Giáo dụcLớp 11

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà hay nhất (12 Mẫu)

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà lớp 11 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 12 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà
Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Dàn ý Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Dàn ý Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Số 1

I. Mở bài

* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Giới thiệu tác giả:

+ Tản Đà được mệnh danh là nhà thơ “nằm vắt ngang mình giữa hai thế kỷ”.

+ Là cầu nối văn học giữa nền văn học trung đại và hiện đại, là người đặt nền móng cho Thơ mới.

– Giới thiệu tác phẩm: “Hầu trời” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ cái “tôi” của Tản Đà.

II. Thân bài:

* Khái quát chung:

– Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” và được xuất bản vào năm 1921.

– Bài thơ là câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ và có thể tóm tắt bài thơ theo trình tự thời gian:

+ Mở đầu là lúc nhân vật giải thích lý do tại sao mình được lên trời đọc thơ.

+ Khung cảnh khi đọc thơ và thái độ của trời.

+ Kết thúc là cuộc chia tay đầy lưu luyến.

* Phân tích

– Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:

+ Từ câu chuyện vốn là hư cấu nhưng với việc lặp lại 3 lần chữ “thật”, tác giả đã khẳng định cho độc giả về sự thật này.

+ Câu chuyện bắt đầu từ một đêm khuya vắng, nhà thơ ngồi dậy đun nước rồi ngâm nga những câu thơ “vang cả ngân hà” khiến ông Trời “mất ngủ”.

→ gợi sự tò mò cho người đọc

– Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời”:

+ Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

+ Đối với niềm hăng say thơ ca của thi sĩ, các chư tiên vô cùng tán thưởng, biểu dương.

+ Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình bằng việc mượn lời tán thưởng của Trời.

+ Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy cũng như sự hỗn loạn của văn chương bấy giờ.

– Cuối cùng là cuộc chia tay trong xúc động và sự tiếc nuối của nhà thơ khi nhận ra đó chỉ là một giấc mộng.

* Đánh giá chung

– Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc.

– Bài thơ đã khép lại nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.

Dàn ý Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Số 2

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời

  • Tản Đà (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.
  • Hầu trời trích từ tập “Còn chơi” thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và văn nghệ sĩ đương thời nói chung.

– Dẫn dắt vào vấn đề.

II. Thân bài

a) Luận điểm 1: Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe

– Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:

  • Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “Đọc hết văn vần sang văn xuôi / Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
  • Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình con là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết…”
  • Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.

=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

– Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.

  • Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
  • Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng… Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…

=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.

b) Luận điểm 2: Thi nhân trò chuyện với trời:

– Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình => Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.

– Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cõi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.

=> Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.

=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.

=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.

c) Luận điểm 3: Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân

+ Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.

=> Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

+ Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời -> Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.

=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản Đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Nêu nhận xét, cảm nhận chung của em

– Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

12 Bài mẫu Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà hay nhất

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 1

Nếu cái tôi của Xuân Diệu “là Một, là Riêng, là Thứ nhất” thì cái tôi của Tản Đà là cái tôi lãng mạn, ngông nghênh, phóng túng thể hiện khát khao khẳng định bản thân giữa cuộc đời. Khát khao ấy được ông thể hiện qua bài thơ “Hầu trời”. Đây là bài thơ được in trong tập “Còn chơi” được xuất bản năm 1921.

Ta đã bắt gặp ước mong lên thiên đình của Tản Đà qua bài thơ “Muốn làm thằng cuội”. Chốn thiên đình, nơi bồng lai tiên cảnh đã trở thành một đề tài quen thuộc của văn chương trung đại. Dường như nhà thơ Tản Đà không tìm được người tri kỉ với mình trong lĩnh vực thơ ca ở chốn hạ giới nên ông phải đi tìm tri âm ở chốn thiên đình. Thơ ông được ví là bình cũ rượu mới với những đổi mới về hình thức, thủ pháp nghệ thuật và ông được coi là “gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại”. “Hầu trời” được viết dưới dạng những lời kể tự sự, kể lại việc nhà thơ tưởng tượng mình lên thiên đình gặp trời và các chư tiên để đọc thơ:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà hay nhất (12 Mẫu)

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”.

Câu chuyện nhà thơ kể xảy ra vào thời gian “đêm qua” yên tĩnh, không gian vắng lặng nhưng lại “chẳng biết có hay không”, nửa thực nửa ngờ. Chuyện lên cõi tiên của Tản Đà có thể khiến nhiều người không tin tưởng vào độ chính xác của nó nhưng nhà thơ khẳng định rằng đó là sự thật, không “mơ mòng”, không “hoảng hốt”. Điệp từ “thật” lại thêm một lần nữa chứng minh câu chuyện mà tác giả sắp kể không phải là hư cấu. Tản Đà đã gặp được tiên và có cảm giác “sướng lạ lùng” rất khó diễn tả. Cảm giác ấy đã làm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện mà nhà thơ sắp kể. Tản Đà thật khéo léo khi “vào đột ngột câu đầu, cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta” (Xuân Diệu). Quả thực, cách mở đầu câu chuyện của nhà thơ rất cuốn hút và độc đáo, tạo được sự chú ý, tò mò cho bạn đọc.

Ông đã thuật lại việc mình được Trời sao gọi rất tỉ mỉ. Tác giả đang nằm một mình lúc canh ba sau đó dậy đun nước uống rồi ngâm văn. Nhưng “chơi văn ngâm chán lại chơi trăng” thì bỗng nhiên gặp hai cô tiên xuống nói rằng:

“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga

Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà

Làm Trời mất ngủ,Trời đương mắng

Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Đó cũng là nguyên nhân mà Trời sao tiên nữ xuống gọi Tản Đà lên đọc cho Trời nghe. Vậy là niềm mong ước bấy lâu nay của Tản Đà đã được toại nguyện. Ông theo hai cô tiên “lên đường mây” và trông thấy “Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ” và trông thấy cả cửa trời huyền bí. Các vị chư tiên đã ngồi yên lặng, Trời “truyền cho văn sĩ đọc văn nghe”.

Thi sĩ đã có cơ hội bộc lộ hết niềm say mê của mình với văn chương:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.

Và bày tỏ lòng biết ơn sự thiết đãi của Trời như việc Trời truyền cho văn sĩ ngồi ghế bành, thưởng thức chè trời “nhấp giọng” bằng việc thể hiện hết tài năng của mình. Những áng văn vần,văn xuôi của Tản Đà khiến Trời thích thú, “cũng lấy làm hay”. Điều ấy được thể hiện qua hành động “Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi”, các tiên nữ trên trời như Hằng Nga, hai thị nữ Song Thành, Tiểu Ngọc của Tây Vương Mẫu, hay Chức Nữ cũng “lắng tai” nghe và vỗ tay cổ vũ tinh thần cho ông. Tản Đà không dám dối trá với Trời khi kể tên các tập thơ của mình như: “Khói tình”, “Khối tình con”, “Thần tiền”, “Giấc mộng”, “Đài gương”, “Lên sáu”, “Đàn bà Tàu”, “Lên tám”, tổng tất cả ông có mười tác phẩm lớn bao gồm cả “văn thuyết lí’, “văn chơi”, “văn vị đời”, “văn tiểu thuyết”, “văn dịch”. Tài năng của ông không chỉ được thể hiện ở một loại văn mà nó được thể hiện phong phú trên nhiều thể loại khác nhau. Chỉ có trong văn chương, Tản Đà mới bộc bạch hết những khao khát, đam mê, ước muốn của bản thân. Đồng thời tác giả cũng thể hiện lòng biết ơn của mình dành cho Trời qua câu thơ:

“Nhờ Trời văn con còn bán được

Chửa biết con in ra mấy mươi?”

Trong lúc chưa biết in ra bao nhiêu số lượng tác phẩm để bán thì Tản Đà nhận được lời mời của các vị chư tiên: “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”. Chắc hẳn văn chương của ông sẽ trở thành mặt hàng đắt giá chốn chợ Trời chứ không “rẻ như bèo” ở chốn hạ giới.

Được thưởng thức tài năng của Tản Đà, Trời và các chư tiên hết lời khen ngợi:

“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít

Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Nhà thơ đã không ngần ngại mượn lời của Trời để tự dành lời khen cho thơ ca của mình. Cái Tôi của ông quả là cái tôi đầy khí phách và ngông nghênh. Tuy giọng điệu, lời thơ có chút hài hước, cao ngạo nhưng hơn ai hết ông ý thức được tài năng của mình và rất tự tin khi thể hiện bản ngã. Phép so sánh thơ của Tản Đà “đẹp như sao băng”, “hùng mạnh như mây chuyển”, “êm như gió thoảng”, “tinh như sương”, “lạnh như tuyết” đã cho thấy thơ ông đẹp từ lời lẽ đến chí khí.

Ý thức rõ về tài năng của bản thân, Tản Đà đã dõng dạc trả lời câu hỏi về tên tuổi, nơi ở của Trời:

“Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á Châu và Địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

Những câu giới thiệu của ông rõ ràng, minh bạch nhưng cũng hết sức táo bạo khi bị “Đày xuống hạ giới vì tội ngông”. Tản Đà tự hào khi là người con của nước Nam Việt có quê ở Á châu, Địa cầu. Qua đó, ông cũng kín đáo trình bày lí do mình có bút danh là Tản Đà bởi quê hương ông là nơi có núi Tản, sông Đà. Ông đã ghép tên núi và tên sông để lấy làm bút danh. Từ đó cho thấy tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ:

“Sông Đà núi Tản đúc nên ai

Trần thế xưa nay được mấy người

Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc

Thanh cao phô trắng một nhành mai”.

Nhưng Trời không “đầy” Tản Đà xuống hạ giới mà Trời sai ông làm việc “thiên lương của nhân loại”. Thiên lương ở mỗi con người tùy thuộc vào sự tu dưỡng của bản thân, Trời giao cho ông nhiệm vụ là bằng cách nào đó hãy làm thiên lương của con người được hưng thịnh ở chốn hạ giới. Đó cũng là trọng trách, trách nhiệm của các nhà văn, nhà thơ vì văn chương chính là “thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo vừa thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam).

Biết rằng đó là nhiệm vụ của những người cầm bút nhưng Tản Đà cũng thẳng thắn trình bày những nỗi khổ riêng của mình khi kiếm sống bằng nghề này:

“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố.

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi càng cao

Sức trong non yếu ngoài chen dấp

Một cây che chống bốn năm chiều.

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”.

Nhà thơ đã bày tỏ chân thành những nỗi lòng và sự khó khăn của nhân dân nói chung và của mình nói riêng ở cuộc sống hạ giới để Trời hiểu thấu. Cuộc sống của các nhà văn, nhà thơ không hề giàu sang, phú quý mà lại rất nghèo khó, túng thiếu. Văn chương là nghề nghiệp để Tản Đà kiếm sống vậy nhưng nó lại rẻ rúng như bèo bọt, không có lời có lãi. Hơn nữa, tiền “kiếm được” thì ít mà tiền phải tiêu thì nhiều, quanh năm không đủ tiêu. Cuộc sống đã nghèo túng nay lại càng nghèo túng hơn. Đó cũng là hiện thực xã hội nước ta lúc bấy giờ. Chính vì lí do đó, Tản Đà muốn lên thiên đình để giãi bày với Trời, để tìm được tiếng nói tri âm trên thế giới thần tiên ấy. Cuộc sống của nhà thơ phải xoay vòng với nỗi lo cơm áo gạo tiền, lo ăn, lo mặc, “học ngày một kém tuổi ngày cao” nên được Trời giao phó cho “việc nặng quá” nên Tản Đà không chắc chắn mình có làm được hay không “mà dám theo”.

Qua những lời tâm sự đầy chua xót của nhà thơ, Trời đã khuyên nhủ và an ủi rằng:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

Lời khuyên nhủ của Trời rất sâu sắc và thấm thía. Những nỗi lòng của Tản Đà Trời đều biết và “thấu hết”. Những người nghệ sĩ chân chính cần biết chấp nhận, vượt qua hiện thực khắc nghiệt và đồng thời họ cũng phải thực hiện nhiệm vụ làm thiên lương con người được hưng thịnh. Đó cũng là nghĩa vụ cao cả của các nhà văn, nhà thơ ở hạ giới.

Kết thúc bài thơ cũng là lúc câu chuyện hầu Trời khép lại. Trời đã sai Khiên Ngưu đóng xe để tiễn Tản Đà về hạ giới. Trở về với hạ giới mà lòng nhà thơ chất chứa những nỗi niềm tiếc nuối. Tác giả ước rằng đêm nào mình cũng được lên hầu Trời để bày tỏ hết những nỗi niềm thầm kín.

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”

Bài thơ “Hầu Trời” đã thể hiện cái tôi bay bổng, ngông nghênh của Tản Đà và ước muốn khẳng định tài năng của ông. Tác phẩm này được viết theo thể trường thiên khá tự do, giọng điệu dí dỏm, hóm hỉnh, ngôn từ giản dị. “Hầu Trời” đã thể hiện rõ những suy nghĩ của Tản Đà về văn chương trong buổi giao thời. Ông thật xứng đáng với tên gọi “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh).

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 2

Tản Đà (1889-1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn nhà viết kịch và đồng thời là một trong những người dịch thơ cổ hay nhất của Việt Nam ta (đặc biệt là thơ Đường). Trên văn đàn nước ta đầu thế kỷ XX, sự đô hộ của thực dân Pháp, cùng với sự bất lực của triều đình phong kiến trước thời cuộc, đã khiến lịch sử dân tộc có nhiều biến động dữ dội, không chỉ về kinh tế chính trị mà theo đó còn là cả văn hóa. Nho học đã không còn chỗ đứng, các thể loại thơ cổ, ý nhiều lời ít trở nên cũ rích, lạc hậu và không còn hợp thời. Điều đó thôi thúc sự nổi lên và nở rộ của một số ngòi bút biết cách tân và nhạy cảm trước thời cuộc, một trong số đó chính là Tản Đà. Nếu Hoài Thanh, Hoài Chân thường nhắc đến Thề non nước hay Tống biệt như là những bài thơ tiêu biểu của Tản Đà, bởi nó có mang một chút lòng yêu nước mờ mờ ẩn hiện, chủ đề chuyên chính nhất trong văn học trung đại và văn học mọi thời đại. Nhưng thực tế xem xét kỹ ta mới thấy được, để đánh giá Tản Đà là nhà thơ nổi lên như một ngôi sao sáng cuối thời trung đại, với tài năng và khả năng sáng tác dồi dào, đồng thời là “dấu gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại” – người manh nha cho một thời kỳ thơ Mới thịnh vượng gần mười năm và lưu lại giá trị cả trăm năm. Thì có lẽ không nên kể đến những bài thơ trên mà cái tên đáng được nhắc tới phải là Hầu Trời – tác phẩm chứa đựng tất cả những gì mới mẻ, khác biệt trong phong cách và hình thức thơ của Tản Đà buổi giao thời.

Hầu Trời được Xuân Diệu dành cho những lời nhận xét rất đắt rằng đây là một trong số những bài thơ đứng lại được với thời gian, ngạo với năm tháng. Tác phẩm được đưa vào sách xuất bản lần đầu trong tập Còn chơi (1921) với tổng số câu là 120, sau in lại trong Tuyển tập Tản Đà thì bị cắt mất 6 câu còn 114 câu.

Về sáng kiến “hầu trời” phải một ý tưởng mới mẻ gì trong văn học Việt Nam ta, bởi trước đó trong văn học dân gian mô típ tương quan giữa thế giới của thần tiên, quỷ quái với thế giới của con người đã từng xuất hiện rất nhiều trong các câu chuyện dân gian ví như Cóc kiện trời, hoặc trong các tác phẩm truyền kỳ của Nguyễn Dữ ví như Chuyện người con gái Nam Xương hay Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Tuy nhiên khi đến với Hầu Trời, người đọc vẫn bị thu hút bởi nhiều khía cạnh, một trong số đó chính là cách vào truyện đầy độc đáo. Khổ thơ đầu tiên của tác phẩm đã mở ra một không gian hư ảo đầy sương khói mang dáng hình giấc mơ, chứa nhiều những mộng tưởng của người thi sĩ. Đem đến cho người đọc cảm giác tự nhiên khi bước từ thế giới thực tại vào trong giấc mơ của người thi sĩ, việc hầu trời của Tản Đà không còn là câu chuyện viễn tưởng hay huyễn tưởng nữa, mà nó là ý nghĩ trong mộng của người viết. “Đêm qua chẳng biết có hay không?” là một câu nghi vấn của tác giả về chuyện giấc mơ không biết là có hay không, là thực hay ảo, từ đó gợi ra cảm giác bàng hoàng, bâng khuâng của một người vừa bước ra khỏi giấc mộng đẹp. Sau khi bật ra một câu chứa nhiều nghi hoặc tác giả đã tự trả lời luôn cho cái băn khoăn của mình rằng “Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng/Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!/Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”, để khẳng định giấc mơ đêm qua là có thật bằng cách phủ định liên tiếp với những từ “chẳng”, “không”, nhấn mạnh cảm xúc mà mình được trải nghiệm bằng cách lặp lại bốn lần từ “thật”. Dẫn dắt người đọc bước vào giấc mơ đêm, qua sự hồi tưởng của thi sĩ, đủ duyên dáng, hấp dẫn và tự nhiên.

Câu chuyện hầu trời bắt đầu bằng chuyện tác giả đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe. Trước khi đọc thơ thì Tản Đà cũng sơ lược về bối cảnh của nhà nhà trời trong lúc bản thân được đưa lên thiên đình, có cảnh “Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ/Thiên môn đế khuyết như là đây” rồi “Ghế bành như tuyết vân như mây” tái hiện khung cảnh nguy nga tráng lệ, đậm chất tiên chốn bồng lai. Không chỉ vậy tác giả còn kể ra các nhân vật có trên trời ví như Trời, Cơ, Tâm, Hằng Nga, Chức Nữ, Song Thành, Tiểu Ngọc đều là những vị tiên vốn đã quen thuộc với chốn nhân gian qua các câu chuyện cổ tích, hay cả những nhân vật không có tên tuổi ví như các vị tiên nữ, tiên nga hầu trên thiên đình,… mở ra một không gian sinh động, đẹp đẽ và chân thực trong lòng độc giả. Đến cảnh đọc thơ, một phần là cung kính vâng mệnh trời phải đọc cho tử tế, hai là Tản Đà rất tự tin vào thứ văn vẻ của mình thế nên trước mặt chư tiên, thi sĩ làm ra phần cao hứng và chuẩn bị rất kỹ càng, đợi cho “Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc” lại uống thêm miếng trà Trời ban cho để “nhấp giọng” rồi say sưa đọc thơ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi”. Bao nhiêu vốn liếng văn chương chuyến này Tản Đà phô ra hết, “đương cơn đắc ý đọc đã thích” đọc như chưa từng được đọc vậy. Cùng với việc mải miết đọc thơ bản thân thi sĩ còn bộc lộ thái độ tự khen mình rất rõ nào thì “văn dài hơi tốt ran cung mây” rồi thì “Văn đã giầu thay lại lắm lối”, bộc lộ thình tích đồ sộ trong nghiệp sáng tác của mình, vừa đa dạng về thể loại lại phong phú về nội dung. Không chỉ vậy ông còn bộc lộ thái độ tự khen, tự tin của mình thông qua việc thuật lại thái độ của chư tiên khi nghe văn ông:

 “Trời nghe Trời cũng lấy làm hay

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay”.

Tất cả đều thể hiện sự tán thưởng, chăm chú thưởng thức thơ của Tản Đà, đặc biệt thơ ông lại còn được tiên khen chứ chẳng phải kẻ phàm phu tục tử thì cũng đủ hiểu những thứ văn ấy tuyệt vời như thế nào.

Bên cạnh đó Tản Đà cũng rất hào hứng kể về những thành quả trong sự nghiệp sáng tác của mình một cách rành mạch và tự tin, sung sướng, trong những câu:

“Những áng văn con in cả rồi

Hai quyển Khối tình văn thuyết lí

Hai Khối tình con là văn chơi

Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết

Đài gương, Lên sáu văn vị đời

Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch

Đến quyển Lên tám nay là mười

Nhờ Trời văn con còn bán được

Chửa biết con in ra mấy mươi?”

Rồi sau đó thi sĩ bắt đầu tự giới thiệu bản thân mình, xưng tên tuổi quê quán một cách dõng dạc và đầy tự hào “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/Quê ở Á châu về Địa cầu/Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Những cách xử sự ấy của Tản Đà cho thấy ông là một người có bản lĩnh, rất tự tin và đắc chí trong sự nghiệp văn chương, đặc biệt là trong cảnh lên chầu Trời lại như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng phô diễn tài năng hiếm có.

Song hành cũng với thi sĩ chính là thái độ và cảm xúc của người nhà trời khi nghe đọc thơ, mỗi một cá nhân đều có một cảm xúc, cách thể hiện riêng. Trời vốn dĩ oai nghiêm, bệ vệ làm chủ trời đất, đứng đầu chúng tiên thế mà cũng “lấy làm hay” thậm chí hứng chí “bật buồn cười”, rồi mở miệng ngọc phê “Văn thật tuyệt”. Vị chủ sao Tâm thì sung sướng, thích chí như “nở dạ”, ngôi sao Cơ thì thấy thích thú mà “lè lưỡi”, há miệng thán phục như trẻ con. Còn Hằng Nga, Chức Nữ vốn xưa nay nổi tiếng dịu dàng, e lệ, kín kẽ khi nghe thơ của Tản Đà cũng không khỏi “chau đôi mày”, mặt ngọc ra chiều ngẫm nghĩ cho thấu ý văn sâu sắc của thi nhân. Đến Song Thành, Tiểu Ngọc hai thị nữ của Tây Vương Mẫu cũng phải “lắng tai đứng” chăm chú nghe, thích ý quên cả việc hầu hạ. Bên cạnh những cảm xúc riêng ấy thì chư tiên cùng có một điểm chung ấy là “đọc xong mỗi bài đều vỗ tay”, thể hiện sự tán thưởng, hoan nghênh nhiệt liệt trước tài văn chương của Tản Đà, cùng với niềm ao ước mong mỏi có thể sở hữu những áng văn thơ cho riêng mình để nghiền ngẫm bằng lời mời mọc tha thiết “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn: Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”. Từ đó xóa nhòa đi khoảng cách và thân phận của bề trên với kẻ dưới, chỉ còn lại sự yêu mến tha thiết văn chương của độc giả với người thi sĩ tài năng, để cùng nhau trở thành tri âm tri kỷ, đối với người tác giả thì chẳng còn gì sung sướng hơn. Như vậy từ cách mà Tản  Đà thuật lại việc lên trời đọc thơ, và thông qua những cung bậc cảm xúc của chư tiên khi nghe người thi sĩ bộc lộ tài năng chúng ta có thể nhận thấy một số nét phác họa bức chân dung của Tản Đà. Ông hiện lên là một con người rất tự tin, kiêu hãnh về tài năng, nhận thức rất rõ về giá trị của cá nhân. Khi ở trần thế ông cảm thấy bản thân không thể tìm được người thấu hiểu, tri âm, tri kỷ, người tôn trọng, trân quý tài năng của mình, ông đã tìm vượt hẳn lên cõi tiên để chứng minh và tìm kiếm người thấu hiểu thơ văn mình. Và ở cõi tiên ấy, Tản Đà như được lột xác, được sống đúng với bản thân mình, tự tin thể hiện tài năng của mình một cách thoải mái, tự nhiên. Mặc khác, việc tìm tri âm tri kỷ ở cõi trời như vậy cũng hé lộ sự cô đơn, lạc lõng của Tản Đà, của những thi sĩ những người cầm bút sáng tác đương thời, bởi “văn chương hạ giới rẻ như bèo” và những người cầm bút sáng tác như Tản Đà hình như bị rẻ rúng, không mấy ai để ý, xem trọng, dẫn tới việc bất đắc chí ở thế gian, và buộc phải tìm sự đắc chí ở cõi khác.

Sau câu chuyện hầu trời, thì thông qua những lời bộc bạch của Tản Đà, độc giả dễ dàng nhận ra câu chuyện đời của tác giả và của chung những người cầm bút đương thời, những cảnh đời khốn khổ mà theo cách nói của Tản Đà là “thực nghèo khó”. Cụ thể thi sĩ bộc bạch với Trời rằng “Trần gian thước đất cũng không có”, đó là một nỗi ám ảnh, một nỗi đau sâu sắc nhất của thi sĩ nên nó còn trở đi trở lại trong nhiều những bài thơ khác của ông ví dụ như câu “Quê hương thời có cửa nhà thời không” trong Thú ăn chơi chẳng hạn. Rồi nỗi đau thứ hai đó là vốn liếng chỉ mỗi “có một bụng văn”, có tư chất, tài năng, thế nhưng nó lại bị o ép bởi nhiều khía cạnh, tiền giấy mực in, tiền cửa hàng thì đắt đỏ mà khốn nỗi “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, thế nên các nhà văn đương thời vướng phải cảnh trớ trêu “Kiếm được đồng lãi thực rất khó/Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều/Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Người nghệ sĩ lâm vào cảnh bế tắc, chỉ đành rút hết bụng văn chương của mình cốt để mưu sinh, tựa con tằm rút cạn ruột để nhả tơ cho đời vậy. Mà cái nỗi đời cơ cực ấy đã được Xuân Diệu thốt lên đầy cay đắng rằng “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ”. Từ thực cảnh đau xót của mình thi sĩ đã bộc lộ nỗi lòng ngậm ngùi trong câu “Một năm ba trăm sáu mươi đêm/Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!”, tiếc mãi sao chỉ có mỗi một đêm văn chương của mình được có giá trị, được tôn sùng, bản thân mình được công nhận, được tự tin, thoát khỏi chốn trần ai đầy chật vật, bất đắc chí. Bên cạnh đó còn là nỗi nghi ngại về sứ mệnh, về trách nhiệm của người cầm bút. Mà sứ mệnh ấy được Tản Đà khéo léo thể hiện qua việc Thiên Tào tra sổ, thấy Tản Đà vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông cùng với lời truyền, mang tính chất an ủi, động viên của Trời:

“Trời rằng: “Không phải là Trời đày.

Trời định sai con một việc này

Là việc “thiên lương” của nhân loại,

Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

Rồi bản thân Tản Đà thấy lời của Trời thế lại không khỏi nghi ngại “Trời lại sai con làm việc nặng quá/Biết làm có được mà dám theo”. Khi mà bản thân tác giả tự coi mình là một cái “Cái cây che chống bốn năm chiều”, bên ngoài chịu đựng biết bao nhiêu việc o ép như thế, biết có lo nổi việc Trời giao hay không. Từ đó nó trở thành cơ sở cho lời động viên của Trời, với sự thấu hiểu vô cùng:

“Rằng: “Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

 Đồng thời cũng chính là lời tự động viên chính mình của thi sĩ, cố gắng vượt qua những thử thách, giữ được tấm lòng thông trước sương tuyết của cuộc đời, để hoàn thành trách nhiệm với cuộc đời. Trở thành cơ sở để người thi sĩ có quyền “ngông” về bản thân.  Và cũng từ thân phận và cuộc đời người nghệ sĩ đương thời, ta cũng có thêm một vài nét vẽ nữa về Tản Đà. Ông hiện lên trước hết là thái độ “ngông”, bộc lộ qua sự tự tin kiêu hãnh về giá trị của bản thân, khi tự nhận mình là “trích tiên”, được Trời gửi xuống hạ giới vì sứ mệnh cao cả gieo rắc “thiên lương” cho loài người. Cũng cho thấy ông là người rất có trách nhiệm với cuộc đời, cầm bút sáng tác hướng tới chức năng cốt lõi của văn học là nhân đạo hóa con người.

Qua bài thơ Hầu Trời tác giả đã mạnh dạn thể hiện cái tôi cá nhân, một cái tôi rất ngông, rất phóng túng, cái tôi tự ý thức về tài năng và giá trị đích thực của mình, đồng thời khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời. Tác phẩm có một số sáng tạo khi sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động và hóm hỉnh, khiến cho độc giả cảm thấy gần gũi, thú vị.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 3

Tản Đà là một nhà thờ đặc biệt khi cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương của ông đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh). Thơ văn của ông chinh phục khán giả bởi một điệu tâm hồn mới mẻ, với sự hiện diện của “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa ngông nghênh với đời, vừa cảm thương ưu ái. Giữa lúc thơ phú nhà Nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo và tài hoa. Thơ văn của ông có thể xem như một cái gạch nối giữa hai thời đại văn học dân tộc: Trung đại và hiện đại. Bài thơ “Hầu trời” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho điều ấy.

Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ đầy ấn tượng:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Bốn câu thơ đã gây ấn tượng với người đọc khi tạo ra một mối nghi ngờ để khơi gợi trí tò mò. Chuyện có vẻ như mộng mơ, như bịa đặt “chẳng biết có hay không”, nhưng dường như lại là thật, thật hoàn toàn, bởi tác giả đã bồi đắp sau đó ba câu thơ như những lời khẳng định chắc như đinh đóng cột, nhắc đi nhắc lại như để củng cố lòng tin (hai lần phủ định “chẳng phải”, “không”, bốn lần khẳng định “thật…”, lại còn có vẻ như rất chân thành khi diễn tả cảm giác “sướng lạ lùng”). Cảm giác đó làm cho câu chuyện mà tác giả sẽ kể trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt, không ai có thể bỏ qua.

Những câu thơ tiếp theo tác giả kể chuyện được mời lên thiên đình để đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Cảnh đọc thơ cho Trời nghe được kể lại một cách tuần tự, rõ ràng và rất sinh động. Lên thiên đình, thi sĩ được Trời cho ngồi “ghế bành như tuyết vân”, cho uống nước nhấn giọng và truyền “Văn sĩ đọc văn nghe”. Thi sĩ cao hứng:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

…….

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển

Êm như gió thoảng! Tỉnh như sương

Đầm như mưa sa lạnh như tuyết!”

Hết tự khen mình lại mượn lời các chư tiên, rồi mượn lời của Trời để tự khen thơ mình, nhà thơ Tản Đà quả thật rất tự tin và có khí phách. Qua giọng thơ có vẻ hài hước, dí dỏm mà cao ngạo, có thể thấy được tâm hồn của thi sĩ Tản Đà. Ông rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã “cái tôi” cá nhân. Ông cũng rất ngông cuồng khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mìn trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được kẻ tri kỉ, tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện.

Tản Đà cũng đã vẽ lên một bức tranh rất chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và nhiều nhà văn khác – cuộc đời cơ cực, tủi hổ của người nghệ sĩ tài hoa trong xã hội thực dân phong kiến lúc ấy”

“Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó

Giấy người, mực người, thuê người in

Mướn cửa hàng người bán đường phố

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu….”

Bao nhiêu là chuyện cơ cực: nghèo khó, không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn, bị o ép nhiều chiều,…. Bức tranh hiện thực đó giúp người đọc hiểu sao Tản Đà thấy “đời đáng chán”, “trần thế em nay chán nửa rồi”, vì sao ông phải tìm cõi tri âm tận trời cao, phải tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng, chư tiên để thỏa mãn niềm khao khát.

Qua bài thơ “Hầu trời”, Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện bản ngã cái tôi, cái cá nhân, phóng túng, ngông nghênh, tự ý thức đầy đủ về tài năng và giá trị đích thực của mình và niềm khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Hình thức nghệ thuật có nhiều sáng tạo. tài hoa: thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ, giản dị hóm hỉnh.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 4

Mỗi khi giới văn học nhắc đến người “nằm vắt ngang mình giữa hai thế kỷ” người ta sẽ nghĩ ngay đến Tản Đà. Không chỉ vậy ông còn được mệnh danh là cầu nối văn học giữa nền văn học trung đại và hiện đại, là người đặt nền móng cho Thơ mới. Thơ Tản Đà là thơ của cái tôi bay bổng, lãng mạn, của cái tôi yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước. “Hầu trời” là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ cái tôi của ông.

Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” và được xuất bản vào năm 1921. Bài thơ là câu chuyện “hầu trời” của một thi sĩ với lối kể chuyện tự nhiên, giọng điệu say đắm, kết hợp khéo léo giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực. “Hầu trời” tựa như một câu chuyện tự sự với cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật kể chuyện. Vì thế mà ta có thể dễ dàng tóm tắt bài thơ theo trình tự thời gian: mở đầu là lúc nhân vật giải thích lí do tại sao mình được lên trời đọc thơ đến khung cảnh khi đọc thơ và thái độ của trời, rồi kết thúc là cuộc chia tay đầy lưu luyến.

Ngay những câu đầu bài thơ Tản Đà để lại một ấn tượng vô cùng đậm nét với cách dẫn dắt độc đáo của mình:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Vốn dĩ câu chuyện này là hoang đường nhưng với cách kể của mình, tác giả đã khiến người ta phải tin đó là thật, thật một cách tự nhiên không hề gượng gạo. Rõ ràng câu thơ mở đầu là một câu hỏi, chính tác giả cũng đang không rõ thực hư trong câu chuyện này nhưng ba câu thơ tiếp với việc lặp lại ba lần chữ “thật” như một lời khẳng định với bạn đọc về sự thật này. Sau khi khẳng định sự thật về việc được lên trời, Tản Đà bắt đầu những vần thơ để lý giải lý do của nó. Câu chuyện bắt đầu từ một đêm khuya vắng, nhà thơ ngồi dậy đun nước rồi ngâm nga những câu thơ “vang cả ngân hà” khiến ông Trời “mất ngủ”. Câu chuyện có vẻ khó tin nhưng bằng cách kể hóm hỉnh, Tản Đà đã khiến người đọc càng them tò mò về những gì diễn ra sau đó.

Tiếp đó, nhà thơ bắt đầu kể diễn biến của buổi “hầu trời” một cách rất tự nhiên. Đầu tiên, tuân lệnh của Trời, thi sĩ đã đọc thơ của mình cho Trời và các chư tiên nghe:

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe

Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đối với một thi sĩ, thơ ca không chỉ là sự yêu thích mà hơn cả thế nó là đam mê. Thơ ca khiến thi sĩ trở nên thăng hoa trong cảm xúc và hứng thú đến lạ thường:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.

Đối với niềm hăng say này của thi sĩ, thái độ của người nghe cũng vô cùng chăm chú, tập trung thậm chí là tán thưởng, biểu dương: “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”… Các chư tiên còn vô cùng phấn khích, đón nhận khi thi sĩ kể về các tập thơ của mình: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Trong thơ ca, cái tôi là một vấn đề rất hay được mọi người chú ý đến. Thơ ca phải có cái tôi thì mới làm nên vẻ ấn tượng. Và ở những câu thơ tiếp theo, Tản Đà đã thể hiện rất rõ cái tôi của mình:

“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít

Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Bằng việc mượn lời Trời tác giả đã khéo léo ca ngợi văn thơ của mình. Và người ta gọi đây là một hiện tượng chưa từng có trong văn chương. Điều này không chỉ chứng tỏ thi sĩ rất tự tin vào tài năng của mình mà còn muốn tự khẳng định tài năng, nét tài hoa ấy. Khi đặt những câu chữ của mình sánh ngang với vẻ đẹp của thiên nhiên trời đất như sao băng, mây, gió, mưa, tuyết… Tản Đà đã thể hiện rất rõ sự kiêu hãnh về cái hay cái đẹp trong văn chương của mình.

Sau khi nói về tài năng văn chương của mình, Tản Đà hướng ngòi bút của mình kể về cuộc sống của tầng lớp văn nghệ sĩ thời ấy:

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”

Bằng những nét vẽ tả thực, đoạn thơ đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống khốn cùng của văn nghệ sĩ cũng như sự hỗn loạn của văn chương lúc bấy giờ. Trái ngược hoàn toàn với những cảm xúc hưng phấn lúc trước, đoạn thơ này mang một giọng ngậm ngùi, chua xót đến đáng thương. Vốn dĩ câu chuyện hầu trời là một câu chuyện hư cấu và dường như nhà thơ đang tự an ủi chính mình, đang hy vọng về một điều gì đó tốt đẹp hơn cho thế hệ của mình:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

Sau lời dặn dò của Trơi, cuộc chia tay giữa thi sĩ và các chư tiên diễn ra trong xúc động:

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

Trông xuống trần gian vạn dặm khơi

Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống

Theo đường không khí về trần ai”

Những gì đã diễn ra đẹp đến mức, khi thi sĩ bừng tỉnh, nhận ra đó chỉ là một giấc mộng, nhà thơ đã không khỏi tiếc nuối:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đếm lên hầu Trời”.

Những câu thơ đã khép lại bài thơ, khép lại một câu chuyện nhưng dư âm mà nó để lại thì vẫn còn đó. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng lối viết tự nhiên, cách xây dựng câu chuyện có đầy đủ cốt truyện, nhân vật… đã đem đến sự gần gũi, mới lạ cho người đọc.

Người ta nói, “Hầu trời” không chỉ là một câu chuyện hóm hỉnh, vui tươi mà còn gửi gắm những triết lý về cái tôi thơ ca đến cho những nhà văn Việt Nam. Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 5

Nói đến Tản Đà, trước hết người ta nói đến sự nghiệp thi ca của ông. Nói đến thi ca Tản Đà, người ta hay nhắc đến các bài Thề non nước, Tống biệt, Thăm mả cũ bên đường, Cảm thu, Tiễn thu,… Bài thơ Hầu Trời tuy được nói đến ít hơn, và có thể chưa toàn bích, nhưng vẫn là một tác phẩm thật sự xuất sắc. Thậm chí nó có phần tiêu biểu hơn các bài thơ trên nếu xét theo tiêu chí: một tác phẩm lưu lại nhiều “chứng tích giao thời” của thơ ca Việt Nam, lại tạo được sự kích thích cho lớp nhà thơ đến sau muốn thực hiện những cách tân nghệ thuật.

Lên thiên giới, xuống âm cung, sống với tiên, triều kiến Ngọc hoàng Thượng đế, trần tình trước Diêm Vương,… là đề tài thường thấy trong nhiều sáng tác dân gian và văn học viết thời trung đại: Cóc kiện Trời, Từ Thức gặp tiên, Bắc thang lên tận cổng trời, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào, Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên (hai truyện sau nằm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ),… Có bao nhiêu chuyện li kì có thể kể về những chuyến du hành như thế, về cuộc gặp những “con người” như thế. Và hàng loạt vấn đề của tồn tại, của kiếp sống nhân gian cũng theo đó mà được người ta nhận thức một cách sâu sắc. Sang đầu thế kỉ XX, nhà nho tài tử cuối mùa là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu như vẫn còn lưu luyến mộng xưa, từng ao ước được chị Hằng “nhắc lên chơi” nơi cung Quảng (bài Muốn làm thằng Cuội), để rồi một lần được “Trời sai gọi” thì thích thú mãi, nên hào hứng viết ra bài thơ Hầu Trời để chia sẻ cùng độc giả. Có lẽ, khi hạ bút viết hai chữ Hầu Trời làm nhan đề, nhà thơ đang ở trong trạng thái hết sức hưng phấn. Giữa một thời mà Trời, Phật, Thần tiên đã hơi bị mất thiêng do sự phát triển của khoa học và tinh thần duy lí, xem chừng sự trở lại với đề tài “hầu Trời” dễ đẩy nhà thơ và bài thơ vào tình thế lạc lõng. Nhân vật trữ tình được gặp Trời nhờ cơ duyên nào? Trời, theo sự miêu tả của nhà thơ, có đáp ứng được cách hình dung của tầng lớp độc giả mới ở thành thị khi đó? Và câu hỏi hệ trọng hơn: Với bài thơ này, Tản Đà đã làm được điều gì khác lạ, cho thơ?

Bài thơ dài, có đến 114 câu, có thể được chia thành mấy đoạn nhỏ:

– 20 câu đầu: kể lí do cùng thời điểm nhân vật trữ tình được “gọi lên” hầu Trời.

– Từ câu 21 đến câu 68: kể về cuộc đọc thơ đầy “đắc ý” cho Trời và chư tiên nghe giữa chốn “thiên môn đế khuyết”.

– Từ câu 69 đến câu 98: kể nội dung lời trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn và thực hành “thiên lương” ở hạ giới.

– Đoạn còn lại: kể về phút chia tay đầy xúc động giữa nhân vật trữ tình với Trời và chư tiên.

Như vậy, mạch thơ cũng chính là mạch thuật kể một câu chuyện theo trình tự thời gian trước sau, rất dễ theo dõi. Đây là một trong nhiều nẻo lối mà Tản Đà mở sẳn để chất văn xuôi “xâm lăng” vào địa hạt thơ. Sự phong phú của các chi tiết trong bài xem ra không thua gì một tác phẩm tự sự bằng văn xuôi cùng đề tài (như Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào chẳng hạn). Theo mạch chuyện, âm điệu bài thơ cũng có sự chuyển biến linh hoạt: ở hai đoạn đầu, âm điệu chính là vui, hào hứng, phấn chấn ; ở đoạn ba, âm điệu dằn dổi, kêu ca nổi lên (có xen chút an ủi, vỗ về khi thuật lại lời của Trời) ; cuối cùng, âm điệu chuyển sang ngậm ngùi, xao xác.

Tinh huống chuyện bắt đầu từ tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời “mất ngủ”. Rõ ràng, cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ. Chuyện bịa mười mươi mà xem chừng rất “thật”, rất tự nhiên! Xét theo một góc nhìn nào đó, chuyến “hầu Trời” của Tản Đà được xuất phát từ những lí do khá là “vớ vẩn”. Xưa, người ta đã lên trời hoặc được Trời triệu lên vì những điều có vẻ nghiêm trang, nghiêm trọng hơn nhiều: nào khiếu kiện, nào thỉnh cầu, nào để tiếp nhận bài học về cách khu xử thuận với “thiên lí”,… Nhưng biết làm sao, đối với Tản Đà, còn có chuyện gì quan trọng hơn là chuyện thơ văn. Bởi thế, trong tâm thức của ông, lí do được lên hầu Trời như thế chẳng hề kém phần nghiêm túc. Đúng là mới đọc đến phần đầu của bài thơ, chúng ta đã thấy tác phẩm chứa đựng một nội dung cảm hứng khác với thơ văn truyền thống.

Bài thơ có rất nhiêu chi tiết cụ thể được xếp đặt lô gích, thể hiện rõ tài hư cấu, sức tướng tượng dồi dào của tác giả: nằm một mình -> buồn —> đun nước uống —> ngâm văn ; tiên xuống —> nêu lí do -> đưa lên trời ; được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc thơ -> chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng -> Trời truyền hỏi danh tính —> kể lể tình cảnh, bày giãi nỗi lòng —> Trời “đả thông” tư tưởng —> lạy tạ ra về,… Dường như tác giả muốn người đọc xác nhận đây là một câu chuyện thật (một thoả thuận cần thiết để tiếp tục “trò chơi” mà cả hai bên cùng tham gia). Có lẽ, phải đến thời của Tản Đà, các thi sĩ mới có được sự cẩn thận, chu tất như thế với độc giả – kẻ sẽ tiêu thụ sản phẩm và góp phần quyết định phương thức sống bằng ngòi bút của họ.

Nhà thơ rất khéo tả bối cảnh, từ bối cảnh thanh đạm của phòng văn nơi hạ giới tới bối cảnh rực rỡ, oai nghiêm của chốn thiên đình. Nhờ vậy, không gian của câu chuyện trở nên có nhiều tầng lớp, phương vị, tương khớp với trường hoạt động của các nhân vật. Các đoạn đối thoại và miêu tả những phản ứng tâm lí đa dạng của từng loại nhân vật được cài vào nhau thật linh hoạt, khiến người đọc có cảm tưởng mình đang thực sự tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút “sướng lạ lùng”, “đắc ý”, cao hứng tột bậc của nhân vật trữ tình. Hãy đọc lại một đoạn thơ rất vui:

Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi 

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày 

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong một bài cùng vỗ tay.

Đem đến cho độc giả những phút vui vô tư như thế có lẽ không phải là điều từng được các nhà thơ trung đại quan tâm. Nhìn chung, việc “bịa đặt” nên cả một câu chuyện kéo dài rình rang như trong bài thơ Hầu Trời mang nhiều ý nghĩa cách tân. Điều quan trọng nhất là nó đã đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giãi bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó.

Lên tới được Thiên đình xưa nay chưa từng là chuyên dễ dàng. Nếu lên chỉ để đọc thơ cho thoả thích, kể sướng thì sướng thật đấy, nhưng quả có hơi… phí. Nhà thơ Tản Đà rất hiểu điều này nên đã tranh thủ chuyến “hầu Trời” để “quảng cáo” tài năng của bản thân, để thổ lộ suy nghĩ về nghề văn trong những thập niên đầu của thế kỉ XX và về “sứ mệnh” xã hội mà ông tự đứng ra gánh vác (thật ra thì chỉ riêng việc đọc thơ cũng đã mang tính chất quảng cáo rồi).

Có thật nhiều câu thơ mà ở đó tác giả “công khai” nói về cái tài của mình:

– Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.

– Văn đã giàu thay, lại lắm lối

– Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt”!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…”

Các nhà nho tài tử trước Tản Đà tất thảy đều thị tài (cậy tài, khoe tài), nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng, gắn liền với khả năng “kinh bang tế thế”. Trước Tản Đà, không có nhiều người dám nói trắng ra cái “hay”, cái “tuyệt” của văn thơ mình như vậy, trong thơ, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời (một ông Trời cũng khá bình dân!). Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình (để cho Trời khen thì cũng là một hình thức tự khen – có ai kiểm chứng được lời của Trời nói đâu!). Nhà thơ đã thấy được “dài”, “giàu”, “lắm lối” là “phẩm hạnh” đặc thù của vãn thời mình, bên cạnh những “phẩm hạnh” mang tính chất truyền thống như “nhời văn chuốt đẹp”, “khí văn hùng mạnh”, “êm”, “tinh”,… Tình huống “hầu Trời” quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng thiên phú. Thật dễ thông cảm khi mọi nhân vật đều đang ở trong tình trạng cao hứng, từ nhà thơ đến chư tiên và trên hết là… Trời! Cũng cần nói thêm, nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm (là Trời) mà thôi. Ở hạ giới dễ đâu tìm được người tri âm như vậy! Lời Trời khen hẳn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất “ngông” của kẻ vốn đã “ngông” khi nhận mình là “trích tiên”!

Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau các câu chữ, ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Trong mắt Tản Đà, văn chương thời đó là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Điều đáng lưu ý khác là dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải “trường vốn” để theo đuổi nó dài dài (“Nhờ Trời văn con còn bán được – Chửa biết con in ra mấy mươi” ; “Vốn liếng còn một bụng văn đó”). Sau cùng, phải thấy Tản Đà đã chớm nhận ra rằng đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác, và với những sáng tác mới, tiêu chí đánh giá đĩ nhiên là phải khác xưa…

Trong hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68), tác giả đã “tâu trình” rõ ràng về họ tên, “xuất xứ” của mình cho Trời nghe. Việc xưng danh của Tản Đà đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch chuyện và đây không phải là hiện tượng chưa từng có trong văn học trung đại hay trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian (như hát chèo chẳng hạn). Ta đã từng quen các kiểu xưng danh của Hồ Xuân Hương (“Này của Xuân Hương mới quệt rồi” – Mời trầu), của Nguyễn Du (“Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” – Độc Tiểu Thanh kỉ), của Nguyễn Công Trứ “ông Hi Văn tài hộ đã vào lồng” – Bài ca ngất ngưởng), giờ được biết thêm một kiểu xưng danh mang đậm dấu ấn Tản Đà. Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh,… Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng chí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn Trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Á châu, của xứ sở có một nền “văn minh tinh thần” cao quý, đáng tự hào (“Văn minh Đông Á trời thu sạch”). Cụ thể thêm một mức nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Khi trong thời hiện đại, hai chữ “thiên hạ” đã trở thành một khái niệm mở (điều này Tản Đà ý thức được rất rõ), đặc biệt là khi đất nước đã mất chủ quyền, kiểu nói như vậy của nhà thơ rõ ràng chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một “tình cảm non nước” đáng quý. Cũng qua câu thơ, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà – một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.

Nói sâu về bút pháp Tản Đà, rất cần chú ý tới tính chất bình dân trong lối tự sự cũng như giọng khôi hài thấm đượm trong cách dùng từ, trong kiểu đặc tả những biểu hiện cảm xúc của nhân vật, trong lối pha trộn các “chất liệu thơ “vốn không cùng “đẳng cấp” (theo ý thức văn học của thời trung đại),… Lối kể chuyện đầy tính chất bình dân và giọng khôi hài trong bài thơ hoàn toàn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau. Chúng lộ rõ trước hết ở thái độ hào hứng của người kể trước một đối tượng nghe chuyện (giả định) đồng đẳng, rất mực thân tình. Ngay trong chuyện kể, quan hệ giữa nhân vật trữ tình và chư tiên xem ra cũng suồng sã, thân mật (chư tiên gọi nhân vật trữ tình là anh). Từ dùng ở đây nôm na, bình dị, như được tiện tay lấy từ đời sống thường nhật, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng có ý vị: “Văn dài hơi tốt ran cung mây” ; “Văn đã giàu thay, lại lắm lối – Trời nghe Trời cũng bật buồn cười” ; “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn”,… Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư tiên không có một chút gì đạo mạo. Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỏi… bình dân: lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,… Cứ tưởng tượng hình ảnh các đấng siêu nhiên vốn không thuộc cõi người mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nehĩnh như thế, độc giả không thể không cảm thấy buồn cười, không thể khồng phục cách kể chuyện “xôm trò” của tác giả. Giả sử bị tước đi lối kể “bình dân” và nụ cười hóm hĩnh, cả bài thơ sẽ mất di một ý vị thẩm mĩ đặc trưng, bởi sự hấp dẫn của tác phẩm văn học nói chung không hẳn nằm ở chuyện mà ở cách kể, giọng kể. Hơn thế, trong bài thơ này, lối kể ấy, nụ cười ấy làm nên nội dung trữ tình chính, giúp ta hiểu về con người tác giả hơn bất cứ cái gì khác. Nói tóm lại, những yếu tố vừa nêu là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện “hầu Trời” mà tác giả đã hư cấu. Như vậy, để cảm nhận đúng cái “thần” của bài thơ, điều quan trọng trước hết chưa phải là “nhấm nháp” từ tốn từng câu thơ một, tróc tìm “ý nghĩa” trong mỗi lời nói của nhân vật trữ tình, mà là việc xác định một tâm thế sẵn sàng tham dự vào “cuộc chơi” do tác giả đề nghị, chia sẻ tiếng cười của tác giả trên một tinh thần dân chủ.

Đúng là so với yêu cầu hàm súc của thơ xưa, Hầu Trời có vẻ quá dài. Nhưng đây là một đặc điểm chứ chưa hẳn là một nhược điểm, và như vậy, cần đánh giá nó theo tiêu chí riêng. Dài là một đòi hỏi tự nhiên đối với bài thơ giàu yếu tố tự sự như Hầu Trời. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ thời đại (mà Tản Đà là người có công đầu xác lập) cho phép nhà thơ thoát ra khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để thoải mái chứng minh sự hiện diện của cái tôi trong nghệ thuật. Điều đáng nói khác là quan hệ giao tiếp mới, dân chủ hơn giữa độc giả và nhà thơ (sản phẩm của thời đại) không bắt buộc tác giả phải quá tiết chế trong cảm xúc, trong việc triển khai ý thơ, tứ thơ,… Ngoài ra, không loại trừ khả năng bài thơ được kéo dài nhằm đáp ứng nhu cầu của báo chí phải lấp khoảng trống trong một chuyên mục nào đó, thêm nữa, nhằm giúp nhà thơ tính dòng… lấy nhuận bút.

Bên cạnh độ dài khá khác thường, Hầu Trời còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ (các khổ có độ dài khác nhau), với sự xuất hiện của những từ nôm na, thông tục, với ngữ điệu nói,…

Đọc thơ Tản Đà, nghe các giai thoại về ông, ai cũng thấy ông quả là một tay “ngông”. Từ “ngông” trong nghiên cứu văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chí được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ thời trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Tản Đà không phải là một trường hợp “ngông” cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đều “ngông”. Tuy nhiên, cái “ngông” của Tản Đà vẫn có những điểm đặc thù do quy định của thời đại. Trong bài Hầu Trời, cái “ngông” của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:

– Tự cho văn mình hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.

– Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm với minh ngoài Trời và chư tiên.

– Xem mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

– Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả (thực hành “thiên lương”).

Ngoài ra, nguyên việc nhà thơ bịa ra chuyện “hầu Trời”, nói “ngon lành” như thể đó là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đối với cái nhìn tôn ti, đẳng cấp đang thống trị xã hội lúc ấy. Đó là chưa kể việc Tản Đà “dám” hình dung các đấng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngang hàng với mình,…

Cái “ngông” của Tản Đà có nhiều điểm gặp lại cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ (thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng): ý thức rất cao về tài năng của bản thân ; dám nói giọng bông lơn về những đối tượng như Trời, Tiên, Bụt ; dám phô bày toàn bộ con người “vượt ngoài khuôn khổ” của minh trước thiên hạ, như muốn “giỡn mặt” thiên hạ,… Nói về điểm khác giữa hai người, có thể thấy: “ngông” ớ Tản Đà là cái “ngông” của kẻ tuy không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” là chuyện hệ trọng nữa. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù văn chương. Rõ ràng ở đây nhà thơ đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm (mà thông thường các nhà nho vẫn đặt trên vai mình) để sống tung tẩy hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.

Hầu Trời quả là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mật thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất “giao thời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những nãm hai mươi của thế kỉ XX. Theo quan niệm văn học và cách phân chia văn loại của nhà thơ, Hầu Trời thuộc loại văn chơi, nghĩa là thơ ca – loại văn không trực tiếp bàn về các vấn đề xã hội (phân biệt với văn thuyết lí có hình thức văn xuôi). Trên thực tế, các vấn đề xã hội vẫn cứ hiện diện trong bài. Chỉ có điều, chúng hiện diện theo một kiểu khác, dưới một hình thức khác, so với trước.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 6

Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo logic một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: Nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:

“ Đêm qua chẳng biết có hay không,

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.”

Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.

Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.

Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: Gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :

“ Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…”

Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân:

 Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt

Văn trần được thế chắc có ít!…

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:

– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại:

Trời rằng: “Không phải là Trời đày,

Trời định sai con một việc này

Là việc “thiên lương” của nhân loại,

Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.

Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.

Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ – câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.

Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 7

Tản Đà là một nhà thơ kiệt xuất thuộc thế kỉ cuối cùng của nền Hán học Việt Nam. Mặc dù vậy Tản Đà được xem là gạch nối của thơ ca nước ta giữa hai thế kỉ. Tuy xuất thân từ nề nếp nho phong cũ nhưng ông lại có tâm hồn lãng mạn, sáng tạo ra những câu thơ mà ta thấy nó không xa lạ lắm so với nền thơ ca hiện đại, nền thơ mới, cả về thể điệu, hình ảnh, ngôn ngữ và nhất là tâm tình. Ta có thể hiểu thêm về thơ và những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam qua bài thơ “Hầu trời” bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân của chính tác giả.

Cả bài thơ đó là một câu chuyện được lồng vào thơ, qua đó chi chúng ta thấy được tác giả là một người có tính cách táo báo, hơi ngông, biểu hiện ngay ở nhan đề bài thơ “hầu trời”. Trong bài thơ, Tản Đà thể hiện cái tôi cá nhân, cái tôi lãng mạn và đó cũng chính là khía cạnh tâm hồn của ông, một cái tôi “ngông” đó chính là tính cách của nhà thơ.

Như chúng ta đã biết thơ chính là người, bài thơ là một giấc mộng trong rất nhiều giấc mộng của Tản Đà, giấc mộng lên trời được đọc thơ cho trời nghe và đằng sau giấc mộng đó là con người Tản Đà, tâm hồn Tản Đà và cá tính của ông. Để làm rõ được cái hay, cái đẹp của bài thơ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về cái tôi của nhà thơ và đặc sắc nghệ thuật được thể hiện trong thơ của ông.

Sự hiện diện của cái tôi lãng mạn được thể hiện ngay từ giấc mộng được lên trời đọc thơ, giới thiệu thơ văn của mình cho các tri tiên và trời nghe. Qua đó thể hiện sự khát vọng muốn được thể hiện mình, thể hiện tài năng, hơn thế nữa, tác phẩm của ông không bị trời phạt mà được mọi người khen ngợi hết lời. Điều đó nói lên rằng, trời biết xem trọng tài năng, gia trị thơ ca:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thế!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Nguyên lúc canh ba nằm một mình,

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.

Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,

Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng

Ra sân cùng bóng đi tung tăng

Trên trời bỗng thấy hai cô xuống

Miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,

Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!

Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng

Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Rồi thì ông được trư tiên và trời khen ngợi làm ông càng hào hứng để đọc, lúc đầu ông cứ nghĩ lên đọc để mình có dịp thể hiện tài năng cho trời biết, nhưng rồi không ngờ mọi người lại thích và đồng tình:

Đọc hết văn vần lại văn xuôi

Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.”

Đoạn thơ này tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê “hết”, “lại” thể hiện giọng thơ phấn khởi, nhiệt tình và hào hứng của Tản Đà.

“Những áng văn con in cả rồi

Hai quyển “Khối tình” văn thuyết lý

Hai “Khối tình con” là văn chơi

“Thần tiền”, “Giấc mộng” văn tiểu thuyết

“Đài gương”, “Lên sáu” văn vị đời

Quyển “Đàn bà Tàu” lối văn dịch

Đến quyển “Lên tám” nay là mười

Nhờ Trời văn con còn bán được

Chửa biết con in ra mấy mươi?”

Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê, thể hiện được tài năng tài hoa của mình, biểu hiện là ông kể hết quyển sách này đến quyển sách khác, ở nhiều tác phẩm khác nhau với nhiều phong cách khác nhau như văn chơi, văn tiểu thuyết, văn dịch,…

Cái tôi lãng mạn của ông được thể hiện rất rõ ở giấc mơ của ông, giấc mơ được lên trời của người thi sĩ nơi trần gian, muốn kể cho trời nghe về cuộc sống dưới trần gian như thế nào để người hiểu hơn.

“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố.

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều.

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”.

Tản Đà đã tâm sự về cuộc sống nghèo khó của người thi sĩ dưới trần gian, bên cạnh việc phô diễn tài năng, Tản Đà còn gửi gắm cả tâm sự của mình, qua đó để thể hiện của người nghệ sĩ đó là được khẳng định tài năng của mình, muốn tài năng của mình được mọi người chấp nhận, cùng đồng cảm và chia sẻ cùng ông về văn thơ cũng như tâm sự đời thường mà ông và mọi người đang cảm thấy bất lực, bí bách, không lối thoát. Tác giả lên trời để phô thơ, phô diễn tài năng và kể về cuộc sống của mình, được mọi người trân trọng giá trị, trân trọng tài năng của mình.

Trong giấc mộng lên trời ấy ta thấy rõ cái tôi của Tản Đà, khát vọng về tự do, khát vọng về cõi tri âm và rộng ra đó là khát vọng về một xa hội tự do, lên trời để đọc thơ thể hiện khao khát được khẳng định tài năng của mình, khao khát nghệ thuật được trân trọng, thể hiện được cái tôi nghệ sĩ, bay bổng nhưng cái tôi đó có bay bổng tới đâu, cho dù có cách li với cuộc sống trần thế thì vẫn bắt rễ với cuộc đời này. Thể hiện ông là một con người thật sự có trách nhiệm với đời với văn chương.

Bên cạnh cái tôi lãng mạn thì cái tôi “ngông” cũng được Tản Đà thể hiện rõ trong bài thơ này, qua những hành động và lời này của ông, đó là giấc mơ lên trời để được đọc thơ, để được mọi người công nhận tài năng của mình. Chính Tản Đà tự khen mình nhưng đó không phải là cái khen vô cớ, vô lý mà điều đó được thể hiện qua việc thơ của ông được trời và trư tiên đồng tình, hết lời khen ngợi:

“Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày”

Thơ ông được trời khen hay:

“Văn đã giàu thay, lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng! Tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?

Người ở phương nào, ta chưa biết”.

Đây là những câu thơ trời khen tác giả, nhưng sự thật là chính tác giả khen mình, tác giả sử dụng biện pháp so sánh để khen ngợi vẻ đep, sự tinh túy của đất trời và sự vật nhưng thực chất là tự khen mình.

Tản Đà cho rằng việc sáng tác thơ ca của ông là ông đang gánh vác trách nhiệm của nhân loại, qua đó cho thấy được ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với cuộc đời, điều đó cũng chính là những bộc bạch của ông, ông đã ý thức được giá trị thơ văn của mình trong cuộc đời này để cuộc đời càng trở nên đẹp và có ý nghĩa hơn. Bởi ông biết rằng văn chương thời đó thì rẻ như bèo, cuộc sống của những người thi sĩ lại vô cùng nghèo khó nhưng ông đã dũng cảm dùng văn chương của mình để kiếm sống và làm đẹp cho đời, thể hiện một cái tôi bản lĩnh.

Cái ngông chính là cá tính của con người được biểu hiện qua lời nói, hành động, cử chỉ và thái độ sống. Với giọng điệu và ngôn ngữ rất tự nhiên, rất phong túng với một loạt cảm thán kiểu trầm trồ, thán phục, tự đề cao tài năng của mình, ông xem mình như là người của trời, là con trời được phái xuống trần gian đề truyền bá những cái hay, cái đẹp cho đời, tự ý thức sâu sắc về bản thân, về tài năng, phẩm chất, giá trị tài năng đích thực của mình.

Tản Đà mạnh dạn thể hiện tài năng bản ngã: cái tôi cá nhân, một cái tôi phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời, cái ngông của tác giả chính là vẻ đẹp thực sự của một con người có tài năng và bản lĩnh cứng cỏi. Có thể nói, có tài năng như thế ông xứng đáng nhận được cuộc sống sung túc hơn nhưng ông lại chấp nhận dám sống bằng tài năng, do vậy trong cuộc đời của ông ông sống một cuộc sống vô cùng nghèo khổ.

Qua câu chuyện “hầu trời” tác giả đã thể bản ngã, cái tôi cá nhân, hiếm có, đáng trân trọng, sáng tạo nghệ thuật mới mẻ và đặc sắc. “Hầu trời” chính là minh chứng cho sự ra đời và phát triển văn học, thơ Tản Đà là gạch nối giữa hai thế kỉ văn học hiện đại và trung đại ở các tín hiệu nghệ và cảm xúc của cái tôi.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 8

Khi chốn nước non này còn lặng lẽ vào những năm đầu thế kỉ XX, người ta bỗng thấy một nhà thơ đã làm xao động cả giới văn đàn. Ông được gọi là người “nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, “gạch nối giữa hai thế kỉ”, người đặt nền móng đầu tiên cho thơ mới. Ông chính là Tản Đà. Điều ông mang tới là một hồn thơ lãng mạn, bay bổng mà vẫn đầy cảm thương, phong cách tài hoa, độc đáo mà vẫn giữ được cốt cách thơ ca dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ ấy là Hầu Trời. Thi phẩm được in trong tập Còn chơi xuất bản vào năm 1921 đã tạo nên ấn tượng đặc biệt và khẳng định tài năng của nhà thơ.

Được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên khá phóng khoáng, tự do, lại thêm cách thể hiện đậm chất tự sự với các yếu tố cốt truyện, tình huống, nhân vật, lời kể… đã tạo nên một cấu tứ rất đặc biệt của tác phẩm này. Đó là một câu chuyện “hầu Trời” của nhân vật chính là tác giả – một thi sĩ, hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, nhưng lại được kể với một giọng điệu say mê, tự nhiên và rất bình dị. Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực, câu chuyện ấy có thể tóm tắt lại qua ba sự việc theo trật tự thời gian: trình bày lí do được lên Trời đọc thơ, cảnh đọc thơ hào hứng của tác giả và thái độ ngợi ca, tán thưởng của Trời và các chư tiên, và cuộc chia tay đầy lưu luyến, xúc động.

Chắc hẳn nhiều người vẫn còn quá ấn tượng với cách mở đầu câu chuyện này của thi sĩ Tản Đà:

“ Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,”

Đây chỉ là một lời thông báo về sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua mà nhiều người chúng ta nghĩ là chuyện bịa. Nhưng cách dẫn dắt của thi nhân khiến người ta tin đó là thật, mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo. Ông cũng đặt ra nghi vấn chẳng biết có hay không theo kiểu khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng hốt, không mơ mòng và có đến bốn cái thật khiến người ta tin. Cách mở đầu câu chuyện vì thế mà đầy khéo léo và duyên dáng, đến nỗi nhà thơ Xuân Diệu cũng trầm trồ, thán phục. Tình huống độc đáo, hấp dẫn của câu chuyện được mở ra.

Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Trong đêm khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ. Bỗng thấy hai cô tiên xuống, vì tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không ngủ được nên Trời mời lên đọc để nghe qua. Đúng là có vẻ khó tin nhưng cách giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên như thế khiến người đọc thấy được sự thú vị, đời thường và cũng đáng tin. Câu chuyện vì thế càng gợi thêm sự tò mò, hấp dẫn. Vậy đối diện với Trời, thi sĩ sẽ thể hiện mình như thế nào?

Được đón tiếp nồng nhiệt, trang trọng, ngồi ghế bành như tuyết vân như mây, uống chè trời nhấp giọng, thi nhân bước vào một cuộc thể hiện tài năng, mà khán giả không ai khác là Trời và các chư tiên. Chỉ nghĩ đến đây thôi đã thấy quả là một câu chuyện hư cấu đầy thú vị, độc đáo chưa từng có. Việc lên tiên, lên trời không phải là một đề tài xa lạ, ngay cả với bản thân thi sĩ Tản Đà, nhưng việc lên đó để ngâm văn, đọc thơ thì chắc chắn là chỉ có ông mà thôi. Bởi vậy với bút pháp lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe đầy hứng khởi, tự hào:

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 9

Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. Hầu trời có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.

Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên sướng lạ lùng.”

Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dỏm, hài hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngân nga/ Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi”

Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay” “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”

Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:

“ Nhời văn chuốt đẹp như sao băng

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.”

Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của những văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó” “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút. Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi : ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 10

Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn và Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh). Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tác phẩm tiêu biểu của ông là: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương, chính vì vậy ông đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh xếp ở vị trí đầu tiên trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”. Một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cách này của Tản Đà là bài “Hầu trời. Bài thơ được in trong tập “Còn chơi”, xuất bản năm 1921, thể hiện rõ nhất “cái tôi” cá nhân ngông nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

Bài thơ “Hầu trời” gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. Từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh

Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước

Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.

….

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy

Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy

Ghế bành như tuyết vân như mây

Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời gắn liền với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

Khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi “hầu trời”. Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe

Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đúng với niềm đam mê của mình, thi sĩ đọc với tất cả sự nhiệt tình và phấn khích. Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại cảm thấy hứng thú và thăng hoa đến như thế này nên đọc liền một mạch:

Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”.

Thái độ của người nghe rất chăm chú và ai cũng tán thưởng, bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khối tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 11

Tản Đà (1889 – 1939) là người có lối sống và sự nghiệp văn chương mang dấu ấn “người của hai thế kỉ”. Vào những năm 20 của thế kỉ XX, Tản Đà nổi được ví như một ngôi sao sáng trên thi đàn thơ văn Việt Nam,ông có những tác phẩm tiêu biểu như: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)…hồn thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương. Hầu trời là một trong số bài thơ tiêu biểu trong tập “còn chơi” thể hiện rõ nét nhất tâm hồn phóng khoáng, đôi khi là nét ngông, và cũng góp phần khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

Cách vào đề của “Hầu trời” cũng rất độc đáo, gây ấn tượng người đọc với cách vào đề, dẫn dắt độc giả vào thế giới thơ một cách cuốn hút. Bằng những câu thơ, thủ thỉ tâm tình như đang kể cho độc giả một câu chuyện như vừa mới xảy ra vậy, câu chuyện đó bắt đầu từ một giấc mơ, nhưng tác giả lại không thể biết được đó là thật hay mộng, thực hay ảo. Sự đối lập được nêu ra khi bốn từ “thật” được sử dụng trong 2 câu, chứng tả tác giả không hề mơ mộng mà nó thực chất là một giấc mơ, thế tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy. Nhưng dẫu sao thì nó vẫn mang lại cảm xúc thích thú vui sướng cho chính tác giả.

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình, với những câu thơ đầy tính thuyết phục, với ngòi bút của mình, Tản Đà vẽ ra một câu chuyện như vừa mới xảy ra đây thôi:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh

Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước

Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.

….

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy

Trời sài tiên nữ dắt lôi dậy

Ghế bành như tuyết vân như mây

Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

Không gian thời gian của câu chuyện mặc dù là của một giấc mơ nhưng lại rất rõ ràng, tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời do những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

Câu chuyện của buổi “hầu trời” diễn ra rất tự nhiên và hợp lí, như chính tác giả vừa mới trở về từ chốn đó vậy: “Theo lệnh của Trời”, thi sĩ đọc văn và nhân văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe

Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Với niềm phấn khích và đầy hứng khởi của mình, sự say sưa trong giọng đọc thơ, cũng ẩn ý cho niềm say mê trong văn chương đã khiến cho tác giả rất tự tin, thể hiện niềm khát khao và đam mê của chính bản thân mình. Và qua những câu thơ, người ta cũng thấy được tài năng của ông khi biết được nhiều thể loại:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”.

Mọi người sau khi được Tản Đà đọc thơ, lấy làm rất thích thú, ai cũng bộc lộ sự hân hoan tán thưởng, kể cả ông trời cũng phải buông ra những lời tán dương mà mới nghe cũng thấy sung sướng hạnh phúc.

Thái độ của người nghe được thể hiện ở nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khói tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”…Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn:

“Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:

“Trời lại phê cho: văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít

Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Những câu thơ góp phần thể hiện “Cái tôi” phóng khoáng, tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên “người của hai thế kỉ” mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ ca của Tản Đà được tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết…, qua đây cũng thấy được thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:

” – Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á châu về địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:

” – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”

Khi được trời hỏi, sau một hồi đối đáp thì cũng lộ ra một điều rằng, vốn dĩ Tản Đà ở hạ giưới chỉ vì tội ngông. Đoạn thơ tái hiện bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh đời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ một cách chính xác và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọc thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại càng thể hiện tâm trạng ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ “hầu trời” như sự biểu hiện khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

Những lời khuyên của trời dù ngắn ngủi nhưng lại vô cùng có giá trị, cuộc chia tay tiễn biệt giữa trời các chư tiên và tác giả cứ quyến luyến.

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

Trông xuống trần gian vạn dặm khơi

Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống

Theo đường không khí về trần ai”

Mặc dù đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng vẫn lấy làm hối tiếc khi một năm có bao nhiêu ngày nhưng may mắn chỉ có 1 đêm để hầu trời. Điều này càng chứng tỏ, lòng khát khao muốn dùng thơ văn và niềm đam mê của mình để ai ai cũng biết tới, và những ai trân trọng nó.

Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đêm lên hầu Trời”.

Từ một câu chuyện dường như không có thật, “hầu trời” đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân, một “cái tôi” ngông, phóng túng. Qua đó tác giả cũng ý thức rất rõ về tài năng, dám công khai cái tài văn chương hơn người của mình. Bài thơ “Hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà, một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cả hồn thơ Tản Đà và cả phong trào thơ mới.

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà – Mẫu 12

“Tản Đà con người của hai thế kỷ”. Cả cuộc đời, lối sống và sự nghiệp văn chương của ông đều mang dấu ấn 2 thời đại: trung đại-hiện đại. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại phong kiến, giữa buổi Đông Tây giao thời Hán học suy tàn, Tây học cũng mới bắt đầu nên thi sĩ không theo nghiệp thi thố làm quan mà mưu sinh bằng nghề sáng tác thơ ca, viết báo, làm văn. Thơ văn của ông có thể xem là dấu gạch nối giữa hai thời đại. Trong đó đặc sắc nhất là bài thơ “Hầu trời” thể hiện cái tôi cá nhân phóng túng, tự do tự khẳng định mình bằng cảm hứng lãng mạn nhưng không thoát li khỏi hiện thực xã hội. Không giống như các nhà thơ trung đại sử dụng thể thơ cũ như: Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát hay song thất lục bát thi sĩ sử dụng thể thất ngôn trường thiên tự do không bị ràng buộc bởi bất cứ kết cấu nào nên mạch cảm xúc được bộc lộ rất thoải mái, xuyên suốt trong toàn bài.

Mở đầu tác phẩm thi sĩ vào chuyện độc đáo và rất có duyên bằng bốn câu thơ:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên-sướng lạ lùng.

Tác giả là chủ thể của câu chuyện nhưng lại không biết “có hay không”, lại càng khiến cho người đọc hoang mang bởi hai từ phủ định “chẳng”, “không” tạo mối nghi vấn, gợi trí tò mò, bán tín bán nghi nhưng thi sĩ lại khẳng định ngay là câu chuyện có thật bằng bốn từ “thật” được lặp đi lặp lại để củng cố lòng tin độc giả vào sự việc mà nhà thơ sắp kể tạo sự hấp dẫn về việc “Thật được lên tiên-sướng lạ lùng”. Đúng như lời bình của Xuân Diệu “Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau hoàn toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.

Tiếp đến nhà thơ trình bày lí do, thời gian, không gian mà mình được “lên tiên” là do nguyên lúc canh ba nằm không ngủ được nên dậy uống nước ngâm văn vẫn chưa thể chợp mắt nên ra ngoài “chơi trăng”. Bỗng có hai nàng tiên xuống nói rằng:

“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga

…Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Đó chính là lí do vì sao thi sĩ được ngâm thơ ở chốn “thiên môn đế khuyết”. Với tất cả cảm hứng, tài năng thi nhân Tản Đà đã ngâm thơ cho Trời và các chư tiên nghe với sự đắc ý và cao hứng đến tột bậc.

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”

Thi sĩ đã đưa người đọc đi vào câu chuyện của mình một cách thật tự nhiên để cùng ông trải qua phút giây “sướng lạ lùng” khi được hầu trời bằng văn chương.

Văn thơ của Tản Đà được Trời khen “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay” và được các chư tiên nghe xúc động tán dương “Tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi”, “chau đôi mày”, “lắng tai nghe”, “Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”. Nhà thơ tự do, thoải mái khẳng định tài năng và cái tôi cá nhân khi liệt kê các tập văn thơ như: văn lí thuyết “Khối tình”, văn chơi “khối tình con”, văn tiểu thuyết “Thần tiên”, “giấc mộng”, văn vị đời “Đài gương”, “lên sáu” và cuối cùng là quyển “Lên tám”. Văn chương của thi sĩ được trời khen “Văn đã giàu thay lại lắm lối”, “văn thật tuyệt”, “văn trần được thế chắc có ít”, còn các chư tiên ao ước tranh nhau dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”. Qua lời khen ngợi của Trời và các chư tiên dành cho thi sĩ người đọc thấy được tài năng văn chương hiếm có của Tản Đà khiến cho chốn thần tiên cũng phải bùi ngùi xúc động, tấm tắc khen văn hay chữ tốt.

Thi sĩ khi nghe trời hỏi tên họ, quê quán ông không ngần ngại xưng danh tính:

“Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á Châu về Địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

Trong thơ ca trung đại với đặc trưng cái tôi cá nhân bị lu mờ nhưng cũng có không ít trường hợp tự tin, không ngần ngại xưng danh như Hồ Xuân Hương “Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi” hay Nguyễn Công Trứ với câu thơ “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Tuy nhiên cách nói của Tản Đà đặc biệt hơn các nhà thơ trước. Ông công khai lí lịch rõ ràng và rất hiện đại có đầy đủ họ tên, quê quán, quốc tịch, châu lục, hành tinh…Dù chỉ qua đôi nét lời kể của Tản Đà nhưng ta có thể thấy được con người tài năng và phẩm chất đáng quý của ông. Thi sĩ ý thức tài năng văn chương bản thân và tự tin bộc lộ bản ngã cá nhân không chút ngần ngại không những vậy ta còn thấy được tấm lòng yêu nước sâu sắc của bậc trí thức kiêu hãnh công khai mình ở “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt” trong hoàn cảnh chủ quyền đất nước bị xâm lăng, nền độc lập dân tộc bị đe dọa. Chính điều đó khẳng định tinh thần tự tôn dân tộc của thi sĩ.

Tuy cảm hứng chủ đạo bài thơ là lãng mạn nhưng thi sĩ cũng không vì quá thăng hoa mà thoát li hiện thực cuộc sống. Nhà thơ không ngại trình bày hoàn cảnh bản thân cũng như bao văn sĩ khác dưới hạ giới:

“Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó

…Biết làm có được mà dám theo”.

Thi sĩ đang sống trong hoàn cảnh “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, lối so sánh văn chương với bèo cho thấy giá trị thơ ca không có chỗ đứng, số phận của ông cũng như bao nhà văn nhà thơ khác lúc bấy giờ: một thước đất cắm dùi không có, kiếm được đồng lãi rất khó vì giấy người, mực người, thuê người in, làm quanh năm cũng chẳng đủ ăn, tuổi già sức yếu, học ngày một kém cuộc sống bấp bênh biết bao nhiêu. Nhà thơ vốn là con người tài năng trong lĩnh vực văn chương nhưng cả cuộc đời ông phải sống trong cảnh nghèo, quẩn quanh lo cơm áo gạo tiền mà vẫn không xong: “Hôm qua chửa có tiền nhà/ Suốt đêm thơ chẳng nghĩ ra câu nào”. Chính xã hội thực dân nửa phong kiến đã đối xử bất công với những cây bút tài hoa như Tản Đà và giới văn nghệ sĩ, người ta chạy theo lối Tây tàu nhố nhăng mà quên mất giá trị văn học dân tộc.

Lời Trời rằng không phải Tản Đà bị đày xuống hạ giới mà do Trời sai xuống “Là việc thiên lương của nhân loại” cùng với lời động viên: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết” đã củng cố niềm tin, cho thêm hi vọng vào cuộc đời. Qua đó cho ta thấy thi sĩ có cái nhìn tích cực vào cuộc sống của những con người chân chính, lương thiện. Nếu giọng thơ trước đó rất vui tươi, hào hứng khi khẳng định cái tôi cá nhân thì đến đây ta thấy sự bùi ngùi, xót thương và cũng buồn biết bao nhiêu khi tiếng gà gáy xao xác, người dậy cũng là lúc thi nhân trở về với cõi trần thực tại trong nuối tiếc:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đêm lên hầu trời”.

Tác phẩm đã khép lại với sự thành công khi thể hiện cái tôi cá nhân đầy dấu ấn, táo bạo, mãnh liệt. Thi sĩ mượn lời của trời để thể hiện tài năng bản thân với cảm xúc được bộc lộ rất thoải mái, tự do khi lựa chọn thể thơ thất ngôn trường thiên. Ngôn ngữ gần gũi đời thường ít ước lệ quy phạm mà giàu sức gợi hình gợi cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn, giọng kể bình dân, khôi hài, hóm hỉnh mà có duyên đưa người đọc vào câu chuyện rất tự nhiên, lôi cuốn.

Bài thơ “Hầu trời” đã thể hiện được phong cách thơ rất “ngông” của Tản Đà nhưng vẫn mang tâm hồn lãng mạn đúng với nhận xét của Xuân Diệu “Chủ nghĩa lãng mạn với cá thể đã bật nứt ra trong văn học Việt Nam những năm đầu của thế kỉ XX bằng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Tác phẩm đã để lại cho ta nhiều ấn tượng về phẩm chất và tài năng của một con người được coi là dấu gạch nối giữa hai thế kỉ.

*****

Trên đây là 12 bài mẫu Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà lớp 11 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường cấp 3 Lê Hồng Phong biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button