Văn mẫu 11

Phân tích bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến

Tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của tác giả Nguyễn Khuyến.

Để có được bài văn phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê hay và đạt điểm cao, đừng bỏ qua nội dung hướng dẫn cách làm, lập dàn ý chi tiết và những mẫu bài phân tích Khóc Dương Khuê đặc sắc do THPT Ngô Thì Nhậm tuyển chọn.

Cụ thể, bài viết sau đây sẽ mang đến cho các em những nội dung quan trọng:

  • Hướng dẫn xác định yêu cầu đề bài, phương pháp làm bài
  • Xác lập hệ thống luận điểm, luận cứ
  • Lập dàn ý chi tiết
  • Những bài văn mẫu hay đặc sắc

I. Hướng dẫn làm bài và xác định luận điểm

1. Xác định yêu cầu đề bài

– Yêu cầu của đề bài: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Khóc Dương Khuê

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết, hình ảnh,… tiêu biểu trong phạm vi bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến.

– Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Xác lập hệ thống luận điểm

Luận điểm 1: Nỗi đau đột ngột khi mất bạn

Luận điểm 2: Hồi tưởng những kỉ niệm tươi rói về tình bạn

Luận điểm 3: Nỗi đau khi đối diện với hiện thực phũ phàng (mất người tri âm, tri kỉ)

3. Sơ đồ tư duy bài Khóc Dương Khuê

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)

>>> Xem sơ đồ tư duy Khóc Dương Khuê với đầy đủ các dạng bài cơ bản và thường gặp nhất: phân tích, cảm nhận,…

II. Lập dàn ý chi tiết

1. Mở bài phân tích Khóc Dương Khuê

– Giới thiệu khái quát nhà thơ Nguyễn Khuyến: là một nhà thơ của tình yêu quê hương, của lòng yêu thương sâu sắc.

– Giới thiệu chung về bài thơ Khóc Dương Khuê.

2. Thân bài phân tích Khóc Dương Khuê

* Nỗi đau đột ngột khi mất bạn

“Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”

– Câu lục ngắt nhịp 2/1/3 => đọc lên nghe nhói đau, quặn thắt như những tiếng nấc tắc nghẹn trong nỗi đau đến quá đỗi bất ngờ.

– Cách dùng “thôi đã thôi rồi”: cách nói giảm nói tránh để giảm bớt nỗi đau mất bạn

– Cách xưng hô “bác”: thể hiện sự thân thiết trân trọng với người đã khuất

– Các từ láy “man mác, ngậm ngùi” kết hợp với nhịp thơ 4/4 ở câu bát -> diễn tả nỗi đau kéo dài như vô cùng vô tận -> nỗi đau từ chính cõi lòng nhà thơ lan tỏa ra cả không gian rộng lớn, bao la.

=> Lời thơ như một tiếng than đầy thương tiếc, nhẹ nhàng mà thắm thiết.

* Những kỉ niệm tươi rói về tình bạn sống lại trong hồi tưởng của nhà thơ

– Kỉ niệm của tác giả với người bạn của mình:

+ Cùng nhau thi đỗ làm quan

+ Cùng nhau rong chơi khắp chốn non nước

+ Cùng ngân nga hát ả đào

+ Cùng nhau uống rượu và bình luận thơ văn

+ Cùng nhau trải qua những buổi hoạn nạn, vật đổi sao rời

+ Cuộc gặp gỡ cuối cùng

=> Đây là những kỉ niệm kéo dài từ tuổi trẻ cho đến lúc về già => thể hiện tình bạn gắn bó keo sơn, thắm thiết.

* Nỗi đau tắc nghẹn, hụt hẫng, chơi vơi khi đối diện với hiện thực phũ phàng (mất người tri âm, tri kỉ)

– Muốn gặp bạn nhưng tuổi già không cho phép, nay bạn mất, đau đớn vô cùng.

– Nỗi đau đớn, trống vắng khi bạn mất:

+ Chân tay rụng rời khi nghe tin bạn mất

+ Rượu ngon không có bạn hiền

+ Câu thơ hay không có người bình luận

+ Đàn kia gảy cũng không ai thấu hiểu

=> Mất bạn trở nên cô đơn: rượu không muốn uống, thơ không muốn làm, đàn không gảy,…

– Kết cấu trùng điệp, điệp ngữ: “không có, không mua, không phải” (điệp từ “không” 5 lần) => cảm giác nức nở, sự trống vắng đến nghẹn ngào, chua xót.

– Sử dụng điển tích Trung Quốc: Trần Phồn, Bá Nha, Tử Kì => tình bạn tri âm, tri kỉ.

– Từ “đàn” đầu câu láy lại cuối câu: trạng thái ngẩn ngơ chuyển sang thống thiết, tình cảm như đợt sóng trào dâng.

– Sự tinh tế ở hai câu thơ cuối “tuổi già… chứa chan”: không còn nước mắt để khóc bạn, nhưng kì thực câu thơ đầm đìa nước mắt.

3. Kết bài phân tích Khóc Dương Khuê

– Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ: Bằng tài năng kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết.

– Cảm nhận chung về bài thơ: Nỗi đau khóc bạn của tác giả cho thấy đây một tình bạn khắng khít. Nhà thơ không để nỗi đau thể hiện ra ngoài mà như âm thầm khóc ở bên trong.

  • Xem lại nội dung soạn bài Khóc Dương Khuê để hoàn thiện thêm dàn ý cho bài văn phân tích.

III. Top 11 bài văn mẫu hay phân tích bài Khóc Dương Khuê

1. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 1

Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) để lại khoảng 800 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán trong đó có ngót một trăm bài thơ viết về tình bạn. Có bài như “Bạn đến chơi nhà” thì hầu như ai cũng biết. Viết về Dương Khuê (1839 – 1902) bạn chí thân của mình, Nguyễn Khuyến đã có bốn bài thơ chữ Hán. Riêng bài thơ thứ tư “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư” (Viếng bạn đồng khoa là Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư) được tác giả dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê”.

Đây là bài thơ khóc bạn rất tha thiết cảm động của Nguyễn Khuyến cũng là bài thơ khóc bạn rất nổi tiếng trong nền thơ ca dân tộc. Dương Khuê là bạn đồng khoa với Nguyễn Khuyến tại khoa thi Hương năm 1864. Dương Khuê đỗ tiến sĩ, làm quan to, để lại nhiều bài thơ hát nói tuyệt bút. Từ bạn đồng khoa đã phát triển thành bạn tri âm tri kỉ nên Nguyễn Khuyến mới có thơ khóc bạn cảm động và tha thiết như vậy. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt thấm đầy lệ, gồm có 38 câu thơ.

Mở đầu bài thơ là một tiếng than, tiếng nấc đau đớn:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.

Một sự thảng thốt xót thương cất lên, tưởng như bất ngờ bị đánh rơi mất một cái gì vô cùng quý báu. Nhóm từ “thôi đã thôi rồi” thay cho khái niệm “đã mất”, “đã chết”, “đã qua đời”…, một lối nói bình dị, làm giảm bớt đi nỗi đau đớn ghê gớm đối với tuổi già. Theo cách tính tuổi của các cụ ngày trước thì Dương Khuê mất lúc 63 tuổi, khi đó Nguyễn Khuyến đã 68 tuổi rồi. Đúng là tiếng khóc bạn của những bậc cao niên. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy khi gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi. Hình ảnh “nước mây” được liên kết với các từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” diễn tả một trời thương xót, một không gian cách trở bao la, âm dương đôi đường, buồn đau, nặng trĩu.

Chữ “bác” trong thơ Nguyễn Khuyến mang tính biểu cảm sâu sắc. Nhà thơ luôn luôn gọi bạn bằng bác, thể hiện một tấm lòng kính trọng và thân mật. Chữ “kính” và chữ “lễ” in đậm trong phong cách ứng xử của Tam nguyên Yên Đổ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi… Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác… Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở”…

Phần thứ hai gồm 24 câu thơ, tác giả nhắc lại, nhớ lại những kỉ niệm sâu sắc với người đã quá cố. Với nhà nho thì bạn đồng khoa là bạn đẹp nhất, tự hào nhất. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng đỗ đạt, cùng làm quan, tình bạn ấy là “duyên trời” tác hợp nên:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”.

Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” thể hiện một tình bạn vô cùng thân thiết, chung thuỷ. Mỗi một kỉ niệm là một mảnh tâm hồn của nhà thơ được nhắc lại với bao nhiêu giọt lệ. Nguyễn Khuyến như vẫn thấy Dương Khuê đang cùng mình hiển hiện. Phải là bạn tâm đầu ý hợp, phải là những tao nhân mặc khách mới có những kỉ niệm cầm ca, thi tửu đẹp và đáng nhớ như vậy.

Nhớ những cuộc du ngoạn, thăm thú nơi “dặm khách” chan hoà với thiên nhiên, thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền: “Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Nhớ những lần cùng nhau đi hát ả đào nơi lầu cao, thưởng thức cung đàn, giọng hát:

“Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.

Cầm xoang nghĩa là cung đàn, giọng hát, “Từng gác cheo leo” như còn gợi lại cảm giác ngây ngất trên lầu cao của đôi bạn tri âm sành điệu. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành nghệ thuật hát ả đào, đã sáng tác nhiều hài hát nói nổi tiếng.

Người xưa có nói: “Tửu phùng tri kỉ thiên bôi thiểu – Thi hội tri âm bán cú đa”. Bạn tri âm trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều không cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:

“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi hàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau”.

Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “âm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn chương thì đầy ắp những sách vở, điển cố. Hai chữ “đông bích, điển phần” biểu lộ niềm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.

Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn đạt trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và “có khi” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha. Những kỉ niệm ấy vô cùng sâu sắc, đẹp đẽ về tình bạn, không bao giờ có thể quên được.

Có kỉ niệm vui, có kỉ niệm buồn. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cùng làm quan to dưới thời nhà Nguyễn. Nhưng rồi đất nước ta bị xâm lăng, dân tộc ta bị giặc Pháp thống trị, là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau hoạn nạn”. Cách ứng xử của mỗi người đểu có chỗ khác nhau. Nguyễn Khuyến đã cáo bệnh, từ quan về sống cuộc đời bình dị giữa xóm làng quê hương. Không tham miếng “đẩu thăng”, lương bổng của triều đình. Còn Dương Khuê vẫn làm quan. Trong bài thơ chữ Hán “Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương”, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất thông cảm với bạn: “Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa – Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương”. Cảnh ngộ và cách ứng xử tuy có khác nhau, kẻ làm quan, người từ quan, nhưng Tam nguyên Yên Đổ vẫn tỏ ra bao dung bạn, vẫn “kính yêu từ trước đến sau”, không bao giờ thay lòng đổi dạ:

“Bác già tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế, thì thôi, mới là”.

Chữ “rồi” vần với ba chữ “thôi” liên tiếp như một tiếng thở dài, tự an ủi mình, như muốn quên đi thật nhanh những điều bất đắc chí. Không nỡ, không muốn nhắc đến nữa mới là bạn bè tâm giao!

Bây giờ hai người đã đôi đường âm – dương vĩnh biệt. Khóc bạn, Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp bạn cuối cùng. Ân hận vì đường xa, vì tuổi già sức yếu. Chữ “nhác” rất hay, nghĩa trong văn cảnh là ngại. Các chữ: “cầm tay” và “mừng rằng” thể hiện một tấm lòng quý mến, thương yêu. Đoạn thơ làm tái hiện một khung cảnh cảm động của đôi bạn già sau nhiều năm xa cách mới gặp lại nhau:

“Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần,

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”.

“Tinh thần chưa can” ý nói sức khoẻ vẫn bình thường, tinh thần vẫn sáng suốt. Thế mà bạn đột ngột qua đời. Hình ảnh “chân tay rụng rời” cực tả nỗi đau đớn, bàng hoàng không kể xiết. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất đúng, rất sâu sắc tâm lí và tình cảm người già khi được tin bạn mất:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Làm sao bác vội về ngay?

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời!”.

Giọng thơ kể lể, tự tình. Trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai linh hồn đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.

Đoạn thơ hồi tưởng này, những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian, từ “thuở đăng khoa” đến ngày bạn qua đời. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng về một tình bạn lâu bền, sâu sắc, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Người Việt chúng ta, nhất là các cụ già lúc khóc người thân quá cố thường kể lể gợi nhắc mọi kỉ niệm ngụ ý thương tiếc. Có lúc ta cảm thấy người sống đang đối thoại và tâm sự với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các giai đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng chân thành, đằm thắm. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.

Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là tự khóc mình, giọng thơ ngày một thêm não nùng, thê thiết. Ông trách bạn “vội đi xa” để mình lẻ loi, cô đơn. Cuộc sống trở nên chán chường, vô nghĩa:

“Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua”.

Sau chữ “chẳng” xuất hiện liên tiếp 5 chữ “không” gợi tả cái trống vắng, cái cô đơn của nhà thơ, của cảnh già. Kẻ đi xa và người ở lại cùng chung nỗi niềm tâm sự “chán đời là phải”. Nhà thơ kín đáo bộc lộ thái độ đối với thời cuộc trước sau không thay đổi. Như đã từng thổ lộ:

“Sách vở ích gì cho buổi ấy

Áo xiêm nghĩ tại: thẹn thân già”.

(Ngày xuân dặn các con)

Cho đến trước lúc qua đời, ông vẫn không quên trăng trối con cháu:

“Đề vào mấy chữ trong bia,

Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.

(Di chúc)

Bạn mất đột ngột, nỗi thương tiếc, đau xót làm tê tái cả lòng. Sống trong cô đơn ngày thêm bơ vơ sầu tủi. Cuộc đời mất hết ý nghĩa: không muốn uống rượu, không thiết ngâm thơ, gian nhà và tâm hồn trở nên trống vắng, trơ trọi. Còn đâu nữa bạn tri âm tri kỉ?

“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.

Lời than khóc trở nên xót xa khi nhà thơ nhắc lại điển tích Tử Kỳ – Bá Nha và Trần Phồn – Từ Trĩ. Chiếc giường dành riêng tiếp bạn nay đã trở nên “hững hờ”. Tiếng đàn cũng “ngẩn ngơ” mất hồn vì lẻ bạn. Một cách nói thậm xưng để cực tả nỗi đau tê tái khi bạn thân qua đời. Khi còn sống thì đôi bạn cùng đi chơi “dặm khách”, cùng “lựa chiều cầm xoang”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”… Lúc bạn qua đời chẳng còn người tri âm tri kỉ để cùng nhau uống rượu, làm thơ, nghe đàn, năng lui tới thăm nom, chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Nguyễn Khuyến đã có nhiều cách nói rất sâu sắc, cảm động diễn tả sự thương xót bạn và nỗi buồn cô đơn của mình.

Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đau đớn. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Thương bạn gắn liền với bao nỗi nhớ. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho linh hồn bạn thanh thản “lên tiên”:

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”.

Trải qua bao mưa nắng, bao thăng trầm hoạn nạn, Tam nguyên Yên Đổ còn đâu nhiêu nước mắt để khóc bạn, chí còn biết “lấy nhớ làm thương”. Tuy nhiên cả bài thơ, nhất là bốn câu kết đã “chứa chan” nước mắt đau xót. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu vẫn chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,… Tiếng khóc nào cũng xúc động, tê tái, nặng tình, nặng nghĩa. Riêng bài “Khóc Dương Khuê” lại được viết bằng thể thơ song thất lục bát, lời khóc bạn càng trở nên thiết tha, não nùng, lúc thì nức nở, thảng thốt, lúc thì kể lể thở than, lúc thì phân trần, lúc thì trách móc, lời thơ thủ thỉ như nói với người còn sống, rất cảm động. Giọng thơ liền mạch, lời thơ tinh tế, biểu cảm đã thể hiện nghệ thuật vừa bình dị, vừa điêu luyện.

Khóc Dương Khuê” thể hiện một tình bạn đẹp và cảm động của nhà nho thuở trước. Sau một thế kỉ, chúng ta vẫn thấy bùi ngùi xúc động khi đọc bài thơ này. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng là khóc cho một thế hệ nhà nho và cũng là tự khóc cho mình: “Ai chẳng biết chán đời là phải”…

  • Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê

2. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 2

Nguyễn Khuyến không chỉ có những bài thơ tuyệt vời về chủ đề thiên nhiên mà ông còn có những bài thơ đặc sắc về chủ đề gia đình, bè bạn,… Khóc Dương Khuê là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông về chủ đề tình bạn. Bài thơ là tâm trạng hốt hoảng, là tấm lòng đau đớn, tiếc thương của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê, người bạn tri âm, tri kỉ của mình.

Dương Khuê và Nguyễn Khuyến kết bạn từ hồi để chỏm cho đến lúc đầu bạc răng long. Tình bạn bền chặt bất chấp sự thay đổi của thời thế và cảnh ngộ riêng. Bỗng nhiên Nguyễn Khuyến được tin Dương Khuê qua đời, ông bàng hoàng thảng thốt và viết bài thơ để khóc bạn.

Hai câu thơ mở đầu:

Bác Dương thôi đã thôi rồi.

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Phong cách và bút pháp Nguyễn Khuyến vốn thâm thuý, cảm xúc lắng đọng. Tất cả nỗi đau mất bạn dường như dồn nén vào câu thơ lục bát mở đầu này.

Dòng lục (Bác Dương thôi đã thôi rồi) ngắn gọn cất lên tiếng kêu thương đột ngột. Tin dữ về người bạn tri âm tri kỉ đến bất ngờ quá khiến cho Nguyễn Khuyến bàng hoàng, đau đớn và thất vọng. Biện pháp nghệ thuật nói giảm “thôi đã thôi rồi”, với từ “thôi” được lặp lại hai lần có tác dụng gợi nỗi đau đột ngột, sự thảng thốt, sự trống vắng không gì bù đắp nổi.

Dòng bát (Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta) dàn trải, diễn tả về sự mất mát đau thương ấy của Nguyễn Khuyến. Từ láy “man mác” đã diễn tả được cả không gian cũng nhuộm màu tang tóc. Có lẽ, lòng người đau đến quặn thắt như đứt ra từng khúc ruột “ngậm ngùi” nên nỗi đau ấy lan tỏa cùng mây trời non nước. Người bạn tri âm tri kỉ vừa ra đi làm cho nhà thơ thấy hẫng hụt, trống vắng đến khôn cùng.

Mười hai câu thơ tiếp theo đã nói về những kỉ niệm của hai người thời tuổi trẻ:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Sau giây phút đau đớn đến thảng thốt, bàng hoàng, khi bình tĩnh lại, một quãng đời thanh xuân êm đẹp đầy ắp kỉ niệm về tình bạn lần lượt hiện ra cụ thể và sinh động trước mắt Nguyễn Khuyến. Tất cả như sống dậy trong lòng nhà thơ:

Nhớ về những ngày hai người cùng chuyên cần đèn sách:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Câu thơ “Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau” đã khẳng định những ngày tuổi còn trẻ tác giả và Dương Khuê luôn bên nhau cùng chuyên cần đèn sách, cùng chung chí hướng phấn đấu theo đuổi công danh.

Nhớ về những ngày hai người cùng vui chơi, du ngoạn:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.

Nhớ về những ngày hai người, cùng vui đàn hát nơi gác hẹp:

Có khi từng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Nhớ những lúc hai người uống rượu bình văn:

Có khi bàn soạn câu văn

Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê không chỉ chuyên cần học tập mà hai người cùng có những thú vui thật tao nhã: cầm, kì, thi, hoạ…

Tình bạn ấy thật trong sáng và cao đẹp. Đó là tình bạn của những nhà nho chân chính. Cả hai ông đều là những người chăm chỉ dùi mài kinh sử mong được ghi tên vào bảng vàng bia đá, lưu danh muôn thuở. Cả hai ông đều đậu đại khoa dưới triều Nguyễn. Với biết bao kỉ niệm êm đẹp như vậy nên khi nhận tin Dương Khuê mất tâm trạng nhà thơ thảng thốt và đau đớn đến bàng hoàng.

Sau khi nhớ về những kỉ niệm êm đẹp của tuổi thanh xuân, tác giả đưa ta về với những kỉ niệm mới khó quên trong lần gặp gỡ cuối cùng của ông với người bạn cố tri Dương Khuê. Điều đó được thể hiện qua tám câu thơ tiếp theo:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Nguyễn Khuyến mừng cho bạn cũng là mừng cho mình vượt qua được thời buổi suy đồi, vận hạn:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời.

Mừng mừng tủi tủi vì hai ông bạn già gặp lại nhau và đều đang minh mẫn, khoẻ mạnh:

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Hai người lâu ngày gặp lại, mừng mừng, tủi tủi, tay cầm tay, hỏi han nhau hết việc này đến việc khác. Điều Nguyễn Khuyến mừng nhất khi gặp Dương Khuê lần cuối chính là cả hai đều vượt qua được thử thách của thời thế và của tuổi tác đang ngả chiều xế bóng. Nguyễn Khuyến cũng không ngờ rằng đó lại là lần gặp gỡ cuối cùng giữa hai người.

Đây là đoạn diễn tả nỗi đau của Nguyễn Khuyến khi không còn bạn nữa. Trước hết, tác giả thấy cái chết của bạn dường như phi lí:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Tuổi đời Nguyễn Khuyến lớn hơn Dương Khuê. Cả hai ông đều là những người chăm chỉ dùi mài kinh sử mong được ghi tên vào bảng vàng bia đá, lưu danh muôn thưở nên giữa hai người không có sự ngăn cách mà thật gần gũi, gắn bó. Nên việc người bạn tri âm, tri kỉ đã ra đi, tác giả cảm thấy đột ngột đến không thế tin dù đó là sự thật.

Tác giả giãi bày nỗi đau đớn khi mất bạn:

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi đã chân tay rụng rời.

Từ “rụng rời” đã diễn tả được tâm trạng đau đớn đến tái tê, bủn rủn của tác giả. Người bạn thân đã ra đi, tác giả thấy trống vắng, hẫng hụt:

Vội vàng chi đã mải lên tiên:

Rượu ngon không có bạn hiền…

Những câu thơ tiếp theo, tác giả lại nhắc về kỉ niệm một thời gắn bó giữa hai người. Đó là những kỉ niệm của một tình bạn cao đẹp, quý hiếm. Tác giả mất người bạn hiền, dường như cuộc đời cũng mất ý nghĩa.

Mấy câu cuối của bài thơ đã diễn tả nỗi đau khôn tả, nỗi đau không nước mắt. Dường như nước mắt chảy ngược vào trong tạo nên nỗi đau thấm đẫm trong lòng tác giả:

“Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Bằng tình cảm chân thành, bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi đau mất bạn. Nỗi đau ấy hiện ra dưới nhiều cung bậc: lúc bộc phát, lúc ngậm ngùi nuối tiếc, lúc lắng đọng thâm sâu.

Với tài năng và tấm lòng sâu nặng nghĩa tình, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã để lại cho đời một bài thơ nổi tiếng về khóc bạn. Bài thơ rất thành công về mặt nghệ thuật: câu hỏi tu từ, điệp từ điệp ngữ, từ láy… Tất cả các biện pháp nghệ thuật ấy có tác dụng nhấn mạnh nỗi đau đớn khôn nguôi của tác giả khi người bạn tri âm tri kỉ của mình qua đời.

Qua bài thơ, ta thấy Nguyễn Khuyến không chỉ là người tài cao học rộng mà còn là người rất nghĩa tình. Ông thuỷ chung trong tình bạn. Tình cảm đối với bạn của tác giả thật đáng trân trọng, đáng cho chúng ta học tập.

-/-

Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý chi tiết cho bài văn phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của tác giả Nguyễn Khuyến. Hi vọng các bạn đã có thêm những ý văn hay để bổ sung cho nội dung bài viết của mình thêm hấp dẫn và có sức thuyết phục.

3. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 3

Trong nền thơ hơn một nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến có một vị trí thật vẻ vang. Ông là nhà thơ của những bài thơ Việt Nam đích thực, những bài thơ mà ở đó, những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ Việt Nam thuần khiết, giản dị và đẹp đẽ. Trong những bài thơ ấy, cần phải nói (tên một bài thơ không mấy ai không biết: bài Khóc Dương Khuê).

Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).

Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quý giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ một tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:

Bác Dương thôi đã, thôi rồi,

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.

Hầu như không có một chút văn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó.

Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân thành được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã… thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quý ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.

Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của người là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tưởng đã rất xa xôi:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời

Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây.

Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là “tôi bác”, với những “cùng nhau”… Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau”. Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Kỉ niệm giữa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi.

Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thì có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xã hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng).

Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao?

Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát. Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,

Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ “nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè.

(Thu ẩm)

Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”.

Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.

Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già, tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!

Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn.

Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ “thôi” trùng điệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi – thôi – thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.

Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến – Dương Khuê, đặc biệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới một cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Xét về mặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào là “tuổi già thêm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ của một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậy, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: Tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chết trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán: Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời! Trước nỗi đau đã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nỗi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: Cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên như một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã. Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, không còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ, rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai – ai biết – mà đưa) cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.

Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi như tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thấy mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thường làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chẳng giúp được gì… Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu rằng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.

Có thể khẳng định rằng trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình cảm đẹp đẽ chân thành, nhưng cả cho đến nay, chưa có bài thơ nào nói về tình bạn có thể sánh bằng bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Cái hay ấy trước hết xuất phát từ một tình bạn đẹp và chân thành của một tâm hồn cao thượng. Cái hay ấy còn là cái hay của một nghệ thuật diễn đạt, một ngôn ngữ diễn đạt giản dị, tự nhiên, đầy tính dân tộc, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm mà bài thơ cần diễn đạt.

4. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 4

Ngạn ngữ phương Tây có câu “Tình bạn là đóa hồng không gai” thật vậy, tình bạn như đóa hồng đầy hương sắc luôn mang đến cho con người sự nhẹ nhàng, bình yên, thật may mắn cho những người bạn có những người bạn thân thiết bên mình – đó như là một bước đệm nâng đỡ con người bước vào cuộc sống đầy thử thách, gian nan. Văn học Việt Nam không thiếu những bài thơ hay viết về tình bạn, một trong số đó là bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến, tác phẩm như một viên ngọc trai lấp lánh toả sáng về tình bạn đẹp, vững bền của con người con người trong cuộc sống.

Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Câu thơ nói giảm nói tránh đã nói đến sự mất mát ra đi của Dương Khuê, để lại sau đó là nỗi buồn ngậm ngùi không biết giải tỏa cùng ai. Tình cảm bạn bè vô cùng tha thiết nhưng ẩn sau đó là nỗi đau không thể nói nên lời, tình bạn giữa Dương Khuê vô cùng gắn bó, keo sơn. Lời thơ như một tiếng kêu thương đột ngột cất lên với những nỗi niềm thất vọng. Sự ra đi của người bạn để lại trong lòng Nguyễn Khuyến nỗi mất mát trống vắng không phương bù đắp.

Từ câu ba đến câu hai mươi hai là cách tác giả kể lại quá trình tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê: đó là lúc hai người gắn bó với nhau từ những ngày đi học, có bất cứ chuyện gì cũng vẫn trao đổi, sẻ chia với nhau – những kỉ niệm ấy trở thành những kí ức không thể nào quên:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

Kính yêu từ trước đến sau

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Nhân duyên giữa hai người bạn này thật kì lạ không phải là nhân duyên của những con người bình thường mà là nhân duyên của những đôi bạn cùng tiến, những kỉ niệm về người bạn của mình cứ ùa về trong tâm thức tác giả không thể nào kiểm soát lay động, nó quá khác biệt so với thực tế trần trụi và nhiều đau khổ quá:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo

Có khi từng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang

Nguyễn Khuyến nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng cách đây ba năm, lúc đó cả ông và bạn đều mừng mừng tủi tủi. Mừng mừng tủi tủi bởi cả hai đều vượt qua mọi thử thách của thời thế và tuổi tác:

Cầm tay nhau hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can

Ấy thế mà giờ đây, bạn đã không còn nữa. Mất bạn nhà thơ như hụt hẫng như mất đi một phần cơ thể:

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe tôi bỗng thấy chân tay rụng rời

Nguyễn Khuyễn ngạc nhiên vì bạn ít tuổi hơn mình, vững vàng hơn mình mà đã vội quy tiên. Đau đớn đến tái tê, ông chỉ biết còn buông lời trách bạn mà lòng đầy xót thương: Vội vàng chi đã mải lên tiên. Để rồi cuối cùng trong lòng người bạn già chỉ còn lại mênh mang, ngập tràn cảm giác trông vắng, mà bất cứ ai khi mất đi người thân đều phải trải qua:

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Thương bạn, nhớ bạn mà Nguyễn Khuyến chỉ biết khóc. Nhưng tuổi già hạt lệ như sương, ông đâu còn nước mắt để khóc bạn. Ấy vậy mà người đọc vẫn cảm nhận sâu sắc nỗi đau tận trong tâm nhà thơ:

Khóc anh không nước mắt

Mà lòng đau như cắt

Gọi anh chửa thành lời

Mà hàm răng dính chặt

(Viếng bạn – Hoàng Lộc)

Nỗi đau mất bạn ấy Nguyễn Khuyến không biết tỏ cùng ai đành gửi tất cả vào thơ để mong phần nào an ủi được người bạn đã khuất. Cách nói của tác giả rất nhẹ nhàng nhưng ẩn đằng sau đó là nỗi đau đớn tột cùng, bởi không ai hết chỉ có Dương Khuê mới hiểu được Nguyễn Khuyến và cũng chỉ có Nguyễn Khuyến mới trở thành người bạn tâm giao, trọn đời của Dương Khuê, bởi cuộc đời của những con người này đã gắn với những kỉ niệm không thể nào quên, chúng như những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp

Chén quỳnh hương ăm ắp bầu xuân

Có khi bàn soạn câu văn

Biết bao đông bích, điển phần trước sau

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đẩu thăng chẳng dám than trời

Bác già tôi cũng già rồi

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là !

Nhắc lại những kỉ niệm để người ta biết rằng tình bạn chân thành vốn khó tìm ở trong cuộc đời này, và những người bạn ấy đã trở thành tri âm tri kỉ của nhau không bao giờ có thể phai nhạt, người này mất đi người kia đau khổ tột cùng, chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau ấy, tình bạn chân thành quả thật là viên ngọc sáng chói trong mỗi người. Nguyễn Khuyến đã cho chúng ta những vần thơ thật đẹp, thật sâu về người bạn.

Những câu thơ còn lại là những nỗi đau hụt hẫng mất mát, đó là nỗi đau, là cú sốc tinh thần không thể chia sẻ, không thiết nên lời với những từ ngữ diễn tả cảm xúc: “Những hờ”, “ngẩn ngơ”, “hạt lệ như sương”, lấy nhớ làm thương.

Khóc Dương Khuê là một trong những bài thơ đẹp để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc về tình bạn thắm thiết, tình bạn thủy chung son sắt, tác giả đã sử dụng cách nói giảm nói tránh để giảm nhẹ nỗi đau của sự việc, không chỉ thế tác giả còn sử dụng nhiều điển tích điển cố, từ ngữ, hình ảnh giàu sức biểu cảm và kết cấu đảo ngữ để tạo nên một bài thơ trọn vẹn nhiều dư vị trong lòng bạn đọc.

5. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 5

Nguyễn Khuyến là hình mẫu nhà nho chân chính ở giai đoạn cuối cùng của nền Hán học. Theo đuổi nghiệp khoa cử, ra làm quan rồi cáo quan về ở ẩn, cuộc đời lận đận của ông là sự cố gắng giữ mình thanh sạch. Giai đoạn cuối đời là giai đoạn ông mang nhiều tâm sự nhất. Tâm sự của nhà thơ lúc này thường phảng phất sự cô đơn, u ẩn. Bao nỗi niềm chất chứa trong lòng. Và khi nghe tin Dương Khuê – người bạn tri âm một thời đã ra đi, cảm giác cô đơn chắc chắn lại dâng đầy trong lòng nhà thơ. Và lời khóc bạn cũng là lời tâm sự thời thế của người còn lại.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn thân khi cùng nhau theo đuổi nghiệp khoa cử, họ cũng từng tâm đầu ý hợp trong chuyện văn chương. Nhưng với hai quan điểm khác nhau. Nguyễn Khuyến sau gần mười năm làm quan đã cáo quan về quê sống cuộc đời thuần chất của một nhà thơ để giữ mình trong sạch trước xã hội đang vô cùng lộn xộn. Còn Dương Khuê thì tiếp tục làm quan nhưng vẫn là một ông quan thanh liêm chính trực. Vì thế, họ không có nhiều thời gian để đàm đạo. Tuy vậy, họ vẫn là những tri âm tri kỉ. Với các nhà nho xưa, tình bạn tri âm nhiều khi còn quan trọng hơn cả tình cảm gia đình. Họ cùng nhau đàm đạo chuyện văn chương, sẻ chia tâm sự thời thế, chia ngọt sẻ bùi lúc hạnh phúc cũng như khi hoạn nạn. Đã có những tình bạn đẹp trở thành những điển cố điển tích như tình bạn Bá Nha – Tử Kì, Trần Phồn – Từ Trĩ, Lưu Bình – Dương Lễ… Và Nguyễn Khuyến cũng đã coi tình bạn giữa mình với Dương Khuê là tình bạn tri âm như thế.Sự ra đi đột ngột của người tri âm đã để lại trong lòng nhà thơ nỗi đau đớn khôn xiết :

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Tiếng khóc của người bạn già nên có âm điệu và sắc thái tình cảm riêng. Đó là nỗi đau lớn nhưng được thể hiện rất điềm đạm. “Thôi đã thôi rồi”, “man mác”, “ngậm ngùi” là những từ ngữ biểu cảm có khả năng chuyển tải được cung bậc tình cảm ấy.

Sau phút giây bàng hoàng là hồi ức về những kỉ niệm xưa giữa hai người. Sự phát triển của mạch cảm xúc theo đúng quy luật tâm lí thông thường của con người. Lời khóc và cũng là lời viếng bạn, là bài điếu văn của người tri kỉ gửi người tri âm. Những kỉ niệm gắn bó khi hai người cùng học hành, thi cử, bàn luận văn chương và cả những ngày cùng chung hoạn nạn của cuộc sống quan trường đầy phức tạp. Người khác đã tổng kết lại chặng đường đời mà cả hai đã trải qua để khắc sâu hơn sự gắn bó của họ trong quá khứ:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Họ gắn bó với nhau trong mọi việc. Kỉ niệm được nhắc lại bắt đầu từ khi họ gặp nhau và cho đó là “duyên trời”. Đã là duyên trời có nghĩa là tiền định. Sự gặp gỡ của họ không phải là vô tình mà đã được sắp đặt từ trước. Thông thường chỉ duyên vợ chồng mới do trời định. Cách diễn đạt này của tác giả đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của hai người. Họ đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng “chơi nơi dặm khách”, “rượu ngon cùng nhắp”, cùng “bàn soạn câu văn”. Không chỉ có những kỉ niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân của thời thế:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đẩu thăng chẳng dám than trời;

Trong hồi ức thấp thoáng nỗi đau thời thế. Nhớ lại kỉ niệm của những ngày cùng nhau gắn bó, nhớ lại lần gặp gỡ cuối cùng khi cả hai đã già nhưng vẫn giữ được mình trong sạch, người ở lại càng đau đớn hơn. Nỗi đau ấy được thể hiện thật xúc động và chân thật:

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Sau những hồi ức về những ngày đã qua, người bạn cảm nhận rõ hơn, cụ thể hơn nỗi đau mất bạn. Không phải chỉ là thương cho người ra đi đã phải sớm từ giã cuộc đời mà còn là thương mình, thương cho người ở lại đã mất đi một tri âm. Vẫn mang trong lòng nỗi u uất thời thế nên trong lời khóc bạn, trong nỗi đau mất tri kỉ có cả nỗi đau thời thế :

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên.

Giữa họ, trong những ngày không gặp nhau khi mỗi người đi một con đường, vẫn chung nỗi đau thế sự. Xác nhận “chán đời là phải” là sự thể hiện một cách kín đáo và thâm trầm của nhà nho về thời thế. Thời thế hỗn loạn, những giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống đang bị phá huỷ đã khiến những nhà nho có nhân cách và biết tự trọng như Nguyễn Khuyến luôn cảm thấy “chán đời”. Trong tiếng khóc bạn phảng phất cả lời khóc mình.Tình bạn keo sơn và nỗi lòng của người tri âm, nỗi đau mất bạn được thể hiện rõ và sâu sắc nhất ở đoạn thơ cuối cùng :

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.…

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Dùng một loạt điển tích, điển cố về tình bạn tri âm, nhà thơ đã thể hiện và khẳng định một lần nữa tình bạn thân thiết của hai người. Từ đó bộc lộ nỗi đau mất bạn. Mất đi người tri âm, người ở lại sẽ rơi vào cô đơn, sẽ không còn người để giãi bày tâm sự. Mà trong lòng nhà thơ lúc ấy đang chất chứa bao nhiêu tâm sự cần người sẻ chia. Nỗi đau của một người già khi mất bạn, sự sâu sắc của tình bạn già được thể hiện rõ hơn ở bốn câu thơ kết thúc :

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!

Lời khóc bạn của người già khác với nỗi đau của người trẻ tuổi. Đây là nỗi đau nuốt nước mắt vào trong. Tình cảm chân thành của một người bạn già đã được thể hiện thật chân thành và sâu sắc. Với những từ ngữ mộc mạc, chân chất và thể thơ song thất lục bát, tác giả đã thể hiện thật xúc động nỗi đau trước sự ra đi của một người bạn. Sự thay đổi nhịp thơ ở đoạn 2 và đoạn 3 đã góp phần thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đoạn 2, âm điệu thơ vui hơn, dồn hơn bởi đó là lúc nhân vật trữ tình đắm mình trong kỉ niệm, trong những hồi ức đẹp khi họ còn có cả hai người. Còn ở đoạn sau, khi chỉ còn lại một mình, trong nỗi cô đơn không người chia sẻ, người bạn ở lại đau đớn và cô độc trong sự nuối tiếc. Sự đối lập ở hai đoạn thơ đã khắc sâu hơn nỗi đau của người mất bạn tri âm.

Thể thơ song thất lục bát với nhịp điệu đặc trưng đã truyền tải chính xác những cảm xúc chân thành của lời khóc bạn. Trong lòng vốn đã mang đầy tâm sự của một nhà nho trước thời thế bao chuyện đảo lộn xoay vần lại cộng thêm nỗi đau trước sự ra đi đột ngột của người bạn thân, nhà thơ đã rơi vào tâm trạng tột cùng đau đớn. Nhưng với một người từng trải và đã trải qua bao nhiêu đắng cay của một cuộc đời lận đận, nhà nho đầy bản lĩnh như Nguyễn Khuyến đã không than thân trách phận, không vật vã than khóc mà thâm trầm và lặng lẽ thể hiện nỗi đau của mình một cách điềm đạm. Bản lĩnh ấy đã tạo cho văn học một thi phẩm có giá trị nhân văn lớn.

Bài thơ đã thể hiện được một tình bạn đẹp, góp phần khẳng định giátrị và vai trò quan trọng của tình cảm giữa con người với con người trong cuộc sống. Sự sẻ chia niềm vui và nỗi buồn giữa những người bạn, những người thân là yếu tố quan trọng nhất để mỗi người đứng vững giữa cuộc đời đầy rẫy bất trắc và bộn bề phức tạp.Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, hai nhà nho có tài và có nhân cách đã để lại cho đời một biểu tượng cao đẹp về tình bạn. Khóc Dương Khuê không chỉ thể hiện tấm lòng sâu sắc và tình cảm tha thiết của một người bạn với một người bạn, bài thơ còn là một biểu hiện xúc động cho vẻ đẹp nhân cách của một nhà nho chân chính. Những tâm sự, nỗi đau thời thế ẩn sau nỗi đau mất bạn đã tạo nên chiều sâu nhân bản cho bài thơ.

6. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 6

Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn. Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả trước việc bạn qua đời. Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng một tiếng than thảng thốt:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!

Tin bạn mất đột ngột quá, bất ngờ quá khiến nhà thơ sững sờ. Cách xưng hô ở câu thơ đầu khiến người đọc ít nhiều có thể đoán được đây là mối quan hệ bạn bè giữa những người cao tuổi. Đúng vậy, khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyên đã ngót 70 tuổi. Nỗi đau của người già, hơn nữa lại là một nhà Nho luôn quen sông chừng mực, thâm trầm tất phải lặn vào trong lòng, phải xoáy vào trong tim, ít khi phô ra bên ngoài.

Bằng cách sử dụng nhiều tình thái từ một cách tự nhiên gợi cảm, nhà thơ không nói trực tiếp đến việc bạn mất, nhưng người đọc ai cũng hiểu. Đây là một cách nói giảm đi, dường như nhà thơ sợ nhắc trực tiếp đến sự thực phũ phàng. Hơn nữa, cụm từ “thôi đã thôi rồi” còn thể hiện tình cảm tiếc nuối lẫn sự bất lực của nhà thơ trước sự thật đau đớn. Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy không gian rộng lớn dàn trải, “nước mây” đâu cũng thấm đẫm một nỗi buồn thầm lặng khôn nguôi: “Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.

Sau phút giây bàng hoàng ban đầu, dường như nhà thơ có phần trấn tĩnh. Nguyễn Khuyến nhớ lại những kỉ niệm gắn bó giữa hai người: ngay từ thời đi học, đi thi, đỗ đạt… Nhà thơ cảm thấy sự gắn bó giữa mình và Dương Khuê như đã có “duyên trời định sẵn”. Nguyễn Khuyến và bạn mình đã từng đặt chân đến những vùng đất xa lạ, có tiếng suối “róc rách lưng đèo”, cùng thưởng thức thú đi hát ả đào: “Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”, cùng nhau uống rượu và bàn luận văn chương.

Đặc biệt, họ đã cùng nhau sống trong cảnh đau khổ của đất nước. “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn – Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời”. Viết câu thơ trên, khẳng định sự đồng cảnh giữa hai người, chứng tỏ Nguyên Khuyến cảm thông sâu sắc nỗi lòng của bạn mình: cho dù vẫn làm quan với tân triều, nhưng đâu phải Dương Khuê không có ít nhiều nỗi chán ngán trước thế cuộc?

Bằng đoạn hồi tưởng này, người đọc có thề hình dung ra đôi bạn Nguyền – Dương đều là những “tao nhân mặc khách” gắn bó keo sơn với nhau lâu bền từ lúc hàn vi tới khi vinh hiển. Những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian tạo nên ở người đọc ấn tượng về mối quan hệ liên tục bền vững trong toàn bộ cuộc đời của hai người.

Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, lẫn tình yêu mến “kính yêu”, thủy chung “từ trước đến sau”. Nhà thơ còn nhớ rất rõ lần cuối cùng gặp gỡ người bạn già cách đây đã ba năm. Tác giả chỉ mô tả lần gặp gỡ này bằng một vài chi tiết:

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

Người đọc đủ hình dung ra hình ảnh thật xúc động của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Nhà thơ ân cần hỏi han bạn mình đủ điều và mừng rỡ khi thấy bạn tuổi đã cao, song vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Đây chính là nét đáng quý trong con người Nguyễn Khuyên, dù đã có khi đạt tới đỉnh cao danh vọng, tâm hồn nhà thơ vẫn bình dị, gần gũi, thương mến vợ con, bè bạn, xóm giềng…

Chẳng cứ đôi với Dương Khuê, tình cảm nhà thơ đối với Bùi Văn Quê’ (tức ông nghè Châu cầu) cũng đằm thắm không kém. Nhân nước lụt, nhà thơ hỏi thăm bạn thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ tựa hồ như một nhà nông chính công thăm hỏi người ruột thịt cùng cảnh ngộ:

Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,

Lụt lội năm nay bác ở dâu?

Mấy ổ lợn con rày lớn bé?

Vài gian nếp cái ngập nông sâu?

Thế rồi, cụ Tam Nguyên tự xưng “em” với ông bạn Châu cầu và kể chuyện về mình một cách hóm hỉnh, dí dỏm:

Em cũng chẳng no mà chẳng đói,

Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu

(Lụt, hỏi thăm bạn)

Tình cảm chân thành, nồng hậu, chu đáo, lời lẽ mộc mạc… là những yếu tố quan trọng làm cho những bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyên lay động trái tim người đọc. Ở bài Khóc Dương Khuê, tình cảm này tập trung ở phần cuối.

Hình ảnh Dương Khuê trong lần gặp gỡ cuối cùng vẫn sâu đậm trong tâm trí Nguyễn Khuyến. Nhà thơ cảm thấy việc bạn mất là phi lí. Tác giả tự hỏi:

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày,

Làm sao bác vội về ngay.

Nhưng tiếc rằng điều phi lí, điều trái lẽ thường ấy đã là một sự thật. Chính vì phi lí nên sự đau xót, nuối tiếc càng được nhân lên gấp bội: Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Câu thơ buông ra một cách tự nhiên, khó có thể thấy đâu là kĩ thuật đặt câu dùng từ, nhưng đã diễn đạt thành công nỗi đau to lớn ập đến bất ngờ. Cái chết của bạn làm cho nhà thơ thêm chán chường. Cuộc đời đầy những điều ngang trái, tuổi cao, lên tiên cũng là lẽ thường tình.

Có điều, sao bạn nỡ vội vàng để người bạn già ở lại phải chịu sự trông vắng không gì bù đắp nổi: “Ai chẳng biết chán đời là phải – Vội vàng chi đã mải lên tiên”. Câu thơ có ý trách bạn nhưng đằng sau đó còn là một tâm trạng khôn nguôi về thế sự. Tâm trạng này không những bàng bạc trong tiếng khóc Dương Khuê, mà có khi còn được bộc bạch một cách trực tiếp hơn qua những câu thơ như:

Đời loạn đi về như bạc độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi

(Cảm tác)

hay

Bạn già lớp trước nay còn mấy?

Chuyện củ mười phần chín chẳng như

(Cảm hứng)

Tuổi già, mắt lòa chân chậm, mối quan hệ vốn đã hạn hẹp; nay, mất bạn, nhà thơ càng đơn độc, chơ vơ:

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai ai biết mà đưa?

Ở đây nghệ thuật điệp từ đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trong ba dòng thơ tổng cộng 21 chữ, chữ “không” xuất hiện đến 6 lần, diễn tả tài tình tâm trạng trống vắng ghê gớm của con người. Đồng thời, cách kết cấu trùng điệp ở những câu thơ nói trên tạo được cảm giác như nghe tiếng khóc nức nở không dứt.

Mất bạn, nhà thơ mất tất cả những gì hứng thú và thay đổi cả nếp sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật: không uống rượu, không làm thơ, đàn không muôn gảy, giường phải treo lên. Như vậy, hỏi còn gì đáng sống? Những thay đổi ấy, chứng tỏ tác giả đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần quá sức chịu đựng bởi cái chết của bạn. Điều đó khẳng định tình bạn giữa hai người thật keo sơn gắn bó.

Nghệ thuật trùng điệp còn tiếp tục phát huy được hiệu quả cao hơn ở một số câu tiếp theo: “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương”, tạo cho câu thơ có âm điệu tựa hồ như sóng biển từng đợt tràn lên rồi rút xuống, rồi lại tràn lên mạnh mẽ hơn diễn đạt thành công nỗi đau của nhà thơ càng về sau càng sâu xa, thống thiết.

Mở đầu bài thơ là tiếng kêu ngạc nhiên, kết thúc bài thơ là tiếng khóc:

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi dâu ép lấy hai hàng chứa chan.

Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời đen bạc nay sắp trở thành người “cổ lai hi” (xưa nay hiếm), cụ Yên Đổ làm gì còn đủ nước mắt mà khóc bạn? Nỗi đau không tràn ra ngoài được, ắt phải lặn âm thầm vào bên trong trái tim nhà thơ. Nhà thơ nói là mình không khóc, nhưng dường như hai câu kết thấm ướt nước mắt nóng hổi xót thương!

Bằng tài nàng kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết.

7. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 7

Tình bạn được xếp hạng thứ năm trên thang giá trị Ngũ luân. Không tình bạn nhân loại khó phát triển bình thường được. Tình bạn quân hợp chứ không về hùa. Không đòi hỏi kết chặt như tình vợ chồng, bạn đời mà chấp nhận sự đứt nối, vơi đầy qua năm tháng. Tính bất nhất ấy thường dễ gây tan vỡ nhưng cũng có khi làm tình bạn đậm đà thêm ra. Quy luật tâm lí ấy cũng tương đương quy luật vật lí: Chỗ nối lại thường bền chắc hơn chỗ chưa đứt, số đo giữa vợi với đầy luôn lớn hơn giữa đầy vơi… chưa vơi! Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến ra đời trong trường hợp như thế, và do đó đạt độ đậm đà tha thiết hiếm có. Mối kết giao giữa hai người từng bị sờn đi, vơi đi một thời gian dài, nếu Nguyễn Khuyến không giữ đạo “thẳng thắn và tha thứ của người quân tử, hẳn tình bạn giữa hai người khó lòng hàn gắn và Khóc Dương Khuê khó phô hết chân tình.

Họ là bạn đồng niên (cùng đỗ khoa thi Hương 1864). Với người quân tử, bạn đồng niên là “chuẩn” nhất, bởi phương châm của họ là “không kết bạn với kẻ không bằng mình”, thậm chí còn cầu toàn một chiều đến vô nghiệm, “kết bạn phải hơn mình, như mình thì không bằng không kết”. Nói tắt một lời thì trong kết bạn, quân tử nặng lí trí hơn tình cảm, nhưng chính nhờ vậy mà vẫn “hòa hợp dù không đồng lòng”. Tình trạng ấy thực đã xảy ra giữa giao tình Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.

Khi kinh thành thất thủ (1883), Nguyễn Khuyến nhất quyết lui về ẩn dật cho đúng đạo “Lúc đạt thì làm tốt cho cả thiên hạ, lúc cùng thì làm tốt cho riêng mình”. Trái lại, Dương Khuê giữ đạo quân tử theo cách khác: “quân tử làm quan là làm điều nghĩa” mà thời điểm ấy mới cần đến điều nghĩa biết bao! Vả chăng Á thánh đã dạy “Lúc thường giữ cho đúng lề lối, lúc biến linh động theo tình hình”. Thế nên Dương không lui về như Nguyễn mà nấn ná thêm sáu đời vua đầy rối ren, không cơn biến nào sánh kịp. Rồi khi Nguyễn phải “dằn tâm” làm “Ông phỗng đá” để “giữ thân” trong lớp vỏ gia sư bất đắc dĩ ở dinh Kinh lược Bắc Kì thì Dương đường đường là quan Tham tá của Nha Kinh lược ấy (ông Tham tá nọ hẳn khá mẫn cán nên sau đó mới thắng Tổng đốc Nam Định – Nam Bình rồi về hưu với hàm Binh bộ Thượng thư).

Ai cũng biết rằng đối với phe hợp tác (Lê Hoan, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ v.v…) Nguyễn Khuyến thường có lời lẽ ác cảm (cả khi họ đã qua đời). Tuy nhiên thánh nhân cũng dạy: “Nước quá trong không cá – Xét nét quá không bạn” vì thế Nguyễn Khuyến đã châm chước cho Dương Khuê những khoảnh khắc tình bạn quân tử mà một trong những khoảnh khắc ấy đạt đến cao trào là 38 câu Khóc Dương Khuê.

Nỗi đau mất mát của ông bật lên thống thiết:

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta

Tiếng kêu thảng thốt ấy thật là đầy ắp chân tình. Ông đã quên mình để xót xa tột cùng cho số phận bạn. Người đọc không thể không nhận ra nỗi niềm ấy. Thế nhưng ở bài chữ Hán (bộ phận thơ văn chủ yếu mỗi nhà nho) thì câu đầu là “Dĩ hĩ Dương đại niên” (Thôi rồi bác Dương ơi). Hai chữ “Dĩ hĩ” nằm ở đầu câu ngụ ý tiếc vì “mất người tri kỉ” hơn tiếc vì “người tri kỉ mất”. Nếu không rà lại bản gốc chữ Hán, ta dễ nhầm rất nhiều “ý ngầm” của ông Tam Nguyên ngay trong bản Nôm.

Tiếp theo là 12 câu nhắc những kỉ niệm chung của hai người:

Nhớ từ thuở…

…điển phần trước sau

Hai mươi năm (1864 – 1883) giao du tương đắc ấy lưu lại bao kỉ niệm êm đềm! Chính những năm tháng đậm đà tình nghĩa ấy cộng với độ lượng quân tử nơi Nguyễn Khuyến mới đủ sức hàn gắn những sứt mẻ hiển nhiên khi mà Dương không đồng chí hướng với Nguyễn để giữ cái “Đạo chưa cùng” như hàng trăm nho sĩ khác, kẻ lui về ẩn dật, kẻ bỏ đi kháng chiến. Sự không bằng lòng của Nguyễn “bọc nhung” trong bốn câu:

Buổi dương cửu…

…thì thôi mới là

Lời thơ nghe tưởng như kể lể thật tâm đắc tình họ “tuy hai mà một”, ai ngờ lại là lời chỉ trích không khoan nhượng, bấm đúng vào “yếu huyệt” của kẻ sĩ; đạo xuất xứ của người quân tử. Lời trách nhẹ nhàng như có mà như không, tất cả chỉ gắn chặt vào hai tiếng mới là! Nếu không rõ hành trạng của mỗi người, ta rất dễ “mắc lỡm” lối nói lấp lửng ấy; tuy cùng gặp buổi mạt vận của đạo Thánh (dương cửu) nhưng Nguyên nhận ra để “biết thôi”, còn Dương thì… chưa chịu biết! Nguyễn có bổn phận vạch ra điều ấy vì “trách cho tốt ra là cái đạo bạn bè”. Tâm lí người đời thì “nghĩa tử là nghĩa tận” nhưng với người quân tử đấy mới là lúc người ta “tính sổ” nhau thật thẳng thắn về “tăm tiếng” lẫn về “tai tiếng” để còn răn đời. Bởi vì “đậy áo quan công luận mới xác định” (có lẽ vì thế mà tập quán Á Đông trong ngày chết hơn trong ngày sinh như Âu Tây chăng?)

Lời thơ giải thích cho việc ngại đi lại là vì tuổi tác:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Trước ba năm, ấy là lúc Nguyễn 65, Dương 61. Liệu có đúng là cả hai đã “già”, đã “nhác đi lại” không? Đừng quên rằng với hàm trí sĩ một Tham tri như Nguyễn, một Thượng thư như Dương, khái niệm “đi lại” của họ chỉ giới hạn trong việc bước xuống thuyền hay ngồi lên cáng, vây quanh tiểu đồng, là học trò, là giai nhân, là… một thời trong khoa bảng, danh vọng. Tôi nghĩ rằng hai tiếng mới ở câu 18 thực sự “chịu trách nhiệm” việc nhác “đi lại” của họ chứ không phải hai tiếng tuổi già ở câu 19, bằng cớ là ở bản chữ Hán, tuổi già hoàn toàn… ngoại phạm: “Vãng lại bất các đắc” (Qua lại không… thật đặng). Cách đặt câu đến lạ! Nếu dùng trong bài thi, chắc gì ông đỗ Tam Nguyên nhưng dùng trong Khóc Dương Khuê thì dùng thể nghe mới xứng Tam Nguyên!

Có lẽ họ “nhác đi lại” vì còn lí do khách quan nữa: cả hai đều ngại gây nghi ngờ cho dư luận lẫn thực dân, trừ lần gặp nhau hồi ba năm trước rất có khả năng là chuyện bất khả kháng: đám tang vợ Nguyễn Khuyến. Và như vậy, câu “Trước ba năm gặp bác một lần” độ nhận tất phải nằm vào chữ một, đó là trường hợp “bất qui tắc” của “Qua lại không… thật đặng”.

Dù sao thì chuyện cũng thật buồn. Người bạn duy nhất còn lại, thật ra chỉ còn phân nửa tình bằng hữu chợt cũng qua đời nốt! Nguyễn Khuyến cảm thấy bơ vơ thật sự, bàng hoàng thật tình. Ông như góa bụa thêm lần nữa, cái chết vốn gợi lòng trắc ẩn, mà “lòng trắc ẩn là đầu mối của đức nhân”, đức Nhân đem lại là nền tảng của Ngũ thường người quân tử nào chẳng thấm nhuần điều đó. Thế nên những ray rứt của ông (câu 19–28) rất “cận nhân tình”. Mất Dương Khuê, liệu trên đời có còn ai hiểu Nguyễn Khuyến? Quản Trọng khác Bảo Thúc, Khổng Minh khóc Chu Du cũng đều bởi lẽ ấy: “Quen biết đầy thiên hạ, hiểu lòng chẳng mấy người”. Việc Nguyễn Khuyến chẳng còn thiết gì rượu, thơ, giao du (câu 29–34) là chuyện hoàn toàn dễ thông cảm. Bút mực Tam Nguyên nhân vậy mà có dịp cống hiến cho đời những vần thơ thấm tình bằng hữu.

Ở bốn câu kết, thái độ quân tử của Nguyễn Khuyến mới thật rạch ròi, sòng phẳng đến lạ lùng (theo góc nhìn của chúng ta).

Bác chẳng ở… hai hàng chứa chan

Ông ấy thế là chết thật rồi. Tôi chỉ nhớ (những kỉ niệm cũ) chứ không thương, không khóc. Y sờ sờ là thế nhưng ma lực của lời lẽ bản Nôm cứ lôi người đọc theo lòng tha thứ hơn là tỉnh táo nhận ra đạo thẳng thắn của tác giả. Cái tài ông Tam Nguyên thật đáng nể. Hãy thử phân tích một câu:

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

Chữ tuy vốn phủ nhận nhất thời cái ý đi kề sau nó (ví dụ: tuy giàu nhưng bủn xỉn, tuy nghèo mà xài sang…). Vậy là ông “nhác khóc”, có chung lí do với “nhác đi lại”. Thẳng thắn đến thế thật quá đáng! Như suy lòng ta để phê phán lòng quân tử lại quá đáng hơn.

Vậy Khóc Dương Khuê đích thực là khoảnh khắc tình bạn quân tử. Tình bạn ở họ vốn chuẩn mực, lí trí. Họ “nhanh nhạy trong công việc mà thận trọng trong lời lẽ”. Cân nhắc giữa hai bản Hán và Nôm, ta thấy Khóc Dương Khuê là đem lòng tha thứ làm dịu đi đạo thẳng thắn quá căng ở nguyên tác. Ít ai chịu nhận ra ý đồ ấy vì người đời quen nghĩ rằng khóc là việc của tình cảm đơn thuần, quân tử, Tam nguyên gì cũng thế thôi, Nguyễn Khuyến vận dụng đúng đắn “đạo thẳng thắn và tha thứ” của người quân tử vào cả hai bài nhưng điều thú vị là ông dành thẳng thắn cho nguyên tác, dành tha thứ cho bản Nôm. Rốt cuộc, quân tử vẫn đủ chất quân tử mà không làm chạnh lòng những “phi quân tử”. Không độc đáo được thế thì tài Tam nguyên còn kể làm gì?

Cũng nên biết thêm rằng trong nguyên tác. Nguyễn Khuyến xưng mình là dư chứ không xưng ngã. Xưng dư nghe lãnh đạm hơn, có thể phiếm xưng với cả người không quen biết (Kiểu Chu Hi mở đầu bài tựa Kinh Thi: “Hoặc hữu vấn ư dư biết”. Nếu ai đó hỏi Ta rằng…). Cũng trong nguyên tác, Nguyễn gọi Dương vỏn vẹn hai lần bằng chữ Quân thích đáng, phải chăng (để nhắc quãng ngày thân thiết), còn bảy lần xưng hô tiếp theo (các câu 17, 23, 24, 25, 28, 35, 36) ông đều gọi bằng công là cách thường dùng ở ngôi thứ ba và chỉ dùng xưng hô trực tiếp khi cố tránh vẻ mặn mà. Trong bản Nôm, Nguyễn Khuyến dịch thành “bác” cho cả quân lẫn công, thế là ông “quân tử thêm phen nữa”. Vẻ lạnh nhạt của ông đã che chắn khéo léo, cảnh “hòa nhi bất đồng” càng ít bị nhận ra càng hay. Chính vì thế mà Khóc Dương Khuê càng thực thụ là khoảnh khắc tình bạn quân tử.

Cái kiểu “giận thì giận mà thương thì thương” ấy thật chẳng nhất quán, chẳng đồng bộ chút nào, nhưng phải thế mới cân bằng giữa lí trí với tình cảm. Với chúng ta, điều ấy nghe rất chướng nhưng đạo quân tử thì đành phải thế.

Chỗ đặc sắc của Khóc Dương Khuê là nó làm vừa lòng cả hai phía cảm thụ: phía thích nghĩ rằng Nguyễn nẫu cả lòng vì thương bạn lẫn phía nhận ra rằng ông thực sự chẳng thương bạn mà chỉ không kìm nỗi xúc động vì “chút nghĩa cũ càng”. Chính khả năng hai chiều ấy mới làm đậm dấu ấn Tam Nguyên. Cái lối “lỡm” người đọc vốn là thú sở trường của Nguyễn Khuyến (nhất là trong lĩnh vực cầu đối). Cũng đừng quên rằng đây là bài thơ tự sự riêng tư chứ không phải viết để chia buồn, để truy điệu theo kiểu thù tạc đời thường. Rất có thể tang gia họ Dương vào thời điểm ấy chưa mấy ai biết đến.

Cuối cùng, nếu có ai đó nghĩ rằng “bảo là khóc nhưng cuối cùng nhạc khóc thì thà đừng khóc”. Nghĩ như thế là dựa lập trường “phi quân tử” để phủ nhận tính cách quân tử của Nguyễn Khuyến cũng như trong cuộc đời và đánh mất đi của cõi đời một kiệt tác về Tình Bạn vậy.

8. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 8

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là đôi bạn tri kỉ. Nguyễn Khuyến sinh trước (1835), Dương Khuê sinh sau (1839), nhưng Dương Khuê lại đi trước (1902). Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ “Khóc Dương Khuê”. Thơ viết về tình bạn nhiều, nhưng thơ hay hiếm.

Bài thơ “Khóc Dương Khuê” của cụ Tam Nguyên Yên Đồ thuộc vào loại những bài thơ hiếm về tình bạn. Gần một thế kỉ, bạn đọc đã yêu thích, đã nhớ, đã truyền tụng bài thơ viết về tình …… sâu sắc, cảm động, cao quý này. Nguyễn Khuyến bàng hoàng khi nghe tin bạn mất:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.

Tác giả nén đau thương trong hình thức tu từ nhã ngữ (nói giảm). Nhà thơ không dám nói đến những chữ đau lòng mà chỉ nói “thôi đã thôi rồi”. Nhưng tình cảm đau thương tang tóc lại nhuốm cả không gian “nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”. Những từ láy “man mác”, “ngậm ngùi” biểu lộ sự thốn thức trong lòng thi nhân. Tác giả hồi tưởng lại những kỉ niệm về tình bạn với Dương Khuê:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”.

Nguyễn Khuyến nhớ lại khoa thi năm Giáp Tí (1864) hai người cùng “đăng khoa” (thi đậu), Nguyễn Khuyến đậu giải nguyên (đậu đầu cử nhân). Cuộc gặp gỡ ấy là cái duyên của hai người bạn đồng khoa, “duyên trời”, Nguyễn Khuyến quan niệm như vậy thật là thiêng liêng. Và đôi bạn đã sống với nhau xứng với “duyên trời”. “Kính yêu từ trước đến sau”.

Đây là câu thơ nghiêm trang nhất của bài thơ. Một tình bạn đẹp và cao quý thì chẳng những biết “yêu” mà còn phải biết “kính”. Người đời, trong tình bạn thường biết “yêu” mà ít biết “kính” (kính người trên thì dễ, kính người ngang thì khó). Bạn nhắm mắt rồi mà nói được “kính yêu từ trước đến sau” thì tình bạn ấy thật là toàn vẹn như một viên ngọc không tì vết. Những kỉ niệm về tình bạn hiện lên như một cuộn phim với những hình ảnh, âm thanh sinh động:

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo

Có khi từng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.

Hai người bạn đã từng dạo “chơi nơi dặm khách”, những phong cảnh thiên nhiên kì thú, lâu rồi mà âm thanh như còn văng vẳng đâu đây “tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”. Những đam mê của hai người như một: “Có khi từng gác cheo leo, Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đã từng rủ nhau đi hát ả đào, thú vui thanh cao của khách phong tình. Trước đó có Nguyễn Công Trứ, cùng thời có Tú Xương, sau này có Tản Đà đều thích “thú vui con hát lựa lời cầm xoang”. Và hát ả đào đã thành thơ với các thi sĩ lừng danh đó. Lại nữa, rượu và thơ làm sao thiếu được trong tình bạn của họ Nguyễn và họ Dương:

“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn

Biết bao đông bích, điển phần trước sau”.

Rượu ngon lại có bạn hiền, còn gì đầy đủ và vui thú hơn? Trong chén rượu đầy ắp khí xuân, sắc xuân, “Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân” là Nguyễn Khuyến mãn nguyện rồi. Lại có bạn đế bàn soạn câu văn, bàn luận chữ nghĩa của thánh hiền, cuộc sống ý nghĩa và phong phú thay! Cũng trong dòng hồi tưởng, nhà thơ đặt tình bạn trong mối tương quan với đất nước, với thời cuộc, Nguyễn Khuyến ngậm ngùi:

“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời

Bác già tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!”

“Buổi dương cửu” là thời buổi bị “hạn”, ám chỉ tình cảnh mất nước, dân nô lệ, Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đều “cùng nhau hoạn nạn”. Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn. “Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”. Sông cảnh hoạn nạn, nhà thơ không dám tham lợi lộc, bổng lộc của người làm quan. Đã từ quan trở về quê rồi mà nhà thơ vẫn còn ân hận, ân hận cho cả hai: “Biết thôi thôi thế thì thôi mới là”!

Nguyễn Khuyến rất nhạy cảm trong cách lựa vần điệu cho hợp với tâm tình. Thể thơ song thất lục bát rất thích hợp với điệu trữ tình kết hợp với tự sự. Những câu song thất nói được rất nhiều về kỉ niệm và thay đổi được nhịp điệu thơ, sửa soạn cho những câu lục bát lắng sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sau khi nhớ lại những kỉ niệm về tình bạn với bác Dương, nhà thơ lại trở về với tin buồn của cố nhân:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời.”

Cái chết đâu có trật tự người già đi trước, người trẻ đi sau, nhưng người trẻ đi trước bao giờ cũng gây xúc động đột ngột cho người già. Cho nên Nguyễn Khuyến nghe tin người bạn nhỏ tuổi hơn mình đột ngột ra đi thì “chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời” là thế.Người bạn hiền Dương Khuê “đã mải lên tiên”, Nguyễn Khuyến cảm thấy cô đơn:

“Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai ai biết mà đưa,

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.

Rượu không uống, “rượu ngon không có bạn hiền” làm sao uống? Hỡi ôi, người ta không thể uống rượu một mình được! Thơ không muốn viết, “viết đưa ai ai biết mà đưa”, câu thơ vừa thương tiếc bạn, vừa đề cao người bạn hiền Dương Khuê về trình độ thẩm thi. Giường dành cho bạn thì treo lên “hững hờ”, vì không còn cơ hội nào để hạ xuống. Đàn không muốn gảy, vì còn ai là người tri âm? Câu thơ có thần hơn cả để diễn tả nỗi cô đơn khi mất bạn là câu thơ hoàn toàn không có điển cố:

“Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua”.

Nỗi cô đơn được phổ bằng một hợp âm năm nốt “không” mà âm sắc thì không có nốt nào giống nốt nào, thật là điệu nghệ. Mất bạn mà cảm thấy tâm hồn trống không như thế thì tình bạn của họ Nguyễn và họ Dương cao quý biết nhường nào!

Trong thơ Việt Nam trước sau chưa có một bài thơ khóc bạn nào hay như bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến. Tình sâu, ý đẹp, hình, nhạc đều sống động.

Bố cục chặt chẽ trong cả bài và trong từng tiểu đoạn. Ngôn ngữ trong sáng, tinh luyện, điển cố vừa phải và những câu thơ hay là những câu thuần Việt, không điển cô’. Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê chân thành, cảm động, sâu sắc. Nếu được chọn một tứ thơ nào tiêu biểu cho tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê và cũng là tiêu biểu cho tình bạn của muôn đời thì tôi chọn hai câu này:

“Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”.

9. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 9

Nguyễn khuyến là một tác gia lớn trong nền văn học Việt Nam, ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ với những giá trị rất lớn và nhiều ý nghĩa. Ngoài những bài thơ mang những hình ảnh thân thuộc của làng cảnh Việt Nam, những bài thơ trào phúng cười thâm thúy, sâu cay Nguyễn Khuyến còn là một nhà thơ của tình bạn, tình làng trên xóm dưới. Tiêu biểu trong đó có bài thơ Khóc Dương Khuê mang đậm tình cảm của nhà thơ dành cho bạn của mình.

Bài thơ có nhan đề Khóc Dương Khuê thể hiện sự khóc bạn của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Đó là những tiếng khóc thương tiếc của nhà thơ dành cho người bạn của mình, là sự tiếc nuối những gì đã có với nhau để giờ đây bạn vội đi để lại một mình nhà thơ với những kỉ niệm vơi đầy của quá khứ. Đúng là người chết đi thì bình yên nhưng để lại sự thương tiếc cho người còn sống. Bài thơ hay chính là lời tiễn biệt của nhà thơ dành cho bạn mình. Trước hết là hai câu thơ đầu tiên nói về tâm trạng của nhà thơ khi nghe tin bạn của mình qua đời:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. ”

Đó là tâm trạng buồn thương đầy nuối tiếc của nhà thơ. Cụm từ “thôi đã thôi rồi” thể hiện sự nói giảm nói tránh của nhà thơ để làm giảm đi sự thật đau lòng kia. Bác Dương giờ đây đã không còn nữa, nhà thơ buồn thương khi nghe tin ông qua đời, tuổi già xế bóng cái chết luôn cận kề, hay chính là người ta đã đi tới dốc của bên kia cuộc đời. Những người bạn già càng thêm quý hơn những giây phút ở bên nhau, những buồn vui tuổi già còn gì quý hơn con cháu và bạn bè nữa, nhất là những nhà nho thời xưa.

Thế nhưng người bạn của nhà thơ đã không một lời tiễn biệt cứ thế cất bước ra đi. Nhà thơ biết tin chứ không hề chứng kiến. Nỗi buồn thương vô hạn cho người đã mất được Nguyễn Khuyến diễn tả “man mác”, “ngậm ngùi”. Đó không phải là sự thương tiếc đau đớn dằn vặt, không phải quằn quại không chấp nhận thực tại mà là một nỗi buồn man mác. Có lẽ ta cảm nhận được cái thở dài ngao ngán của nhà thơ. Phải chăng cái tuổi già ấy đã làm cho nhà thơ biết chấp nhận được thực tại. Nỗi ngậm ngùi thương tiếc được đẩy vào bên trong.

Tiếp đến những câu thơ sau tác giả lần lượt nhắc lại những kỉ niệm của mình với người đã khuất. Khoảng thời gian gắn bó của nhà thơ với bác Dương thật sự không phải ngắn ngủi. Có thể nói hai người như tri kỉ của nhau vậy, họ cùng nhau từ khi còn là một chàng thanh niên đến khi ra làm quan rồi về đến cả tuổi già. Đó là một tình bạn lâu dài và bền vững mà không có gì có thể ngăn cản được họ.

Trước tiên là những kỉ niệm của nhà thơ về một thời trai trẻ cùng với bác Dương, đó là một thời vàng son oanh liệt, một thời sung sức tràn đầy, thời của tuổi trẻ tung tăng tự do và đầy hoài bão:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi tầng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau”

Tác giả nhớ về những ngày tháng cùng nhau ôn luyện khoa thi cử. Đó là một thời vui vẻ nhất trong cuộc đời con người nói chung và cuộc đời của nhà thơ và người bạn mình nói riêng. Thuở ấy nhà thơ cùng Dương Khuê vẫn sớm tối cùng nhau, đi đâu cũng đi cùng nhau “sớm hôm tôi bác có nhau”. Cả hai đều quý trọng yêu mến lẫn nhau, họ quý trọng tình bạn mà họ đang có.

Nhà thơ khéo đặt một câu hỏi cho chính bản thân mình cũng như người đã mất, liệu rằng tình bạn ấy có phải là do duyên trời đã định không. Câu hỏi ấy không có câu trả lời vì tác giả biết, người đã mất biết, bạn đọc cũng biết được câu trả lời ấy. Nói về duyên phận cốt chỉ là để nêu cao những tình cảm bằng hữu tri kỉ của hai người họ mà thôi. Không những thế họ còn rủ nhau đi chơi khắp nơi đây cùng đó. Họ trải qua những ngày tháng thật tuyệt vời bên nhau. Họ vui vày cùng thiên nhiên cây cỏ, họ lắng nghe tiếng suối đang reo róc rách ngoài xa trên lưng đèo nọ.

Tiếp nữa là những tầng gác cheo leo và hiểm trở. Họ vui đùa cùng nhau như thế suốt quãng thời gian niên thiếu của mình. Đi ngao du chơi bời khắp nơi rồi lại quay về nghe hát ả đào, rồi cùng nâng chén rượu cạn với nhau cho thỏa tình huynh đệ anh em. Những chén rượu ấm nóng đong đầy như tình cảm của hai người vậy. Cả đến khi họ học hành soạn câu văn hứng câu thơ họ cũng cùng nhau làm.

Người ra vế đối người lại điền câu, họ như thi tài văn với nhau cũng như đang hưởng những gì đẹp nhất của những người học hành thi cử. Tiếp nữa nhà thơ hồi tưởng về những kỉ niệm khi họ cùng làm quan trong triều. đó là một kỉ niệm gian nan cũng có nhau và niềm vui thì cũng nhân đôi lên gấp bội:

“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”

Làm quan mà tài giỏi thì lắm chuyện thị phi, nhiều người hãm hại ghen ghét, không thế thì cũng rất nhiều điều sơ suất có thể mất đầu như chơi. Khi ấy họ thường chia sẻ cùng nhau quan tâm nhau giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn gian nan mà họ phải gánh chịu. đó là một tình bạn đẹp tuyệt vời, một tình bạn rất đỗi thiêng liêng và đáng trân trọng hơn bất cứ thứ gì như vàng bạc châu báu hay chức quan trong triều. Một người bạn tốt là luôn bên ta dù cho có sung sướng hay khó khăn. Và Nguyễn Khuyến và bác Dương là một đôi tri kỉ như thế.

Trai trẻ rồi làm quan, làm quan rồi thì cũng sẽ già, mỗi mùa xuân đến cái tuổi nó lại mất đi mà như Xuân Diệu đã thật đúng khi nói rằng “ nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Xuân đến rồi xuân đi, xuân vẫn non rồi cũng sẽ già và con người cũng vậy có thời trai trẻ thì trải qua những mùa xuân họ đã bước đến tuổi già. Nhà thơ tiếp tục nhắc lại những kỉ niệm cùng bạn về cái tuổi xế bóng ngả chiều:

“Bác già, tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,”

Tuổi già làm cho người ta trở nên lười nhác và khó vận động hơn, chính vì thế ba năm gặp lại người bạn tri âm tri kỉ của mình nhà thơ vui mừng khôn xiết. Cả hai đều khôn xiết cầm tay hỏi gần hỏi xa. Hỏi nhau về sức khỏe thế nào, hỏi nhau về sinh hoạt hằng ngày. Họ cứ vui mừng khôn xiết, cứ mừng mừng tủi tủi vì bao lâu mới gặp lại nhau.

Trước những kỉ niệm ấy nhà thơ càng thêm buồn trước thực tại phũ phàng, thực tại đó làm cho người ta thấy thương thấy nhớ, thấy tất cả những kỉ niệm qua đi làm người ta nhớ đến người đã mất nhiều hơn:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Vội vàng sao đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nhà thơ buồn bã kể tuổi mình còn nhiều hơn tuổi của Dương Khuê mà giờ đây lại là người chịu nổi đau mất bạn, đáng lẽ ra nhà thơ phải là người đi trước thế nhưng cuộc đời thường trái ngược như thế. Nhà thơ khẽ trách sao bác vội đi ngay làm cho nhà thơ phải đau đến mấy ngày và nhớ thương mãi mãi. Khi nghe tin bác Dương mất đi nhà thơ như dụng rời chân tay.

Người mất đi để lại biết bao nhiêu niềm thương tiếc, để giờ đây một mình nhà thơ với rượu ngon không có ai uống cùng. Câu thơ định viết mà còn ngập ngừng vì không có ai hiểu thơ ông như bác Dương cả. điệp từ không như khẳng định, nhấn thêm vào nỗi trống vắng của nhà thơ khi mất đi người bạn thân yêu. Giường kia cũng treo hững hờ để đấy, tiếng đàn kia ngẩn ngơ buồn thiu.

Thế rồi tác giả buồn thương nhưng ví tuổi già như hạt sương tan đi nhanh chóng không biết lúc nào vì vậy “ hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”. Tuổi già dễ tan vỡ như giọt sương kia, nắng lên hay chính là ông trời cho sống đến ngày nào thì hay được ngày ấy.

Như vậy có thể thấy được nỗi xót thương vô hạn của nhà thơ dành cho bạn của mình. Tuổi già tròi cho sống ngày nào hay ngày ấy, biết vậy nhưng tác giả không thôi thương tiếc cũng như bủn rủn chân tay khi nghe tin người tri âm tri kỉ của mình ra đi đột ngột như thế.

Bằng những câu thơ hay tự do, nhịp điệu dặt dìu như chính là nỗi lòng tâm sự của tác giả. Từng câu từng chữ như bật lên thể hiện những tiếng khóc ngậm ngùi của nhà thơ dành cho bạn mình. Thế đấy bạn bè là khi còn sống hay đã chết, nghèo đói hay giàu sang, sướng vui hay khổ nhục đều nhớ về nhau, chia sẻ cho nhau những điều bắt gặp trong cuộc đời.

Nguyễn Khuyến thật có hạnh phúc khi có một tình bạn như thế, bài thơ như là lời tiễn biệt nhớ thương của nhà thơ dành cho người đã mất. đồng thời đó cũng giống như lời khóc thương mà nhà thơ cố gắng gửi từ cõi trần đến thế giới bên kia.

10. Phân tích Khóc Dương Khuê bài số 10

Tình bạn là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày, mất đi một người bạn, đặc biệt là người bạn tri âm, tri kỉ là một sự mất mát lớn đối với mỗi con người. Từ nỗi đau mất bạn của mình, Nguyễn Khuyến đã viết nên những vần thơ tràn đầy cảm xúc, bộc lộ tình cảm chân thành của nhà thơ với bạn qua bài thơ Khóc Dương Khuê.

Dương Khuê (1839 – 1902) người làng Vân Đình, Tổng Phương Đình, tỉnh Hà Đông nay là Vân Đình, huyện Ứng Hoà, Hà Tây. Đỗ Tiến sĩ năm 1868, làm quan đến Tổng đốc Nam Định, Ninh Bình ông là bạn thân của Nguyễn Khuyến. Khi làm Tổng đốc Nam Định, ông đã đứng về phía chủ chiến trong việc “đánh hay hoà với Thực dân Pháp”. Ông bị vua Tự Đức chê là “Bất thức thời vụ” (không hiểu việc đương thời). Ông bị giáng chức cho coi việc khẩn hoang. Cuối đời con đường hoạn lộ cũng thông đạt. Dương Khuê còn là nhà thơ, Thơ Dương Khuê khác thơ Nguyễn Khuyến. Thơ ông bộc lộ tự do phóng túng theo chiều hướng lãng mạn: Nằm khểnh ngâm thơ cho vợ ngủ; Rũ đầu uống rượu với con chơi”. Hai người kết bạn từ khi cùng đi thi. Mặc dù cuộc sống và chí hướng của 2 người khác nhau nhưng họ vẫn giữ được một tình bạn chân thành, thắm thiết.

Lẽ thường, đối với thi sĩ là nho sĩ của văn học trung đại người ta viết văn tế hoặc làm câu đối để khóc bạn khi bạn mất. Nguyễn Khuyến không theo thông lệ ấy. Ông chọn loại thơ trữ tình. Khóc Dương Khuê là một bài thơ trữ tình mang một nỗi niềm riêng tư sâu lắng, da diết tiếc thương. Bài thơ Khóc Dương Khuê nguyên văn bằng chữ Hán, tác giả dịch ra chữ Nôm.

Khóc Dương Khuê được viết theo thể song thất lục bát đậm màu sắc dân tộc, có khả năng diễn tả nỗi sầu thương, tiếc nuối ai oán. Chọn thể thơ dân tộc này, Nguyễn Khuyến thoát khỏi những khuôn mẫu của nghi lễ cứng nhắc, nhàm chán để diễn tả tình cảm chân thành của một ông bạn già khóc thương một ông bạn già.

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhận tin bạn mất, Nguyễn Khuyến vô cùng xúc động. Lời thơ như một tiếng than đầy tiếc thương, nhẹ nhàng mà thắt thiết. Hai tiếng “Bác Dương” thể hiện sự gần gũi, gắn bó, thân thiết. “Thôi đã thôi rồi” như một tiếng thở dài buông xuôi não ruột. Nỗi đau xoáy vào lòng người, trở thành nỗi ngậm ngùi xót xa như chia cả với trời đất “Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta” . Thiên nhiên cũng chia sẽ với con người nỗi mất mát lớn lao ấy. Nhịp điệu câu thơ cũng nghẹn ngào, có cái gì không thoát ra lời ở “nước mây man mác” tiếng “mác” làm tiếng khóc như ứ nghẹn bởi phụ âm tắc vô thanh. Nó lắng xuống ở hai tiếng “ngậm ngùi” và xa xót trong lòng người khóc. Tác giả đã thể hiện tâm trạng đó bằng cách nói giảm nói tránh kết hợp với các từ láy đầy xót xa.

Từ nỗi đau, nhà thơ trở về với quá khứ, với kỉ niệm:

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Kính yêu từ trước đến sau:

Trong khi gặp gỡ, khác đâu duyên trời.

Nhà thơ nhớ lại quãng thời gian cùng “đăng khoa” – cùng đi thi, cùng đỗ đạt một khoá. Đó là quãng thời gian “sớm hôm gắn bó”, mà Nguyễn Khuyến gọi là “duyên trời”. Trên đời này không phải ai cũng là bạn thân của mình. Đặc biệt, tình bạn của hai người lại vô cùng cao quý, là sự “kính yêu từ trước đến sau”. Đôi bạn này là đôi bạn “đại khoa” cho nên trong tình bạn chữ “kính” đặt lên trước chữ “yêu” đi kèm theo. Trí tuệ đi trước, khai sáng cho tình yêu. Kính nhau vì tài đức, yêu nhau vì nết vì tình.

Rồi tình bạn ấy, làng càng đẹp hơn, keo sơn gắn bó hơn bởi những lần đi du ngoạn “chơi nơi dặm khách”:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách;

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.

Có khi từng gác cheo leo, 

Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Đó là những lúc mà hai người cùng nhau đến hững nơi xa xôi phong cảnh núi rừng “Tiếng suối reo róc rách lưng đèo”. Cả những tầng cao đón gió, thú vui đàn ngọt hát hay: “Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Người xưa có nói: “Tửu phùng tri kỉ thiên bối thiểu – Thi hội tri âm bán cú đa”. Bạn tri âm trong hội thơ (chỉ nghe qua) nửa câu thơ đã là nhiều không cần dài lời cũng đủ hiểu bạn. Nguyễn Khuyến nhớ lại những lần cùng bạn uống rượu làm thơ:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Chén quỳnh tương là chén ngọc, một cách nói sang trọng. “Rượu ngon cùng nhắp” và hình ảnh “ăm ắp bầu xuân” như còn giữ lại một tình bạn trong hương vị nồng nàn, hứng khởi. Nhắc tới chuyện bàn soạn văn chương thì đầy ắp những sách vở, điển cố. Hai chữ “đông bích, điển phần” biểu lộ niềm tự hào kín đáo của những nhà nho học rộng tài cao.

Nguyễn Khuyến đã sử dụng cách diễn đạt trùng điệp hai nhóm từ ngữ: “Cũng có lúc” và ”có khi” đan chéo vào nhau, bốn lần xuất hiện trên tám dòng thơ, vừa để liệt kê gợi nhớ, vừa tạo nên âm hưởng quấn quýt, thiết tha. Những kỉ niệm ấy vô cùng sâu sắc, đẹp đẽ về tình bạn, không bao giờ có thể quên được.

Kỉ niệm giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê không chỉ có kỉ niệm đẹp, kỉ niệm vui mà còn có kỉ niệm buồn:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Miếng đẩu thăng chẳng dám than trời,

Nguyễn Khuyến cho đó là “phận”, là: “tai ách” “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn”. Làm quan dưới thời ấy là làm tay sai. Vua, quan gì ở thời mất nước. Câu thơ cũng ngậm ngùi xa xót của vị đắng. Làm quan mà cả hai nào có vui gì. Hai câu:

Bác già tôi cùng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là

Tiếng khóc bạn bộc lộ cả một cái nhìn lành mạnh về thời cuộc, về phận mình, về sự tính toán nhầm lẫn để đường đi lỡ bước… Đó là tiếng khóc cao cả của một quan niệm mới mẻ, khi con người đã nếm trải trên đường hoạn lộ. Mấy tiếng “Thôi thế thì thôi” như một sự buông xuôi vì đã chót làm quan mất rồi biết làm sao. Nó chỉ còn là tiếng thở dài đến ngao ngán. Đó là tiếng khóc mang cảm hứng nhân sinh của kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc.

Nhà thơ nhớ lại lần gặp cuối cùng cách đây ba năm:

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác”

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can

Đó là lần gặp gỡ cuối cùng, vì tuổi già, vì sự xa cách. Trong lần gặp gỡ đó, hai người đã mừng mừng, tủi tủi “cầm tay nhau hỏi hết xa gần” và sung sướng, mừng cho nhau vì sức khoẻ vẫn còn trụ vững ở đời. Câu thơ viết rất tự nhiên mà thật cảm động.

Ngày gặp gỡ cách đây ba năm dường như mới chỉ là hôm qua, vậy mà, hôm nay đã nghe tin “bác mất”:

Làm sao bác vội về ngay, 

Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời !

Khi mất bạn, Nguyễn Khuyến bộc lộ tình cảm hẫng hụt, trống vắng. Nhận tin bạn mất cảm thấy như mất đi một phần cơ thể:“chân tay rụng rời”. Những từ “chợt, bỗng” cùng với câu cảm thán diễn tả sự bất ngờ và hẫng hụt trong tình cảm. Và rồi, hàng loạt hình ảnh thơ diễn tả sự trống vắng khi mất bạn:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Bốn tiếng không diễn tả nỗi lòng cô đơn, trống vắng. Chữ nghĩa cứ trùng lặp mà không lấp đầy nỗi cô đơn.

Câu thơ nghĩ đắn đo chưa viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa

Mất bạn hiểu thơ mình rồi. Tìm đâu thấy được tri âm. Nhà thơ đã mượn tích xưa để diễn tả lòng mình. Trần Phồn đời Hậu Hán có người bạn là Tử Trĩ. Phồn dành riêng cho bạn một cái giường. Bạn đến mời ngồi. Bạn về lại treo giường lên. Bá Nha và Chung Tử Kì cũng là hai người bạn tri âm. Chỉ có Chung Tử Kì khi nghe tiếng đàn của Bá Nha mới hiểu được những điều Bá Nha đang nghĩ. Sau khi Chung Tử Kì mất, Bá Nha đã đập đàn không gảy nữa vì cho rằng từ nay không ai còn hiểu được tiếng đàn của mình.

Từ hai điển tích trên đây đi vào thơ Nguyễn Khuyến:

Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia gảy những ngẩn ngơ tiếng đàn

Bài thơ khóc bạn chan hoà nước mắt mà rất ít nói tới nước mắt. Duy có hai câu thơ cuối:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan

Câu thơ nói tới nước mắt mà thấy rất ít nước mắt. Vì Nguyễn Khuyến tình cảm thường rất kín đáo. Bằng tình cảm chân thành, bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi đau mất bạn. Nỗi đau ấy hiện ra dưới nhiều cung bậc: lúc bộc phát, lúc ngậm ngùi nuối tiếc, lúc lắng đọng thâm sâu.

Với tài năng và tấm lòng sâu nặng nghĩa tình, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã để lại cho đời một bài thơ nổi tiếng về khóc bạn. Bài thơ rất thành công về mặt nghệ thuật: câu hỏi tu từ, điệp từ điệp ngữ, từ láy… Tất cả các biện pháp nghệ thuật ấy có tác dụng nhấn mạnh nỗi đau đớn khôn nguôi của tác giả khi người bạn tri ầm tri kỉ của mình qua đời.

Khóc Dương Khuê thể hiện tình cảm vừa xa xót ngậm ngùi, vừa thiết tha luyến tiếc, đồng thời thể hiện sự trống vắng cô đơn của Nguyễn Khuyến khi bạn mất. Bài thơ là một kết tinh nghệ thuật quý báu của Nguyễn Khuyến. Qua tiếng khóc bạn đau đớn mà thấm thía, ta thấy đó là một tình bạn thủy chung, thắm thiết giữa cuộc đời đáng buồn lúc đó. Tình bạn ấy thật đáng trân quý biết bao.

Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu lớp 11 hay nhất / THPT Ngô Thì Nhậm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button