Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Hướng dẫn phân tích bài Tây Tiến của Quang Dũng với những gợi ý hay và bài văn mẫu đặc sắc giúp em đạt điểm cao khi làm bài văn phân tích Tây Tiến
Tài liệu hướng dẫn phân tích bài thơ Tây Tiến sau đây sẽ giúp các bạn cảm nhận đúng tư tưởng, tình cảm mà tác giả Quang Dũng muốn gửi gắm thông qua bài thơ. Cùng phân tích từng câu thơ, từng chi tiết quan trọng của bài thơ để thấy hình ảnh một Tây Tiến vừa lãng mạn, vừa bi tráng gắn liền với vẻ đẹp kiêu hùng của bức chân dung người lính.
Đề bài: Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng.
I. Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Tây Tiến full các dạng bài từ phân tích, cảm nhận, hình tượng người lính Tây tiến,…
1. Tác giả Quang Dũng
a) Tiểu sử cuộc đời
– Quang Dũng (1921 – 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
– Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957, một nghệ sĩ đa tài thuộc thế hệ thơ tài năng, trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng Tám.
– Trước cách mạng tháng Tám, ông học Ban trung học trường Thăng Long và sau khi tốt nghiệp, ông đi dạy học tư ở Sơn Tây.
– Sau Cách mạng tháng Tám, ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam, công tác ở phòng Quân vụ Bắc bộ, sau đó trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu Khu II.
– Sau khóa học Trường bổ túc trung cấp quân sự ở Sơn Tây, ông tham gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai và được cử làm Phó đoàn võ trang tuyên truyền Lào – Việt.
– Cuối 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III và xuất ngũ năm 1951
– Sau 1954, ông làm Biên tập viên tại báo Văn nghệ, rồi chuyển về làm việc tại Nhà xuất bản Văn học.
– Ông mất ngày 13 – 10 – 1988 sau một thời gian dài chiến đấu với bệnh tật.
– Năm 2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
b) Sự nghiệp văn học
– Sự nghiệp thơ của Quang Dũng cùng thời với những tên tuổi vang bóng như Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên…
– Quang Dũng là người đi nhiều, viết nhiều, thực tế từ những chuyến đi đã là mạch nguồn sáng tạo cho Quang Dũng trong các lĩnh vực làm thơ, viết văn, vẽ tranh, làm nhạc.
– Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, cũng như đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các họa sĩ nổi danh.
– Các tác phẩm chính: Mùa hoa gạo (tập truyện ngắn, 1950), tập thơ Bài thơ sông Hồng (1956), Rừng biển quê hương (1957), Đường lên châu Thuận (bút kí, 1964), Làng Đồi đánh giặc (hồi ký, 1976), Mây đầu ô (thơ, 1986), Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988),…
c) Phong cách sáng tác
– Hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
+ Quang Dũng là một hồn thơ đậm màu sắc lãng mạn: Ông tiếp thu ảnh hưởng của Thơ mới lãng mạn trên nhiều phương diện (cái tôi trữ tình giàu cảm xúc, nỗi buồn sâu thẳm tự bên trong, chất nhạc, chất họa trong thơ, sự tự do của hình thức biểu hiện…)
+ Nỗ lực đưa hiện thực đời sống và chất tự sự vào thơ: bối cảnh của chiến tranh, những mất mát, hy sinh, vất vả của người lính, của nhân dân, những ngõ gạch bị đập bỏ, những ngôi làng bị tàn phá, những người em mất nhà, mất cửa, những người lính hy sinh “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, một em gái “mê sảng sốt hồng đôi má” trong một quán nước nghèo bên đường…
+ Sự kết hợp hài hòa giữa lãng mạn và hiện thực, giữa cổ điển và hiện đại, giữa thơ và nhạc, họa, sự giản dị mà tài hoa trong ngôn ngữ.
– Ngoài làm thơ, ông còn viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Bài hát Ba Vì do ông sáng tác đã nổi tiếng ở trong khu kháng chiến thời bấy giờ.
Chân dung nhà thơ Quang Dũng – tác giả của “Tây Tiến”
2. Tác phẩm Tây Tiến
a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ
– Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1947 là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh, sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập từ đó với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào. Sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thì thành lập nên Trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở đơn vị mới Phù Lưu Chanh (Hà Đông) ông đã cho ra đời bài thơ Tây Tiến.
– Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập thơ Mây đầu ô (1986) với tiêu đề ban đầu là Nhớ Tây Tiến.
b) Giá trị nội dung và nghệ thuật
– Giá trị nội dung: Bài thơ khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ.
– Đặc sắc nghệ thuật: Cảm hứng và bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng, sử dụng ngôn từ đặc sắc, kết hợp chất nhạc và chất họa, nhịp thơ linh hoạt.
c) Ý nghĩa nhan đề Tây Tiến
– Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thành lập vào đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.
– Nhan đề gợi về một thời chiến đấu gian khổ nhưng giàu chất thơ của đoàn quân Tây Tiến cùng với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng, với đồng đội từng chung gian khổ vui buồn và những sinh hoạt thắm tình đồng đội, tình quân dân.
– Nhan đề còn gợi lên chân dung của người lính Tây Tiến, những người anh hùng với vẻ đẹp hào hùng và rất đỗi hào hoa.
3. Bối cảnh sáng tác Tây Tiến
a) Bối cảnh lịch sử
– Chiến tranh Đông Dương (1946 – 1954): “Tây Tiến” được sáng tác trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, khi quân đội Việt Nam đang chiến đấu gian khổ trên chiến trường Tây Bắc.
– Cuộc hành quân Tây Tiến (1948): Bài thơ được viết dựa trên trải nghiệm thực tế của tác giả Quang Dũng khi tham gia đoàn quân Tây Tiến, một đơn vị thiện chiến của quân đội Việt Nam được lệnh tiến vào Tây Bắc để mở rộng chiến trường, tiêu diệt quân Pháp, bảo vệ biên giới phía Tây. Quân đội Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, nguy hiểm như địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, quân địch mạnh…
b) Bối cảnh xã hội
– Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, hy sinh vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam lên đến đỉnh cao.
– Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, quân đội và nhân dân Việt Nam vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.
– Cuộc kháng chiến chống Pháp đã tạo nguồn cảm hứng dồi dào cho văn học nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca.
c) Bối cảnh cá nhân tác giả
– Quang Dũng là một nhà thơ, chiến sĩ cách mạng, ông trực tiếp tham gia chiến trường Tây Tiến, chứng kiến những mất mát, hy sinh của đồng đội.
– Những trải nghiệm chiến trường đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn ông, tạo nên chất liệu cho sáng tác “Tây Tiến”.
– Sự kết hợp giữa lí tưởng cách mạng và tình cảm cá nhân: Bài thơ thể hiện rõ sự kết hợp hài hòa giữa lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước và tình cảm cá nhân, sự tiếc thương, nhớ nhung của tác giả dành cho đồng đội.
=> Bối cảnh lịch sử, xã hội và cá nhân nói trên của Quang Dũng đã tạo nên một bức tranh bi tráng, hào hùng về cuộc chiến tranh và con người Tây Tiến. “Tây Tiến” là minh chứng cho sức mạnh của nghệ thuật, thể hiện lòng yêu nước, tinh thần lạc quan, lòng dũng cảm, sự hy sinh cao cả của con người trong thời chiến. Bài thơ đã trở thành một biểu tượng cho tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam.
d) Khái quát về đoàn quân Tây Tiến
– Tây Tiến là binh đoàn chủ lực của quân đội ta thành lập thời đầu chống Pháp (1947) nhằm mở cuộc hành quân lên Tây Bắc, phối hợp với quân đội Lào chống thực dân Pháp. Tây Tiến là đơn vị đầu tiên của Việt Nam đi làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào, lập những chiến công hiển hách góp phần vào việc đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược khỏi ba nước Đông Dương. Nhiệm vụ của đoàn binh ấy là “đi tới những miền chưa có bóng cờ của quân đội Việt Nam, gây cơ sở, gây cảm tình với Nhân dân ở những nơi mà quân đội của khu chúng ta sắp phải hoạt động”.
– Khi trở lại đồng bằng sông Hồng, trung đoàn Tây Tiến (lúc này còn gọi là trung đoàn 52) lại tiếp tục giao chiến ác liệt với các lực lượng lính Âu Phi tinh nhuệ, được trang bị các loại vũ khí hạng nặng và có không quân yểm trợ. Những trận đánh vang dội ở Yên Ninh, Yên Thổ, chợ Cầu Đôi, chợ Cổng, chợ Tầm Phương, Hạ Đồng…
– Lính Tây Tiến chủ yếu là những thanh niên Hà thành, trong đó có cả những học sinh sinh viên đang còn lứa tuổi học tập đã phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết để tham gia chống giặc ngoại xâm. Họ mang theo thơ và đàn ra chiến trường trong khi chưa biết bắn súng. Có binh sĩ chế độ cũ, có cả dân anh chị ở Hải Phòng và những thanh niên dân tộc trước đó chỉ biết nương rẫy. Ngoài một số ít đã được huấn luyện, đa số tân binh còn chưa biết cách cầm súng. Tuy nhiên, trải qua nhiều trận mạc trên đường hành quân, trung đoàn Tây Tiến đã trở nên thiện chiến và trở thành lực lượng đáng gờm đối với quân Pháp.
– Cuộc sống nơi rừng núi heo hút, hoang dã với nhiều thiếu thốn, vất vả mà lại phải hành quân qua nhiều địa hình hiểm trở, chiến sĩ ta phần đông từ đồng bằng, thành phố lên, lần đầu hoạt động trên chiến trường rừng núi, không quen với khí hậu, thời tiết khắc nghiệt của vùng cao nên phần lớn sau cuộc hành quân là ốm đau, kiệt sức, đã có rất nhiều chiến sĩ hi sinh bỏ mình lại với rừng già hoang vắng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ vừa đi vừa phải chống chọi với cơn sốt rét. Có đại đội đến 70% quân số bị đau ốm mà thuốc chữa bệnh lại không có. Tuy điều kiện vất vả nhưng cũng đem đến cho họ những cảm xúc lãng mạn. Những người lính Tây Tiến mang theo cuộc hành quân gian khổ ấy những hành trang của tuổi thanh niên học đường thơ mộng.
– Việc ăn uống của đoàn quân hầu hết dựa vào bản làng đồng bào dân tộc sống dọc đường hành quân. Nhưng bữa đói nhiều hơn bữa no, vì bản làng ở núi rừng thời ấy rất thưa thớt và đa phần nghèo khổ. Ngoài việc giúp bác sĩ quân y, đội nữ y tá Tây Tiến còn lo cả chuyện nấu ăn cho thương bệnh binh vì không có anh nuôi.
4. Một số nhận định về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến
Dưới đây là những nhận định của các tác giả, nhà phê bình văn học về nhà thơ Quang Dũng và bài Tây Tiến mà các em có thể trích dẫn trong bài phân tích của mình:
“Hay đến nỗi ta không khỏi ngạc nhiên mà nghĩ rằng tại sao trong những ngày đầu non nớt của nền thơ ca kháng chiến và cách mạng mà chúng ta lại có được một tác phẩm thơ tuyệt diệu đến thế, kinh điển đến thế mà cũng hiện đại đến thế”.
(Nhà thơ Anh Ngọc)
“Đọc Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”.
(Nhà thơ Xuân Diệu)
“Quang Dũng là một trong những người đàn anh có ảnh hưởng lớn đến sáng tác đối với lớp nhà thơ tiếp nối. Mặc dù Quang Dũng đã đi xa nhưng những vần thơ còn mãi.”
(Nhà thơ Nguyễn Thanh Kim)
“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.”
(Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp)
“Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”.
“Cái độc đáo của Quang Dũng đã giúp ông “không lẫn vào đâu được. Ngay cả bài thơ “Tây Tiến” có những bập bềnh, nhưng rồi chính từ những chỗ ngỡ khác lạ với một thời cụ thể lại sống mãi với mọi thời. Quang Dũng đã giác ngộ cho tôi rằng hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một gia đoạn nào đó, nó có thể chưa được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.”
(Nhà thơ Vũ Quần Phương)
“Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”.
(Nhà thơ Vân Long)
“Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bị lụy, não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc của Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể – nỗi nhớ đồng đội trong đoàn Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết, tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này”
(Vũ Thu Hương, “Vẻ đẹp văn học cách mạng”)
II. Phân tích bài thơ Tây Tiến
1. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc
a) Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội
Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
– Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi;
– Sương rừng mờ ảo, phủ dày đặc che kín như vùi lấp cả đoàn quân: “sương lấp đoàn quân mỏi”
– Các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”, nghệ thuật điệp “Dốc lên… dốc lên” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh. -> Vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm của núi rừng.
– Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
– Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
=> Núi non trùng điệp, hiểm trở, dốc núi, vực sâu với những con đường quanh co, gập ghềnh, đứt đoạn… đều là những cảnh tượng lạ lẫm đối với những chàng trai Hà thành.
– Sự de dọa của thú dữ ở vùng thấp và tối: Hình ảnh nhân hóa “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
– Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.
b) Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình
– Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” gợi cảm giác nhẹ nhàng, êm ả.
– Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, mang đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông…”, “cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em…”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
+ Mưa rừng nhìn từ đỉnh núi với những ngôi nhà bồng bềnh trong biển mưa.
+ Hình ảnh “cơm lên khói, mùa em thơm nếp xôi” ấm áp, yên bình mang cảm giác chạnh lòng nhớ về gia đình.
– Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
+ Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
+ Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
c) Vai trò của hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ
– Vừa là bối cảnh vừa là nhân tố góp phần tạo nên vẻ đẹp bi tráng, hào hùng của con người Tây Tiến. Vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc tạo nên sự tương phản với cuộc sống chiến tranh khốc liệt, gian khổ của người lính làm nổi bật thêm vẻ đẹp tâm hồn, tinh thần của con người Tây Tiến, sự hy sinh cao cả của họ cho độc lập tự do của đất nước.
– Cung cấp chất liệu, nguồn cảm hứng cho Quang Dũng sáng tác nên những hình ảnh thơ đẹp và âm hưởng da diết.
2. Bức chân dung người lính Tây Tiến
a) Chân dung hiện thực người lính Tây Tiến
– Ngoại hình khác thường do hiện thực nghiệt ngã, khốc liệt của chiến tranh:
+ “đoàn binh không mọc tóc”: Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc
+ “quân xanh màu lá”: da họ xanh như lá cây, gầy guộc, tiều tụy cũng vì sốt rét rừng.
– Tính cách anh hùng, nét oai phong, dữ dằn như chúa tể chốn rừng thiêng:
+ “dữ oai hùm”: hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến, chí khí của họ vẫn như con hổ nơi rừng xanh.
-> Những người lính Tây Tiến sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất mạnh mẽ chứ không hề yếu.
b) Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến
– Giữa núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, người lính Tây Tiến vẫn tìm thấy vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình:
+ Sương chiều bảng lảng đầy thi vị, bao trùm khiến không gian trở nên mờ ảo, như hư, như thực.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
+ Thiên nhiên như có linh hồn, hay cũng chính là ẩn dụ của vẻ đẹp giản dị, gần gũi, hồn hậu của những con người miền Tây trên sông nước mênh mông:
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
– Chiến đấu dũng cảm nhưng cũng rất nhớ quê hương, gia đình, người yêu với tất cả tình cảm sâu nặng:
+ Lấy hình bóng người thương là những cô gái Hà Thành duyên dáng, xinh đẹp trong giấc mơ làm động lực chiến đấu:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
– Tinh thần lạc quan, yêu đời trong hoàn cảnh chiến tranh: Đối mặt với hiểm nguy, cái chết cận kề, người lính Tây Tiến vẫn giữ được tinh thần bất khuất, kiên cường và niềm tin vào ngày mai tươi sáng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
– Nguồn gốc của tâm hồn lãng mạn:
+ Tuổi trẻ, nhiệt huyết: Người lính Tây Tiến đa phần là thanh niên, trí thức trẻ, mang trong mình khát vọng cống hiến, lý tưởng cao đẹp.
+ Tình yêu quê hương đất nước: Tình yêu quê hương đã trở thành động lực để người lính Tây Tiến vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
+ Vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ: Núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ đã khơi dậy trong lòng người lính những cảm xúc lãng mạn, bay bổng.
=> Góp phần làm nên vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, giúp người lính vượt qua khó khăn, gian khổ đồng thời tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của bài thơ.
c) Lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả
– Ý chí sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho tổ quốc: Trong cuộc hành quân gian khổ và chiến đấu ác liệt nơi miền Tây hiểm trở, người lính Tây Tiến đã không tiếc máu xương, cống hiến tuổi trẻ của mình, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
+ “rải rác biên cương mồ viễn xứ”
+ “chẳng tiếc đời xanh”
– Sự hi sinh cao cả:
+ Hy sinh về thể xác: Người lính Tây Tiến phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, bệnh tật và cả cái chết nơi chiến trường:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
+ Hy sinh về tinh thần: Xa gia đình, người yêu, sống trong cảnh thiếu thốn, hiểm nguy, người lính Tây Tiến vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, không nao núng, không lùi bước.
+ Hy sinh cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc riêng tư: Họ chấp nhận gác lại những ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ để lên đường chiến đấu, bảo vệ đất nước.
– Xem nhẹ cái chết, sự hi sinh như trở về với đất mẹ yêu thương:
+ “anh về đất”: sự ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
+ “áo bào”: cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa được nhà vua ban tặng áo bào khi thắng trận trở về.
+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”: thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
=> Dù trong hoàn cảnh khó khăn những người lính Tây Tiến vẫn có những nét lãng mạn, hào hoa, vẻ đẹp kiêu hùng, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc.
– Lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây Bắc:
+ Câu thơ nhắc nhớ lại ý nguyện, quyết tâm ra đi một thời của đoàn quân Tây Tiến, còn là sự tiếc thương những đồng đội đã hi sinh “thăm thẳm một chia phôi”:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước”
+ Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó của tác giả luôn gửi lại nơi đoàn quân Tây Tiến và vùng rừng núi Tây Bắc:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Hình ảnh người lính Tây Tiến
3. Chủ đề chính của Tây Tiến
– Ca ngợi vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn của con người Tây Tiến:
+ Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với tâm hồn lãng mạn, yêu đời, khao khát chinh phục thiên nhiên, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn và nguy hiểm.
+ Dù chiến tranh khốc liệt, người lính Tây Tiến vẫn giữ vững niềm tin, lòng dũng cảm, luôn hướng về chiến thắng.
+ Người lính Tây Tiến chiến đấu vì độc lập tự do của đất nước, dù phải hy sinh cũng không ngần ngại.
– Tưởng nhớ, tôn vinh những hy sinh cao cả của các chiến sĩ:
+ Bài thơ thể hiện sự tiếc thương, nhớ nhung của tác giả dành cho những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh.
+ Qua hình ảnh những người lính Tây Tiến hy sinh, bài thơ còn nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của họ vì tổ quốc.
– Bày tỏ tình cảm yêu quê hương đất nước:
+ Qua hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, qua cuộc sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến, bài thơ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của tác giả.
+ Bài thơ còn là niềm tự hào về sức mạnh của dân tộc Việt Nam, về sự kiên cường, bất khuất của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
III. Giá trị nội dung và nghệ thuật Tây tiến
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
a) Giá trị nội dung
– Khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, hoang sơ, vừa tráng lệ và thơ mộng.
– Xây dựng thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp bi tráng, hào hùng, lãng mạn trên chặng đường hành quân gian khổ
b) Giá trị nghệ thuật
– Hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi, kết hợp hài hòa giữa tả thực và lãng mạn
– Ngôn ngữ thơ giàu sức biểu cảm, đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm…
– Sử dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hóa…
– Vần điệu, nhịp thơ linh hoạt, tạo nên sự độc đáo cho bài thơ
– Giọng điệu thơ khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng…
» Đọc thêm: Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Để làm được một bài văn phân tích hay và sâu sắc, ngoài việc nắm chắc cách làm dạng văn phân tích và nội dung, nghệ thuật của tác phẩm cần phân tích, các em cần đọc tham khảo nhiều bài văn mẫu hay để có thêm những góc phân tích mới mẻ về bài thơ cũng như mở rộng thêm vốn từ ngữ khi trình bày. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích Tây Tiến do THPT Ngô Thì Nhậm tổng hợp được gửi tới các em tham khảo.
IV. Bài văn mẫu đạt điểm cao phân tích bài thơ Tây Tiến
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông) anh viết bài thơ Tây Tiến. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thanh Hóa. Những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ. Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.
Bài thơ gồm bốn đoạn thơ, mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,… liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có họa (thi trung hữu họa). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan của Lý Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên).
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,… Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền tây tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cảnh đẹp, của cõi mơ và của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng “đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng”.
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó qua ngòi bút của ông không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ oai phong, dữ dằn của những còn hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ.
Những người lính Tây Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”, mặt khác chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). Họ có vẻ tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng.
Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất) và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Nguồn: Sưu tầm
Tài liệu tham khảo
– https://vanhocnghethuat.quangngai.gov.vn/i751-nhung-ket-hop-sang-tao-doc-dao-tao-nen-suc-hap-dan-trong-tho-quang-dung.aspx
– http://vannghequandoi.com.vn/dong-chay/danh-gia-toan-dien-su-nghiep-va-vi-tri-van-hoc-su-cua-quang-dung_12699.html
– https://vhnt.org.vn/quang-dung-va-nhung-bai-tho-bat-hu/
– https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/van-hoc-viet-nam/tay-tien-phan-tich-chi-tiet/43413073
“Bài thơ Tây Tiến không chỉ là bài thơ tiêu biểu cho sự nghiệp thơ Quang Dũng, nó còn là niềm vinh dự, thành ‘phiên hiệu’ nổi tiếng của một trung đoàn bộ đội. Bài thơ đã khắc vào bia đá, bia tưởng niệm các liệt sỹ và ghi chiến tích trung đoàn 52 Tây Tiến dựng ở Mai Châu.”(Nhà thơ Vân Long)
» Xem thêm:
- Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến
- Bình giảng đoạn thơ đầu bài Tây Tiến
Với những hướng dẫn chi tiết trên đây, hy vọng các em đã nắm được cách làm bài văn phân tích bài thơ Tây Tiến hay và đầy đủ nhất. Ngoài ra, còn rất nhiều bài Văn mẫu 12 hay được THPT Ngô Thì Nhậm chọn lọc và thường xuyên cập nhật để phục vụ việc học tập cho các em. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!