Văn mẫu 12

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Việt Bắc

Sưu tầm và tuyển chọn những bài văn hay phân tích về bức tranh thiên nhiên tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Văn mẫu lớp 12.

Tài liệu hướng dẫn phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc do THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn gồm những gợi ý chi tiết giúp em phân tích đề, lập dàn ý và tham khảo một số bài văn mẫu hay phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình trong bài Việt Bắc của Tố Hữu.

     Cùng tham khảo ngay…

Hướng dẫn phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình Việt Bắc

Đề bài: Phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

1. Phân tích đề

– Yêu cầu: phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình độc đáo được khắc họa trong bài thơ Việt Bắc.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

– Phương pháp lập luận chính : Phân tích.

2. Hệ thống luận điểm

Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa đông ấm áp, lắng dịu.

Luận điểm 2: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa xuân rực rỡ, chói chang.

Luận điểm 3: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa hạ rộn ràng, náo nức.

Luận điểm 4: Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa thu êm ái, ngọt ngào.

>>> Đọc thêm hướng dẫn soạn bài Việt Bắc phần 2 (Tác phẩm)

3. Lập dàn ý chi tiết

a) Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc:

+ Tố Hữu là một nhà thơ trữ tình chính trị lớn, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.

+ “Việt Bắc” là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu mang đậm chất dân tộc, tổng kết về cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, đồng thời là lời tri ân sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.

– Dẫn dắt vào vấn đề: bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc

+ Bức tranh tứ bình được xem là những vần thơ tuyệt bút trong bài thơ Việt Bắc.

b) Thân bài

* Khái quát chung về bài thơ

– Hoàn cảnh sáng tác:

+ Tháng 10-1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại Hà Nội.

+ Nhân sự kiện có tính chất lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để ghi lại không khí bịn rịn nhớ thương của kẻ ở người đi.

– Giá trị nội dung: Bài thơ khẳng định tình nghĩa thủy chung gắn bó, tình cảm uống nước nhớ nguồn của những cán bộ cách mạng đối với thủ đô kháng chiến, quê hương cách mạng và người dân Việt Nam.

Luận điểm 1: Bức tranh mùa đông ấm áp, lắng dịu.

– Cảnh thiên nhiên:

+ “rừng xanh”, “hoa chuối đỏ tươi”

-> Sắc xanh bao la của rừng núi điểm những bông hoa chuối đỏ tươi như bó đuốc sáng rực xua đi sự lạnh lẽo, hiu hắt của núi rừng, thắp lên ngọn lửa ấm áp, mang lại ánh sáng hơi ấm cho nơi đây.

– Hình ảnh con người:

+ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” : ánh nắng phản chiếu vào những lưỡi dao tạo nên vẻ đẹp lấp lánh.

-> Trước thiên nhiên bao la của núi rừng, con người trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn với hoạt động phát nương, làm rẫy. Thiên nhiên dường như đang hô ứng để làm bật lên hình ảnh của con người.

* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân rực rỡ, chói chang.

– Cảnh thiên nhiên:

+ “mơ nở trắng rừng” : sắc trắng của hoa mơ đặc trưng của núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân.

-> Sắc trắng ấy làm bừng sáng cả khu rừng, làm dịu mát tâm hồn con người.

– Con người:

+ “đan nón”, “chuốt từng sợi giang”

-> Đôi bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, cần mẫn vào từng sản phẩm lao động.

=> Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn, vẻ đẹp của sự tài nghệ, thuần thục mà cũng hết sức giản dị.

* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ rộn ràng, náo nức.

– Cảnh thiên nhiên:

+ “rừng phách đổ vàng”

-> Màu vàng rực của thiên nhiên dường như chuyển đột ngột qua từ “đổ” hòa quyện với tiếng ve kêu khiến cho cảnh thêm sinh động, có hồn và tưng bừng hơn.

+ “Ve kêu rừng phách đổ vàng” gợi nhiều liên tưởng:

  • Có thể là màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống
  • Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa

– Hình ảnh con người:

+ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

-> Con người vẫn tiếp tục ở trạng thái cần cù lao động, tuy xuất hiện một mình nhưng lại không gợi cảm giác buồn bã, đơn độc, bởi có sự đồng điệu, hô ứng với thiên nhiên đang ở độ chín, độ đẹp nhất.

=> Vẻ đẹp của sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của con người nơi đây.

* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu êm ái, ngọt ngào.

– Cảnh:

+ “trăng rọi hòa bình” : ánh trăng dịu nhẹ, huyền ảo gợi không khí thanh bình, yên ả

-> Ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do chiếu sáng lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc.

– Hình ảnh con người:

+ “tiếng hát ân tình thủy chung” -> Con người vẫn say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành.

=> Hình ảnh con người được khai thác thông qua hình thức sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc đó là lối hát giao duyên, đó là tiếng hát ân tình, thủy chung.

=> Sự hòa quyện giữa cảnh và người trong bức tranh theo từng mùa đã nói lên nét đẹp tâm hồn của con người nơi đây.

* Đặc sắc nghệ thuật

– Thể thơ lục bát thuần dân tộc

– Sử dụng kết cấu đối đáp trong văn học dân gian

– Ngôn ngữ giản dị

– Hình ảnh thơ gần gũi mà tinh tế.

– Giọng thơ thiết tha, đậm chất nhạc.

c) Kết bài

– Khái quát lại vẻ đẹp của bức tranh tứ bình Việt Bắc.

– Nêu cảm nhận chung của em về bức tranh ấy.

4. Sơ đồ tư duy phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc

>>> Tham khảo: Dàn ý phân tích bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu)

5. Kiến thức mở rộng

– Tứ bình là bộ tranh bốn bức, cùng treo với nhau, thường vẽ các cảnh câu cá, đốn củi, cày ruộng, đọc sách hoặc xuân, hạ, thu, đông.

– Trong bài thơ Việt Bắc, bức tranh tứ bình là những nét vẽ mà tác giả Tố Hữu đã phác họa về cảnh sắc và con người nơi đây với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng những hình ảnh đặc trưng rất riêng Việt Bắc, những ân tình mang phong vị Việt Bắc.

Một số bài văn hay tham khảophân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc

Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc mẫu số 1:

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và Chính phủ Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” câu thơ thứ hai là tự trả lời điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng người”. Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc, còn người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa nhớ cảnh câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét màu sắc vừa đối lập vừa hài hòa vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Trước thiên nhiên bao la con người dường như càng trở nên kỳ vĩ hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao chiếm lĩnh núi rừng tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đây là tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây hoa lá của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng trong trẻo tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Cụm từ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng bâng khuâng dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn tỉ mẩn khéo léo tài hoa nhanh nhẹn chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm nên lung linh ánh sáng màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình thơ mộng gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó ẩn chứa biết bao niềm cảm thông trân trọng của tác giả.

Thu sang khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng đó là ánh trăng của tự do của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận liên khu báo về

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện đại đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Xem thêm văn mẫu lớp 12 hay:

  • Phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu
  • Phân tích bài thơ Việt Bắc

Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc mẫu số 2:

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với dân sâu sắc, vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ tình – chính trị sâu sắc đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp.

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta tức là của người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi, dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ “ta” và “nhớ” được điệp đi điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của hương sắc, còn “người” là kết tinh của đời sống xã hội. Xét cho cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.

Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức trannh tứ bình ngập tràn ánh sáng, màu sắc, đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông Việt Bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.

Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u mà nhớ đến những ngày mùa đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” – hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.

Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa xuân ấm ấp vui hơn:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Hình ảnh bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trắng điểm như trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mĩ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân nơi đây và đó cũng có thể là thứ quà tặng dành cho những người mà họ yêu thương.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng. Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, cần cù siêng năng, chăm chỉ. Măng là thứ rau để nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng một mình cho thấy được sự yên tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu:

“Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người mà con người là loài hoa đẹp nhất: “Người ta là hoa của đất”.

Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.

“Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có “tiếng hát ân tình”. Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, êm ả và ân tình thủy chung.

Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” “mình nhớ ta”. Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng liêng, biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc với con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.

Tóm lại, với 10 câu thơ, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, câu bát tả người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của Tố Hữu với Việt Bắc. Và ở mỗi bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kì của nó. Điều quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước yên bình, xinh đẹp như ngày hôm nay.

Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc hay nhất

“Xưa tôi hát và bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại
Khúc hát hay, đâu có lắm lời.”

(Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)

Dạo bước trên từng trang văn, va chạm với từng hồn thơ. Ta nhận ra rằng có những lời thơ tựa như đang “hát”, “hát” về cái gì đó rực cháy, chói lòa và khó tìm. Quả thật, sự hào nhoáng hay ma mị trong văn chương, luôn là chất kích thích, mê hoặc từng thớ bạn đọc, và rồi khiến họ chìm đắm, say mê và khát khao vô cùng. Nhưng tự hỏi, điều gì sẽ thật sự ở lại trong tâm hồn mỗi người, khi đời là chuyện của vạn năm, tốn hết cọ vẽ, sáp màu, có chắc sẽ họa nên nổi. Và rồi đến lúc thứ ánh sáng của chân lí soi rọi thì đến cả những cây bút xuất sắc nhất cũng sẽ phải ngồi lại và thôi “hát” đi, khi đó họ bắt đầu “tập nói”, nói về những điều bình dị, thường nhật của nhân dân, của đất nước, để “nói hết được đời”, rồi sau đó mới cất lên những khúc sử thi hào hùng hay thế sự tương lai. Với quan niệm “văn học không phải chỉ là chuyện văn chương mà thực chất là chuyện đời”, Tố Hữu đã như một “người kể chuyện đời” điêu luyện, nhà thơ quốc kì ấy đã mượn từng dòng thơ để khắc chạm nên những điều bình dị trong xúc cảm nội tâm hay hoạt cảnh của hiện thực, những gì nhà thơ viết tuy giản đơn nhưng không tùy tiện, dung dị mà cũng hết mực chân thành. Đoạn trích “Việt Bắc” cũng được xem như một bản tuyên ngôn nghệ thuật xuất sắc của ông trên văn đàn Việt Nam. Và nổi bật nhất trong thi phẩm chính là mười câu thơ miêu tả vẻ đẹp bức tranh tứ bình – chan chứa tình cảm của tác giả đối với con người và thiên nhiên nơi đây, song song đó ta cũng thấy được chất riêng trong cách miêu tả về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu.

“Ta về, mình có nhớ ta
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận xét rằng: “Trọn đời, Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng…Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Và quả đúng như thế, được tôn vinh là “cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam”, thơ Tố Hữu viết ra luôn mang đậm màu sắc trữ tình chính trị, hòa với tính sử thi và mang lại cảm hứng về lịch sử, về Tổ quốc. Từng ý thơ của ông như đang cất lên tiếng nói chung của thời đại, của cộng đồng, là vấn đề vận mệnh, là những con người đang mang trong mình sự nghiệp chung vì đất nước thân yêu. Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, của tình cảm lớn, luôn tràn đầy cảm hứng ca ngợi về lãnh tụ và quần chúng với những vần thơ giản dị, sâu sắc mà đậm đà tính dân tộc. Khi sáng tác, ông không chú ý sáng tạo từ mới, cách diễn đạt mới mà thay vào đó là thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với nhân dân, tạo nên cảm giác gần gũi, chân thành. Thơ Tố Hữu luôn theo sát những chặng đường cách mạng gian lao, hào hùng và vinh quang của đất nước, do vậy các nhà phê bình đã phong tặng cho ông danh hiệu cao quý “Người chép sử bằng thơ”.

“Giống như những ngôi sao trên trời, ngôi sao lớn nhất không sáng thay cho những ngôi sao khác, mỗi chúng đều có ánh sáng riêng” (Nguyễn Ngọc Tư), ánh sáng ấy tựa như len lỏi trong từng mạch máu của thi nhân, rung chạm mãnh liệt để dẫn lối cho những chữ thoát ra, tạo nên những thiên tuyệt bút đầy giá trị. “Việt Bắc” được in trong tập thơ cùng tên và được ra đời nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, đó chính là những ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, vào tháng 10 năm 1954 sau những chuỗi ngày gắn bó, hỗ trợ và chiến đấu cùng nhau, cán bộ chiến sĩ phải từ biệt căn cứ Việt Bắc để trở về Hà Nội. Và thế là những nỗi niềm kín sâu cũng từ đấy mà được khơi nguồn, những câu hỏi liên tục được đặt ra: Liệu những người chiến thắng sẽ giữ được tấm lòng thủy chung với đồng bào Việt Bắc và quê hương cách mạng hay không, liệu họ sẽ còn nhớ những tháng ngày gian khổ hào hùng, sâu nặng nghĩa tình với nhau hay không? Những băn khoăn, trăn trở ấy tựa như chất xúc tác mãnh liệt cho ngòi bút thi nhân, như Tố Hữu cũng đã từng nói: “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã thật tràn đầy”, khi những cảm xúc mãnh liệt đè nặng trái tim không thể thốt nên bằng lời, thì chỉ có những dòng thơ chân tình mới có thể thay thế để tỏ bày mà thôi. Bài thơ “Việt Bắc” gồm có hai phần, phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.  Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần đầu của bài thơ. Trích đoạn trên đề nằm ở phần giữa của đoạn trích “Việt Bắc”, miêu tả vẻ đẹp bức tranh tứ bình cùng tình cảm gắn bó thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi đây.

Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung khôn nguôi về Việt Bắc:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”

Khởi nguồn là câu hỏi tu từ đầy ý nhị đến từ phía người ra đi “Ta về, mình có nhớ ta”. Ở đây, Tố Hữu đã sử dụng lối đối đáp giao duyên “ta” – “mình”, khiến cho lời thơ phảng phất bao hương vị ngọt ngào của tình yêu. Đó là tiếng thương, tiếng nhớ, là nỗi lòng bâng khuâng, thấm đẫm một cỗ tình cảm đậm đà, đong đầy xiết bao. Và ta cũng có thể thấy rằng, câu hỏi người ra đi cất lên dường như không mong ngóng bất cứ sự hồi đáp nào, bởi lẽ, hỏi không phải để đợi chờ đáp án, mà hỏi là để bộc bạch ra những xúc cảm bồi hồi xao xuyến trong lòng trước giây phút đã sắp chia xa. Rồi đây ta li biệt, biết bao giờ mới gặp lại được nhau, những khoảng trời kí ức về “mười lăm năm ấy” chắc hẳn sẽ mãi là những kỉ niệm khó phai. Và còn những năm tháng đã cùng nhau gắn bó, “chia củ sắn lùi”, những hình ảnh về “lớp học i tờ”, về “đuốc sáng” liên hoan cũng sẽ mãi đọng lại trong kí ức của cả “mình” và cả “ta”. Ở câu thơ trên, ngoài những tình cảm quá đỗi thiết tha, trìu mến, ta còn bắt gặp được cái chất riêng đặc sắc của ngòi bút Tố Hữu, như Xuân Diệu đã từng đánh giá: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình…”, viết về chuyện thời sự, chính trị nhưng không hề khô khan mà ngược lại rất đằm thắm, chân thành và thiết tha vô cùng.

Tiếp nối dòng cảm xúc ở câu thơ mở đầu, đến câu tiếp theo người ra đi đã tự khẳng định tình cảm của mình một cách vô cùng chân thành “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Cụm từ “Ta về” lại xuất hiện một lần nữa, tạo nên hai lần điệp ngữ, điều ấy dường như đang bộc bạch rằng, tình cảm của họ đã căng tràn đến mức khó nói, chỉ có thể gói ghém một cách thầm kín qua câu từ, cùng với đó là sự luyến thương cứ hoài giăng mắc nơi đáy tim, mãi quấn quýt, không nỡ rời xa nhau. Và nỗi nhớ thương ấy không chỉ dành cho “người” mà còn có cả cho “hoa”, hình ảnh “hoa” hiện lên, vừa là đại diện cho vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc, nhưng đồng thời cũng cho ta có cảm nhận rằng, có lẽ trong kí ức hiện hữu nơi trái tim của người ra đi thì Việt Bắc luôn là một vùng kí ức rất đẹp, đẹp đến nỗi khi vô tình nhớ đến, cứ như đang có vạn vạn những đóa hoa đa sắc bừng lên, mãi thắm mãi đượm màu. “Hoa” thì đã ý nghĩa thế, còn “người” cũng mang những nét nghĩa rất đỗi yêu thương, bởi lẽ đó chính đại diện cho sự hiện hữu của những con người lao động nơi đây, những con người ngày đêm cần mẫn, chăm chỉ, chịu thương chịu khó, luôn tỏa sáng với những nét đẹp lao động đáng ca ngợi và tự hào. Khi về miền xuôi, những cán bộ chiến sĩ luôn nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc, nhưng không nhớ một cách tách rời mà luôn hòa quyện, gắn bó và đồng hiện cùng nhau, điều ấy được thể hiện qua cụm từ “hoa cùng người”, từ “cùng” ấy cho ta thấy mối liên kết chặt chẽ giữa cảnh và người. Nếu trong ca dao, cảnh chủ yếu để tạo cảm hứng cho tình thì trong hai câu trên, cảnh xuất hiện vừa là nền nhưng cũng là một phần trong nỗi nhớ của người ra đi.

Thiên nhiên Việt Bắc được Tố Hữu miêu tả trong sự luân chuyển của bốn mùa, mở đầu là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống và hình ảnh con người lao động làm chủ hiên ngang trên đỉnh cao:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”

Khi nhắc đến mùa đông, ta thường nhớ đến sự lạnh lẽo, u ám và buồn tẻ. Nhà thơ Việt Phương cũng đã từng ghi lại những cảm nhận về mùa đông như sau:

“Mùa đông lạnh gió lùa qua khe cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
Có ai về tôi gửi áo len cho”

(Nhớ mùa đông Hà Nội)

Thế nhưng trong thi phẩm Việt Bắc lại khác, qua lăng kính nghệ thuật tinh tế của mình, Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh mùa đông vô cùng sống động, tốt tươi và căng tràn sức sống:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”

Bức tranh thiên nhiên mùa đông với gam màu đậm “xanh – đỏ”, hai màu sắc tưởng chừng đối lập, tương phản nhưng thực chất lại hài hòa vô cùng. Trong hội họa, xanh là gam màu lạnh, còn đỏ là gam màu nóng. Và đỏ ở đây lại còn là cái “đỏ tươi” rực sáng, khiến ta như đang được thưởng thức một bức tranh tuyệt mĩ của một ngài nghệ sĩ đại tài nào đấy. Giữa sắc “xanh” của rừng thiên bạt ngàn vô tận, len lỏi trong đấy là những ánh “đỏ” điểm xuyết, mang lại cảm giác tươi tắn, rạo rực của một bức tranh đông, khiến cho mùa đông dường như không còn tịch liêu, hiu hắt nữa mà ngược lại ngày càng trở nên lung linh, ấm áp và dạt dào sức sống vô tận. Tố Hữu tựa như một nhà hội họa tài ba, ông đã mang đến cho câu thơ của mình một bức tranh mùa đông vừa sống động lại vừa rất riêng.

Và giữa cái bao la nắng gió bạt ngàn của thiên địa, con người lao động hiện lên với vẻ đẹp lộng lẫy và những phẩm chất cao quý vô cùng:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”   

Khung cảnh mở ra với đoạn đường hiểm trở “đèo cao” – nơi mà nhân dân Việt Bắc phải vượt qua hàng ngày nhằm thực hiện sứ mệnh cao cả, đó là lao động. Những con người ấy lao động vì vinh quang của Tổ quốc, họ làm việc với một thái độ tự hào, hết lòng và cần mẫn. Hình ảnh con người xuất hiện ngay trung tâm, cho ta thấy được tầm quan trọng của nhân dân Việt Bắc – những con người đã đi nương, làm rẫy, tăng gia sản xuất để phục vụ cho kháng chiến. Cuộc đời của họ luôn là sự cống hiến thầm lặng, nhưng trái tim họ dường như luôn rực cháy. Cháy vì tương lai, vì hòa bình dân tộc. Cụm từ “nắng ánh” và hình ảnh “dao gài thắt lưng” cho ta thấy được khoảnh khắc tuyệt đẹp của nhân dân Việt Bắc, Tố Hữu dường như đã bắt trọn được một khoảnh khắc hết đỗi đắt giá trong quá trình làm việc của người lao động. Những ánh nắng chói chang trên bầu trời kia soi chiếu vào chiếc dao gài trên thắt lưng của người dân, như một điểm hội tụ của ánh sáng, tạo nên khí thế hiên ngang và tầm vóc lớn lao trên khung cảnh thiên nhiên ngút ngàn. Con người lao động hiện lên với tư thế vững chãi, tự tin của người đã làm chủ được núi rừng, làm chủ được tự do và làm chủ lao động. Tố Hữu cũng từng miêu tả tư thế ấy trong “Lên Tây Bắc”:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”

Chưa hết ngỡ ngàng với bức tranh mùa đông thơ mộng, nhà thơ lại tiếp tục dắt tay bạn đọc vào xứ sở mùa xuân bừng sáng, đầy sức sống hoang dại và mãnh liệt của hoa mơ:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Nguyễn Bính từng cảm tác trong niềm vui sống giữa ngày xuân: “Mùa xuân là cả một mùa xanh”, một mùa xanh sống động và ngập tràn tươi mới, mơn mởn. Khác với mùa đông chói lóa với sắc đỏ rực cháy, mùa xuân ở Việt Bắc trông dịu dàng và đằm thắm hơn hẳn. Nếu miền Nam ta có hoa mai vàng rực rỡ, người Hà thành với đào tươi thắm xinh, thì Việt Bắc lại có sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Ta nhớ đến ngày xưa, đại thi hào Nguyễn Du đã chọn sắc trắng của hoa lê với một vài bông hoa nhẹ nhàng để miêu tả sắc xuân:

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Thì đối với Tố Hữu, màu sắc đó không còn chỉ là sự điểm xuyết, mà đó là sự bao trùm. Cả không gian được phủ kín bởi sắc trắng tinh khôi, tạo nên một vẻ đẹp trong suốt, trữ tình và tràn trề nhựa sống. Bên cạnh màu sắc tuyệt diệu ấy, ta còn bắt gặp những dụng công nghệ thuật vô cùng tinh tế của thi nhân khi miêu tả đoạn mùa xuân này. Phép đảo ngữ “trắng rừng”, ở đây “trắng” là tính từ nhưng được dùng như một động từ, tạo nên cảm giác cánh rừng như đang bừng lên ánh sáng, nở rộ sắc trắng tinh khiết trong veo. Động từ “nở” kết hợp cùng tính từ “trắng” càng làm bừng thêm sức sống của mùa xuân nơi núi rừng bạt ngàn ấy, nhựa sống cứ như đang lan ra và tràn trề đến tận cùng. Màu trắng dường như đã át đi hết thảy các sắc xanh của lá, của cây, tạo nên một bức tranh lãng mạn, thanh bình và tinh khôi đến lạ kì.

Thấp thoáng dưới khung cảnh thơ mộng của cánh rừng xuân thơm mát, hình ảnh con người của quê hương Cách mạng lại một lần nữa xuất hiện liền kề sau:

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Người lao động hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mần, tỉ mỉ qua động từ “chuốt” kết hợp cùng lượng từ “từng”. Hình ảnh người dân làng nghề chăm chỉ, chịu thương chịu khó cứ thế được đặc tả vô cùng rõ ràng. Khoảnh khắc đôi bàn tay nghệ nhân tài hoa ấy cứ mải mê trau chuốt, chăm chút cho từng sợi giang, cho tròn từng vành nón, đã phần nào góp phần thể hiện được phẩm chất tảo tần của con người Việt Bắc. Và ở đây, Tố Hữu cũng đã rất tinh tế khi đã hái lượm trong vườn hoa ngôn từ một từ ngữ tưởng như rất bình thường nhưng lại vô cùng đặc biệt, đó là động từ “chuốt”. Quả đúng như Nguyễn Tuân từng chia sẻ: “Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó”, ở đây Tố Hữu đã thật sự dụng tâm khi chỉ với một từ đã có thể lột tả hết được sự nhẫn nại và vẻ đẹp trong lao động của người dân Việt Bắc.

Xuôi theo mạch cảm xúc, những vẻ đẹp nên thơ, mơ mộng của núi rừng hiện lên thật tròn đầy và rực cháy, hạ về mang theo những âm vang náo động của tiếng ve, tựa một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang lại những đường nét thật hiện đại:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

Câu thơ miêu tả âm thanh của tiếng “ve kêu” và màu vàng của “rừng phách”. Tiếng ve là đại diện mùa hè đã tới, gợi ra sự náo nức, vội vã của thời gian. Còn “phách đổ vàng” là đặc trưng của mùa hạ Việt Bắc. Động từ “đổ” là một động từ mạnh, được tác giả sử dụng vô cùng chính xác và tinh tế. Nó làm xuất hiện hai hoạt động song song, đó là hoạt động âm thanh của tiếng ve và hoạt động chuyển màu của rừng phách, gợi tả một sự chực chờ biến đổi mau lẹ của màu sắc thiên nhiên. Khung cảnh mở ra với tiếng ve hót râm ran, và đó cũng là lúc cả cánh rừng đồng loạt chuyển sang vàng, có chút gì đó vừa thần kì nhưng lại cũng huyên náo vô cùng. Ta như đang được thưởng thức một màn ảo thuật đặc sắc, tiếng ve cất lên đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Hình ảnh ấy làm ta nhớ đến ý thơ trong câu “một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng. Từ thính giác lắng nghe âm thanh, đến thị giác để cảm nhận màu sắc, Tố Hữu đã vô cùng tài tình trong việc sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, tác giả dùng âm thanh để gọi màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Nhờ đó mà bức tranh mùa hạ hiện lên vô cùng tươi tắn, thơ mộng, và rất trực quan. Thêm vào đó, là những hình ảnh hòa quyện của  bức tranh thiên nhiên đã tạo nên cho ta một cảm giác thật mê đắm làm sao. Và hiện lên giữa nền thiên nhiên óng ánh, rộn rã ấy, là hình ảnh cô em gái cần mẫn đi hái từng búp măng, “em gái” là cách gọi thân thương, trìu mến trong quan hệ gia đình, động tác “hái măng” gợi ra dáng vẻ cặm cụi, siêng năng, chịu thương chịu khó của người dân Việt Bắc. Hai chữ  “một mình” cho ta thấy được sự cô đơn, trống trải sau lưng người ra đi, rồi đây khi những người chiến sĩ đã trở về quê nhà, thì “trám bùi” cũng chỉ “để rụng, và “măng mai” cũng chỉ “để già”. Những người dân Việt Bắc khi đi hái măng cũng chẳng biết sẽ dành phần cho ai, và trong lòng họ lúc ấy sẽ chỉ còn phảng phất nỗi nhớ thương khó tả. Bên cạnh sự cần cù, cô đơn thì ở ý thơ của câu tám, ta còn nhận thấy được sự trân trọng của nhà thơ Tố Hữu dành cho người em gái yêu thương, dáng vẻ dịu dàng, “một mình” nhưng cần mẫn thướt tha ấy còn khiến ta nhớ đến câu ca dao: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình/Em xinh em đứng một mình cũng xinh”, kết hợp với đó là phép điệp phụ âm “m” trong ba chữ “măng một mình” tạo nên nhạc tính, khiến lời thơ thêm da diết, bâng khuâng hơn.

Khép lại bức tranh tứ bình Việt Bắc là khung cảnh mùa thu bình yên, nền nã trong ánh trăng huyền diệu hòa lẫn với tiếng hát âm vang nghĩa tình kháng chiến:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Hình ảnh về vầng trăng trong bức tranh mùa thu Việt Bắc, không khỏi khiến ta nhớ đến hình ảnh của những đêm trăng đã ghi ấn trong thơ Bác:

“Tiếng hát trong như tiếng suối xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

(Cảnh khuya)

Hay

“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

(Nguyên Tiêu).

Trở lại với vầng trăng trong thơ Tố Hữu “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Ta thấy được rằng, có sự bình yên toát lên từ ánh trăng nhẹ nhàng ấy, mùa thu năm ấy – mùa thu của sự thắng lợi, mùa thu của hòa bình, mùa thu của tự do. Tất cả đều khởi điểm từ mùa thu Cách mạng tháng Tám năm 1945, đã tạo nên sự hồi sinh cho Tổ quốc. Và vầng trăng ấy, không chỉ đơn thuần là một sự vật vô tri, vô giác mà ngược lại nó đã đóng góp rất nhiều cho công trình đấu tranh vì đất nước thân yêu. Nếu ở Tây Tiến ta có “Sông Mã” là chứng nhân lịch sử, là người bạn đồng hành gian lao, thì tại Việt Bắc, ta cũng có ánh trăng nghĩa tình, cái vầng trăng đã gắn bó thiết tha, gắn bó sâu nặng với những người chiến sĩ, cán bộ. Vầng trăng ấy tựa như một người bạn tri kỉ, một người bạn đồng hành qua biết bao chặng đường hành quân gian lao, khó khăn. Động từ “rọi” của ánh trăng gợi cho ta cảm giác trăng dường như xuyên qua từng tán cây, kẽ lá, và có thể là xuyên đến cả trái tim của những người cán bộ chiến sĩ đã hết lòng tại nơi đây. Rừng thu lấp lánh ánh trăng, khiến lòng ta cũng lâng lâng bao xúc cảm thắm đượm, đó có thể là niềm hạnh phúc về “hòa bình” được lập lại nhưng cũng có thể là nỗi niềm tiếc nuối trong giây phút sắp phải chia xa.

Và giữa khung cảnh trời đất thơ mộng ấy, đâu đấy đã vang lại tiếng hát thấm đượm trữ tình “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Lời hát ân tình thủy chung tuy đã khép lại đoạn thơ, nhưng lại mở ra cả một vùng kí ức sống động nơi trái tim người ra đi. Từng kỉ niệm về những tháng ngày gắn bó có nhau, từng hình ảnh, từng câu chuyện cứ thế dần hiện ra nơi tâm trí, để rồi nỗi lòng cứ thế càng thêm xao xuyến và day dứt xót xa. Đại từ phiếm chỉ “ai” chính là đang hướng đến nhân dân Việt Bắc, kết hợp cùng phép điệp “Nhớ người”, “Nhớ cô em gái”, “Nhớ ai” trong các câu bát khiến cho lời thơ càng trở nên da diết, sâu đậm đến cùng cực, tình thơ đong đầy cứ như có thể lan tràn cả đến từng chân tơ kẽ tóc của bạn đọc. Cuối cùng là sự kết hợp giữa “trăng” và “tiếng hát ân tình thủy chung” khiến ta như đang được gợi nhắc một lần nữa về nghĩa tình thủy chung son sắt. Bởi “trăng” ngoài biểu tượng cho hòa bình, thì còn đại diện cho sự thủy chung, gắn bó. Và ở câu thơ cuối cùng, người đọc có thể hiểu theo hai cách, đó có thể là lời gợi nhắc của người ở lại với người về, nhưng cũng có thể hiểu là câu nói của chính người về tự nhắc nhở mình: Khi về lại nơi phố thị xa hoa, thì mong bản thân người về đừng bao giờ quên đi những năm tháng đã đồng cam cộng khổ, những tháng ngày đã cùng nhau ăn cơm vừng muối mặn, cùng đắp mảnh chăn sui, vất vả khó nhọc đủ bề nhưng lại chân tình ấm áp. Sống ở miền xuôi nhưng đừng quên miền ngược, hãy luôn nhớ về cội nguồn kháng chiến, nơi núi rừng Việt Bắc mà ta đã đồng hành cùng nhau. Ánh trăng hòa cùng tiếng hát, tạo nên khung cảnh tuyệt mĩ nhưng đồng thời cũng gợi nhắc ta rất nhiều về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, đạo lí nghĩa tình thủy chung của dân tộc, như chính những lời nhắc nhớ vẫn vang vọng cả những đoạn về sau:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”

Tô Hoài từng quan niệm rằng: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Mỗi trang hoa được viết ra luôn ẩn chứa bao công sức của nhà văn, đó là hành trình miệt mài nghiên cứu để khám phá ra những hạt ngọc tinh vi mới mẻ, để hoàn thiện cả về hình thức lẫn nội dung, để làm nên những áng văn bất hủ, mãi xanh biếc với thời gian. Và có lẽ, Tố Hữu cũng quan niệm như thế, bởi qua hành trình khám phá vẻ đẹp của bức tranh tứ bình Việt Bắc, ta thấy được nhà thơ đã vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát của dân tộc, với bốn cặp lục bát cuối, ông đã dùng các câu lục để nhớ về cảnh sắc, còn câu bát dùng cho nỗi nhớ về con người. Cùng với đó là các biện pháp nghệ thuật được ông sử dụng tài tình như câu hỏi tu từ, thủ pháp đồng hiện, giúp gợi sự băn khoăn, trăn trở về những nỗi lòng chất chứa. Không chỉ vậy, tác giả còn sử dụng thống tính từ, động từ giàu sức gợi hình, gợi cảm, và hàng loạt hình ảnh đẹp, có chọn lọc, đậm chất cổ điển nhưng cũng vô cùng mới mẻ và sáng tạo, khiến thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên trông thật hài hòa, lãng mạn nhưng cũng rất đỗi bình dị và gần gũi. Hơn thế nữa, việc sử dụng thể thơ dân tộc cũng đã góp phần tạo nên nhịp điệu, âm hưởng đặc biệt, khiến lời thơ trở nên uyển chuyển, du dương hơn. Cộng với việc kết hợp lối xưng hô giao duyên “mình” – “ta” và phong cách trữ tình chính trị càng tăng thêm sự ngọt ngào, nhớ thương da diết. Và cũng chính nhờ những yếu tố trên mà bức tranh tứ bình Việt Bắc cùng với những tình cảm thiết tha của tác giả dành cho con người và cảnh vật cũng đã trở nên chân thật và trìu mến hơn.

Đoạn thơ là bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Việt Bắc, gợi nhắc cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa về tình yêu quê hương đất nước. Mỗi một bộ tranh là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ, bắt đầu bằng mùa đông –  mùa của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1946, mùa của những tháng ngày buổi đầu Cách mạng, chọn mùa đông là mùa khởi điểm cũng vì lí do như thế. Đó là những buổi đầu cách mạng khó khăn, thử thách. Và rồi được kết lại bằng mùa thu với những quả chín ngọt ngào, gợi nên những chiến thắng âm vang của trận Điện Biên máu lửa. Cả đoạn thơ được bao trùm bởi tình cảm nồng thắm của quân dân, cùng sự hòa quyện giữa cảnh và người, tạo nên một bức tranh sống động, gần gũi và có hồn.

Chế Lan Viên từng bày tỏ như sau khi nhắc về Tố Hữu: “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần”, trái tim của con người ấy đã mãi rung lên vì những xúc cảm đong đầy, khắc chạm rõ nét vào vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong những sáng tác của bản thân. Cụ thể qua đoạn trích bức tranh tứ bình nói riêng hay cả thi phẩm “Việt Bắc” nói chung, ta sẽ bắt gặp được thiên nhiên và con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, đẹp trong nỗi nhớ tha thiết của người cán bộ kháng chiến khi về xuôi. Nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho ta những vần thơ đẹp về thiên nhiên nhiên và con người Việt Bắc mà cũng là cảnh trí, con người Việt Nam. Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình giúp ta cảm nhận thấm thía hơn tình yêu thiên nhiên và con người lao động của tác giả, trong đó cảnh hòa quyện với người, người làm chủ hoàn cảnh. Cái tôi của nhà thơ gắn với cái ta chung, thể hiện phong cách thơ trữ tình chính trị, giọng thơ ngọt ngào tha thiết. Thể thơ lục bát được sử dụng nhuần nhuyễn, hình ảnh thơ đậm đà tính dân tộc.

“Anh tồn tại mãi
Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên”

(Chế Lan Viên)

Cho dù có thành ngọn cỏ, có là tro bụi, cho dù đến hạn trả kiếp cho tạo hóa vần xoay, người cầm bút ấy vẫn biết mình sẽ tồn tại mãi trong dư âm của thời gian qua từng câu chữ, qua tâm tình người để lại. Thơ văn Tố Hữu sở dĩ sẽ luôn mãi xanh biếc theo thời gian bởi nó “có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Đoạn trích bức tranh tứ bình hay toàn bộ thi phẩm “Việt Bắc” đã tái hiện được những tình cảm quân dân thắm thiết và tấm lòng trung thành với đất nước, tác phẩm không chỉ bộc lộ nỗi nhớ của những người cán bộ dành cho nhân dân miền núi mà còn tái hiện lịch sử dân tộc, từ những kỉ niệm ngọt ngào đến những chuỗi chiến công oanh liệt, từ ý chí chống giặc đến tinh thần lạc quan, đã giúp ta chống giặc thành công. Nhờ đó mà một niềm tin về tương lai tươi đẹp, tự do, độc lập cũng dần dần bừng cháy. Trên thi đàn Việt Nam có vô số tác phẩm lấy lòng yêu nước làm chủ đề sáng tác, thế nhưng “Việt Bắc” vẫn nổi bật giữa “rừng thơ” nhờ vào tài năng và tình cảm của tác giả. Tôi đã từng nghe một câu hát rất hay “người đã ra đi không thể trở lại, vết thương ngày nào không thể liền da”, thế nhưng trong tâm hồn của mỗi chúng ta, Tố Hữu sẽ mãi “sống”, mãi tồn tại nơi trái tim này, cùng với tiếng thơ ông, sẽ dẫn dắt ta trên bước đường xây dựng Tổ quốc và tương lai.

Nguồn : Em Nguyễn Thanh Thảo, lớp 12A1, trường THPT Long Xuyên, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

    Back to top button