnh cho chữ” – cởi nút của câu chuyện, để cảnh tượng này còn mãi với thời gian, vang vọng trong lòng bạn đọc, đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. “Cảnh cho chữ” mãi là nốt nhạc âm vang nhất trong bản nhạc Chữ người tử tù của đời văn Nguyễn Tuân.

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 5

Nhà văn Nguyễn Tuân sinh năm 1910 và mất năm 1987. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho khi Hán học trên đà suy tàn. Quê gốc ở Thanh Xuân, Hà Nội. Tuy nhiên, thủa thiếu thời gia đình gặp nhiều khó khăn nên ông phải di cư tới nhiều tình thành khác nhau, và ông lưu lại sống lâu nhất ở Thanh Hóa.

Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan nên nhà văn văn sớm ý thức được về lòng yêu đất nước, quê hương. Khi đang là học sinh năm cuối của bậc Thành chung ở Nam Định, ông bị đi tù vì tham gia bãi khóa phản đối giáo viên Pháp nói xấu người Việt. Sau khi ra tù, ông bắt đầu bén duyên với nghiệp viết lách. Nhà văn Nguyễn Tuân bắt đầu sáng tác từ những năm 1935. Nhưng đến năm 1938 độc giả mới biết đến tên tuổi của ông qua những tác phẩm như Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua, … Qua những tác phẩm của ông, người đọc nhận ra sở trường của ông là tùy bút và bút ký. Ông cũng nổi danh là một trong những bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng ngôn từ tiếng Việt.

Nhà văn Nguyễn Tuân có phong cách văn chương vô cùng độc đáo và mới lạ, được chia thành hai giai đoạn. Trước Cách mạng tháng 8, người ta biết tới phong cách sáng tác của ông được gói gọn trong một chữ “ngông”. Với những chủ đề xoay quanh việc “xê dịch”, về cái đẹp truyền thống đang bị mai một, những thói hư tật xấu trong xã hội cũ. Nhưng sau Cách mạng, văn chương ông đã có nhiều biến chuyển mạnh mẽ. Hầu hết các tác phẩm đều mang giá trị nghệ thuật cao, với chủ đề về quê hương đất nước, về cuộc sống của nhân dân lao động trong sản xuất và chiến đấu.

Qua những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân, độc giả biết được ông là một người vô cùng yêu cái đẹp và luôn kỳ công đi tìm kiếm nó. Những tác phẩm của ông gắn liền với những nhân vật độc đáo và những tình huống truyện diễn ra có 1-0-2. Điển hình như cảnh cho chữ trong ngục tối của người tử tù.

Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, có thể nói cảnh cho chữ chính là hình ảnh trung tâm của mọi giá trị nghệ thuật. Cảnh tượng này không chỉ khắc họa chân dung hiên ngang, bất khuất của người tử tù mà nó còn bộc lộ được tư tưởng nhân văn sâu sắc của tác giả. Và đó cảnh cho chữ đó quả là cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Cảnh cho chữ diễn ra trong một hoàn cảnh vô cùng kỳ lạ. Từ người cho chữ cho đến người nhận chữ. Đầu tiên là nhân vật cho chữ, là một tử tù tên Huấn Cao. Ông được dân chúng biết đến là một con người có tâm hồn phóng khoáng. Ông thích sự tự do, và vô cùng căm ghét những kẻ chà đạp, nhũng nhiễu nhân dân. Vì muốn bảo vệ cuộc sống của người dân nghèo, ông đã đứng lên theo quân khởi nghĩa để chống lại triều đình. Ông là người văn võ song toàn, có tài bẻ khóa, có tài thao lược khiến những tên lính giải tù cũng phải khiếp sợ. Đặc biệt, ông còn được nhiều người biết đến là một người nghệ sĩ viết thư pháp tài hoa, yêu cái đẹp và luôn giữ gìn sự thiện lương trong sáng của tâm hồn. Ông có tài viết chữ nhưng ông cũng có quy tắc riêng về việc cho chữ. Ông hiểu chữ mình đẹp, hiểu được giá trị của chữ mình rất quý nên ông chỉ dành tặng những người ông tôn kính, quý mến. Ông không giờ chịu cho chữ vì tiền bạc hay quyền lực. “Trong đó, tôi nhận thấy tên đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”; “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”…

Trong khi đó, người nhận chữ là viên quản ngục. Những người làm nghề này thường là những kẻ bất lương, cũng vô cùng thâm độc và nham hiểm. Thế nhưng, viên quản ngục ở đây lại khác. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”.

Viên quản ngục thực là một người lương thiện. Ông cũng là một con người yêu cái đẹp và biết quý trọng người hiền tài. Nghe tin Huấn Cao là tử tù, ông cảm thấy tiếc cho một con người tài hoa. Đặc biệt ông khát khao xin được chữ của Huấn Coa về treo trong nhà. Nếu không xin được, ông sẽ ân hận suốt đời. “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”.

Mới đầu, Huấn Cao không biết nỗi lòng của viên quản ngục nên tỏ ra khinh miệt. Nhưng sau khi biết được tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục, Huấn Cao đã nhận lời cho chữ và cảnh tượng xưa nay hiếm ấy đã diễn ra ở trong ngục tối, giữa một người chức cao vọng trọng phải cúi người trước một tử tù hiên ngang, ngông nghênh bất khuất.

Phân tích cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, chúng ta biết được cảnh này xảy ra trong thời gian hết sức đặc biệt. Đó là vào giữa đêm khuy, nhưng cũng là đêm cuối cùng trên cõi đời của một con người tài hoa. Bởi ngày mai thôi, là tử tù Huấn Cao phải lên kinh chịu án tử hình. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vắng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc toả cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực”.

Cảnh cho chữ rất thiêng liêng ấy đã diễn ra trong cảnh thâm u, hôi hám của ngục tối, xung quanh là phân dán, chuột với nền đất ẩm thấp. Với người cho chữ là một tử tù phạm tội rất oaiphong, lẫm liệt trong tư thế ban ơn huệ cuối cùng của mình, còn kẻ xin chữ lại là người có quyền lực nhưng cúi mình mang ơn. Từ hoàn cảnh dẫn đến diễn biến cảnh cho chữ là một quá trình tự nhiên, đúng tâm lý của những con người lương thiện và yêu cái đẹp. Qua đây, độc giả cảm nhận được tình yêu cái đẹp, cái ý thức thiện lương trong sáng thanh cao của chính nhà văn Nguyễn Tuân.

Sở dĩ, cảnh cho chữ được coi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, là bởi thông thường, cảnh cho chữ, hay sáng tác nghệ thuật, người ta sẽ thực hiện ở nơi không gian thoáng đãng, sang trọng, trang nghiêm hay ít ra cũng là nơi sạch sẽ, như thư phòng hay sân vườn. Thế nhưng ở đây, cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị, nơi chứa đựng những phạm nhân cặn bã, nơi được coi là đáy của xã hội.

Nếu như, thông thường, nghệ sĩ sáng tác nghệ thuật phải trong một tâm lý, tâm trạng thoải mái, thư thái. Thế nhưng lúc này, Huấn Cao lại cho chữ trong khi tay chân phải mang xiềng xích, cùm gông và nhận án tử hình vào ngày hôm sau. Rồi người nhận chữ đáng ra phải là người tác oai tác qoái, lộng hành, bắt buộc người tử tù phải cho chữ nhưng ngược lại, người nhận chữ lại khúm núm, kính trọng cúi đầu trước người cho chữ.

Qua cảnh tượng cho chữ xưa nay hiếm đó, nhà văn muốn ca ngợi tấm lòng lương thiện của nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục. Đồng thời, Nguyễn Tuân còn ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi tăm tối nhất. Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người của nhân vật tử tù Huấn Cao đẻ rồi từ đó bộc lộ quan điểm thẩm mĩ của chính tác giả Nguyễn Tuân.

Phân tích cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, một lần nữa, chúng ta khẳng định lại vẻ đẹp của cảnh cho chữ. Đồng thời mang ý nghĩa đồng tình và thể hiện sự coi trọng, nâng niu cái đẹp mà cụ thể là cái chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Qua đây, chúng ta cũng biết được quan niệm về nghệ thuật của tác giả. Đó là sáng tác nghệ thuật cần phải đi liền với cái tâm, đạo đức. Không phải sáng tác bừa bãi, sáng tác vì lợi danh.

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 6

“Chữ người tử tù” là ánh sáng lung linh nhất, ngời chói nhất, đa màu sắc nhất để tô điểm cho tuyệt tác “Vang bóng một thời”.

“Chữ người tử tù” đã thể hiện một bút pháp thật sắc sảo với từng câu văn, nét chữ như chất chứa cả đai dương ý nghĩa cuồn cuộn dâng trào của nhà văn Nguyên Tuân.

“Chữ người tử tù” thật sự đi vào lòng người khi Nguyễn Tuân đã biết tạo dựng một nhân vật điển hình. Đặc biệt là ông đã tạo dựng cảnh Huấn Cao cho chữ “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Nguyên do thật đơn giản, đó là các bậc nho sĩ ngày xưa “tao nhân mặc khách”, “bụng đựng đầy chữ thánh hiền” khi viết chữ hoặc cho chữ phải ở những nơi trăng thanh gió mát, hoa hương ngào ngạt, ly rượu nồng nàn chếnh choáng hơi men… Có như thế thì viết chữ mới hay, cho chữ mới đáng được thưởng thức và mới đạt đến trình độ thẩm mỹ tuyệt vời. Nhưng ở đây Huấn Cao cho chữ quản ngục lại vào một phòng giam tối mịt “tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

“Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ấy đã diễn ra vào đêm hôm khuya khoắt, ngay tại nhà tù. Cảnh đêm buông xuống không gian bốn bề chỉ còn văng vẳng tiếng mõ trên vọng canh. Ngoài nhà tù đã tối thì bước chân vào nhà tù kín mít hẳn phải “sẫm đen hơn nữa”.

Theo viên quản ngục và thầy thơ lại vào phòng gian có một bó đuốc sáng rực lan tỏa khắp bốn bề. Và không khí lúc đó mới “tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực” , rồi “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyên Tuân lại nhắc đến bó đuốc “sáng rực” đó đến hai lần, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật cũng như Bác Hồ viết “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng” vậy.

Chính bởi vì thế mà sự đối lập giữaánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của mẹ con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sau xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương.

Bản hùng ca chữ tâm đó sẽ ngời tỏ và sáng lạn hơn nữa khi nó đi liền với cái tài hoa, cái đẹp lại làm mờ nhạt đi sự nhơ bẩn, sự phàm tục.

Ở đây, sự nhơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Một cái buồng giam thật kinh sợ chẳng khác gì chi một chuồng trâu của nhà nông! Phân gián, mạng nhện, tổ rệp lại cộng thêm ẩm ướt, chật hẹp thì đẩy sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Sự nhem nhuốc, sự phàm tục này tưởng chừng như mãi mãi tồn tại. Song với sự xuất hiện của phiếm lụa, của lọ mực đã xua tan đi mùi ô uế. Phiến lụa, mùi mực là biểu tượng cái đẹp, cái thơm tho. Cho nên, phân gián, phân chuột cùng với không khí chật hẹp, nền nhà ẩm ướt dần dần mất đi, bởi “cái đẹp là địa hạt của sự sống”, “cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”, cái đẹp là mục đích mà con người ta muốn vươn lên. Màu trắng của phiến lụa là tâm hồn cao khiết của con người; mùi thơm của lọ mực là mùi thơm của tình người, tình đời. Màu trắng ấy, mùi thơm ấy hội tụ lại thành biểu tượng của cái đẹp, cái thiên lương.

Trong cảnh cho chữ này người ta để ý nhiều tới người tù Huấn Cao “chọc trời, quấy nước”, nay đã sa cơ, lỡ vận. Nhưng không thể không để ý tới viên quản ngục và thầy thơ lại, đó là hai con người mới “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” biết coi trọng cái đức, mến mộ cái tài, nhất là tài viết chữ của Huấn Cao. Quản ngục và thầy thơ lại có thể coi đó là tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân đang sùng kính cái đẹp, đang khát khao cái đẹp. Huấn Cao, quản ngục, thầy thơ lại là ba điểm sáng tạc nên một tượng đài, trong đó Huấn Cao là trung tâm: “ba cái đầu người đang chăm chú nhìn trên tấm lụa bạch”. Ba con người có ba địa vị xã hội khác nhau, giờ đây họ đang muốn điểm màu, tô son cho cái đẹp lên ngôi thay thế sự phàm tục, nhơ nhuốc bẩn thỉu.

Cái đẹp, cái cao thượng và sự phàm tục, nhơ nhuốc, hai cái đó đối lập nhau trong một hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đã cùng thủ thỉ ném cùng một lúc hai cái đó vào nhà giam tạo ra sự mâu thuẫn cực độ. Từ đó làm bật lên bản chất cái đẹp, cái cao thượng. Nhất là Huấn Cao chỉ ngày mai thôi sẽ bị giải về kinh, rồi phải bước lên đoạn đầu đài, nhưng ông vẫn ung dung lắm, vẫn nghệ sĩ lắm. Ông nhận xét về mùi hương của thoi mực đúng là của một con người “bần tiện bất năng duy, uy vũ bất năng khuất”: “Thoi mực thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm của lọ mực bốc lên không?”… Ôi cái mùi thơm của thoi mực ấy nó ngào ngạt lan tỏa như “Dạ lan thơm nức lạ lùng – Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương”. Đó là mùi thơm danh tiếng của Huấn Cao vẫn còn ngào ngạt đến muôn đời. Nhà tù ở đây đã không còn là nhà tù nữa mà nó đã trở thành nơi chứa đựng mùi thơm tho của thiên lương con người.

Trước cái đẹp đang lên ngôi thì Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đập đập tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng”, đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Cái chết đang tiến lại gần, nhưng người tù Huấn Cao vẫn nói về sự sống, hướng về cái đẹp, cái thiện của đời. Do đó nhà tù chỉ còn là để cho Huấn Cao thể hiện thêm khí phách của một người anh hùng mà thôi. Cũng chính vì thế mà người tù ở đây đã hóa thành chủ, còn bọn quản lý nhà ngục lại hóa ra tôi tớ trung thành của người tù. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Những chi tiết đó, những hình ảnh đó tưởng chừng như không có trong nhà tù, nhưng thực ra nó lại diễn ra theo lô gic đích thực của những người biết tôn thờ, biết kính trọng cái đẹp “hàng hàng gấm thêu”, “lời lời châu ngọc”, cái phí phách “chọc trời, quấy nước” cái bản chất thiên lương mà Huấn Cao đã đem lại.

Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Cái đẹp, cái thiên lương bỗng nhiên trở nên thiêng liêng tuyệt đối, bởi “cái đẹp cảu tâm hồn mới làm cho con người ta kính trọng”. Chính vì vậy, mọi thứ nhem nhuốc, đen tối, cường quyền đã hóa thành những thứ bủn xỉn, chập choạng rơi xuống bùn sâu.

Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương cảu con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Cái hoài bão tung hoành của một đời con người: “chọc trời, khuấy nước”, “Năm năm hùng bá một phương Hải Tần”, “Trong hang tối mắt thần khi đã quắc – Là khiến cho mọi vật đều im hơi” của Huấn Cao với tấm lụa trắng trẻo, nét chữ tươi tắn, vuông vắn thì chốn ngục tù bẩn thỉu này làm sao xứng đáng để treo một đôi câu đối về bản chất thiên lương của con người quý như báu vật ấy. Và hơn nữa, Huấn Cao cũng khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đúng là câu nói của một con người có văn hóa và biết tôn sùng cái đẹp. Cái vái của quản ngục cũng là cái vái của Nguyễn Tuân trước cái tâm, cái đẹp, cái tài danh mà ông tôn sùng. Cái vái ấy thật giống với cái vái của Cao Chu Thần trước vẻ đẹp của hoa mai:

“Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”

(Một đời chỉ biết cúi lạy trước vẻ đẹp của hoa mai).

Cảnh Huấn Cao cho chữ được Nguyễn Tuân khắc họa đạm nét. Ở đây không phải là cảnh cho chữ bình thường nữa, mà đó đã trở thành cảnh thọ giáo thiêng liêng của người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy của Huấn Cao chắc khác chi một chúc thư về lẽ sống cảu đời người trước khi ông đi vào cõi bất tử. Với lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức mạnh mãnh liệt cảm hóa tâm hồn con người bấy lâu đã cam chịu nô lệ nay nhận ra trở về với thiên lương. Tóm lại, cái phí phách tinh thần bất khuất đã chiến thắng một cách vang dội trước thái độ cam chịu nô lệ.

Với bút pháp lãng mạn, nghệ thuật đối lập đòn bẩy và cách xây dựng nhân vật đầy cá tính đi đôi với cách tạo cảnh hấp dẫn được nhà văn Nguyễn Tuân triệt để khai thác trong toàn bộ truyện ngắn “Chữ người tử tù” cũng như cảnh Huấn Cao cho chữ ở cuối truyện. Với bút pháp ấy, nghệ thuật ấy nhà văn muốn ca ngợi cái đẹp, cái cao thượng, cái phí phách đường hoàng của tinh thần bất khuất cùng với lương tâm trong sáng của con người.Những vẻ đẹp ấy xứng đáng là những tia sáng cho muôn đời soi vào mà noi theo. Mọi người chúng ta hãy hướng về tia sáng đó thì nhất định bóng tối sẽ ngả về phía sau.

Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – Mẫu 7

Nguyễn Tuân là một nhà văn Việt Nam, là một trí thức dân tộc rất mực tài hoa. Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học, có lòng say mê thiết tha đối với tiếng Việt. Rất mực đề cao và chú tâm giữ gìn nhân cách nghệ sĩ nên Nguyễn Tuân căm ghét thói xấu xa đê tiện, vô văn hóa. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Đọc văn ông, người đọc không chỉ khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngôn từ mà còn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử…thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Sự nghiệp văn chương của ông không phải là nhà văn thành công ngay từ tác phẩm đầu tay. Ông đã thử qua nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương…Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn “vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú diêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Chữ người tử tù là một tác phẩm văn học của Nguyễn Tuân. Lúc đầu tên là Dòng chữ cuối cùng đăng trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm 1938, sau đó được in trong tập Vang bóng một thời và đổi tên là Chữ người tử tù, xuất bản đầu tiên năm 1940.

Toàn bộ cái tài, cái tâm và khí phách hiên ngang của Huấn Cao được thể hiện tập trung qua canh cho chữ. Đó là cuộc gặp gỡ éo le, trớ trêu giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Xét trên phương diện xã hội, Huấn Cao và tên quản ngục là những kẻ đối địch nhau, là kẻ thù của nhau. Một người đấu tranh để lật đổ cái xã hội hiện hành, một kẻ đại diện cho cái trật tự mà người kia đang muốn đánh đổ. Nhưng trên phương diện tài hoa, nhân cách, họ là những người bạn tri âm, tri kỉ. Một người là nghệ sĩ, sáng tạo cái đẹp, một người biết thưởng thức và tôn trọng cái đẹp. Một người khí phách hiên ngang, cứng cõi, một người ngưỡng mộ khí phách. Đó là nguyên nhân tạo ra cái tân thế kì lạ của các nhân vật: hoàn thành việc cho chữ và xin chữ mà người cho không sung sướng người nhận không mãn nguyện, cả hai đều ngậm ngùi, buồn bã. Hình ảnh ” lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa nghe xèo xèo” sau khi Huấn Cao hoàn thành việc viết chữ gây ấn tương sâu sắc cho người đọc về sự lụi tắt, không chỉ của lửa đóm mà còn của một sinh mạng vĩ đại. Bản chất nghệ thuật là sáng tạo tự do, nay người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ lại là một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Nghệ thuật giúp cho cái đẹp bất tử, nhưng người sáng tạo nghệ thuật lại là người tử tù đang ở đêm cuối cùng của cuộc đời, chỉ sớm mai người phải vào kinh lĩnh án tử hình. Nghịch lí xót xa ấy khiến cái đẹp trở nên mong manh, quý giá và giờ khắc tạo ra cái đẹp càng trang trọng, thiêng liêng.

Người nghệ sĩ thư pháp thường viết chữ ở những nơi thư phòng thanh sạch, cao khiết, nay Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong ” buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián”. Và chính trong sự tương phản này lại hàm chứa những tương phản khác mang ý nghĩa sâu sắc ” khói tỏa ra như một đám cháy nhà ” xua đi không khí ẩm thấp của buồng giam, ánh ruốc đỏ rực xua tan đi tăm tối, sự thanh khiết tỏa ra từ tấm lụa trắng tinh, từ mùi thơm ở chậu mực xua đi những thứ tầm thường dơ dáy chốn ngục tù… Sự tương phản sâu sắc thể hiện trong vị thế của người tử tù và kẻ coi tù: Người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng thì uy nghi, đàng hoàng, hiên ngang, đĩnh đạc viết chữ và dạy bảo, khuyên nhũ; Những người có nhiệm vụ giữ tù như thầy thơ lại ” run run bưng chậu mực ” quản ngục ”khúm núm cất những đồng kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên tấm lụa óng”.

Nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Sự gắn kết ba tấm lòng tri kỉ trước cái đẹp, cái thiện ” một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chắm chú trên một tấm lụa bạch; ba người nhìn bước châm rồi lại nhìn nhau”. Điều đó cho thấy lòng yêu quý cái đẹp đã xáo đi mọi khoảng cách giữa những con người vốn là đối địch. Sự tương phản này cho thấy ý chí phi thường của những con người yêu cái đẹo, dám vượt lên trên mọi sự nghiệt ngã chốn ngục tù để sáng tạo, chiêm ngưỡng và lưu giữ cái đẹp, những con người đã giúp cho cái đẹp ngự trị và tỏa sáng ngay chín nơi chốn của cái xấu cái ác. Trước cái đẹp, cái thiện mọi trật tự thông thường ở nhà tù đã bị đảo lộn không còn người tù và kẻ coi tù, chỉ có Huấn Cao – người cho chữ, người sáng tạo và ban phát cái đẹp và người quản ngục – thiên lương, người xin chữ, người ngưỡng mộ và tiếp nhận cái đẹp. Trật tự mới giữa họ lúc này được thiết lập theo tiêu chí của cái đẹp, cái thiện.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn “thay chỗ ở đi” để có thể tiếp tục sở nguyện cao quý. Trước lời khuyên của người tử tù, tên quản ngục xúc động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Muốn chơi chữ phải giữ được cái thiên. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó cỏ thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ tối tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác nhưng không thể chung sống với cái ác. Huấn Cao không chỉ sáng tạo, ban phát cái đẹp mà thông qua sức mạnh kì diệu của cái đẹp, Huấn Cao còn cứu vớt một con người – sự minh chứng sức mạnh cảm hóa cái đẹp.

Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù thật đặc biệt, đúng là cảnh tượng xưa nay chưa từng có và chỉ một cảnh ấy thôi nói nên biết bao nhiêu điều về vẻ đẹp của con chữ, vẻ đẹp của con người và cả quan niệm về sự sinh tồn của cái thiên lương. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: Dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

***************************

Bạn đang xem: Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù (7 Mẫu)

Trên đây là 7 bài văn mẫu Phân tích cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù lớp 11 hay nhất. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết để hoàn thành bài phân tích của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo Dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button