Phân tích Bài ca ngất ngưởng ngắn gọn nhất (có dàn ý)
Phân tích Bài ca ngất ngưởng: hướng dẫn cách làm và tuyển tập những bài văn hay phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của tác giả Nguyễn Công Trứ.
THPT Ngô Thì Nhậm giới thiệu mẫu dàn ý và bài văn phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng hay và ngắn gọn nhất của Nguyễn Công Trứ giúp em tham khảo trước khi làm bài. Trước hết cùng tham khảo dàn ý chi tiết phân tích Bài ca ngất ngưởng nhằm gợi ý cách làm giúp em triển khai bài viết dễ dàng và hay hơn nhé !
I. Dàn ý phân tích Bài ca ngất ngưởng chi tiết
1. Mở bài
1.1 Giới thiệu sơ lược về tác giả
– Khái quát về thân thế, sự nghiệp của tác giả:
+ Nguyễn Công Trứ là một nhà văn có tính cách “ngông”, một nhân vật lịch sử nổi tiếng, nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ
+ Thơ văn ông có nội dung phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc.
1.2 Khái quát về tác phẩm
– Giới thiệu hoàn cảnh lịch sử, xã hội, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác Bài ca ngất ngưởng
– Chủ đề nội dung của Bài ca ngất ngưởng: thể hiện bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân và một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.
– Ý nghĩa nhan đề: tập trung vào hai chữ “ngất ngưởng”
+ Nghĩa đen: Chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả
+ Nghĩa bóng: Cách sống vượt lên trên những khuôn mẫu, gò bó, thể hiện tính cách, thái độ, cách sống ngang tàng của Nguyễn Công Trứ.
2. Thân bài
2.1 Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan
– “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: quan niệm con người sinh ra do “ý của trời đất”, nên phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời (những việc trong vũ trụ đều thuộc trong phận sự của ta).
– Quan niệm ấy trong Nguyễn Công Trứ gắn liền với ý tưởng “tu, tề, trị, bình”, với chí làm trai và chủ nghĩa anh hùng mà ông đeo đuổi với tất cả lòng tin tưởng, lạc quan trong suốt cuộc đời mình.
– “Ông Hi Văn… vào lồng”:
+ Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng”: diễn tả cuộc đời làm quan, coi thường danh lợi của Nguyễn Công Trứ => Cách nhìn mới mẻ, khác lạ so với nhà Nho đương thời.
+ Coi nhập thế là việc làm trói buộc, làm quan sẽ mất tự do, gò bó nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng, hoài bão, trọn nghĩa vua tôi.
– Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
+ Tài năng: giỏi văn chương (khi thủ khoa), tài dùng binh (thao lược)
-> Tài năng lỗi lạc, xuất chúng, văn võ song toàn.
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
-> Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang, văn võ toàn tài.
=> Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật chân thành của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài từ, phóng khoáng, khác đời, ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng hay thái độ sống của người quân tử bản lĩnh, kiên trì lí tưởng.
2.2 Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu
– Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
=> Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng.
+ “Bụt cũng nực cười”: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng.
– Quan niệm sống:
+ “Được mất… ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian.
+ “Khi ca… khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.
+ “Không… tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục, sống thoát tục -> sống không giống ai, sống ngất ngưởng.
=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.
2.3 Quãng đời khi cáo quan về hưu
– “Chẳng trái Nhạc… Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: dùng điển cố ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật,…
– Tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ.
– Tự hào khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.
– “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”.
=> Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
3. Kết bài
– Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật
+ Nội dung: thể hiện phong cách sống tốt đẹp, bản lĩnh cá nhân trong khuôn khổ của xã hội phong kiến chuyên chế, sự tự ý thức giá trị bản thân của tác giả.
+ Đặc sắc nghệ thuật: Vận dụng thành công thể hát nói, giọng điệu hóm hỉnh, trào phúng; sử dụng điển tích, điển cố; kết hợp hài hòa giữa hệ thống từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Nôm thông dụng trong đời sống hàng ngày.
– Phát biểu cảm nghĩ, ấn tượng chung của bản thân về tác phẩm.
– Rút ra bài học tư tưởng, tình cảm… đối với bản thân.
Mẫu dàn ý chi tiết khác: Dàn ý phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ)
II. Bài phân tích Bài ca ngất ngưởng ngắn gọn (tham khảo)
Bài văn mẫu ngắn phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng dành cho các em tham khảo và nắm được cách làm bài, bám sát nội dung dàn ý.
Mở bài phân tích Bài ca ngất ngưởng
Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét: Thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ, cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng cho mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang bồng một khi đã trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao niên tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn… Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc.
Thân bài phân tích Bài ca ngất ngưởng
Không rõ tựa đề bài thơ này tự cụ đặt hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là kẻ nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới. Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm nhất là sau thời điểm Đô môn giải tổ chi niên (được trả ấn từ quan, vua cho về nghỉ). Bởi dù sao trong một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn.
Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất (như bên trên đã giải bày): Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với bộ đội trời đạp đất của ông.
Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng.
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi hương), làm Tham tán quân sự… chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to trong tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy đều là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao? Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định, đối với công danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng.
Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa. Người đời bảo cụ khác người, có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế, cụ cho bò đeo đạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau ngày cụ về nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn) thì lại cho ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cùng ngất ngưởng như mình? Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược. Đó là hai thứ ngất ngưởng.
Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến Bụt không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già.
Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc ca hát, một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/ dương dương người thái thượng, / Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên tầng cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống. Khi ca/ khi tửu/ khi cắc, khi tùng. Dù cuộc vui bày trong của Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao. Không phật, không/ Tiên, không vướng tục.
Đây là đoạn thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thang thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh, chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình. Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ.
Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tuỳ ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc: niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt… Giọng điệu bài thơ mang nét độc đáo của tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu, công tích lớn mà kể coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc.
Kết bài phân tích Bài ca ngất ngưởng
“Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ không chỉ là lời tự thuật về cuộc đời của một con người tài hoa, khí phách, mà còn là bản tuyên ngôn về lối sống ngạo nghễ, tự do, phóng đạt. Thông qua hình tượng nhân vật trữ tình – một cá nhân kiệt xuất, đầy bản lĩnh, bài ca đã thể hiện khát vọng sống tự do, vượt lên trên những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Đồng thời, nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, niềm tự hào về tài năng và nhân cách của bản thân. “Bài ca ngất ngưởng” xứng đáng là một tác phẩm độc đáo trong kho tàng văn học Việt Nam, mang đậm dấu ấn cá nhân của Nguyễn Công Trứ, đồng thời khơi gợi những suy ngẫm về lẽ sống, về cách ứng xử với đời của mỗi con người. Dù trải qua bao thăng trầm của thời gian, tiếng hát ngất ngưởng ấy vẫn còn vang vọng mãi, truyền cảm hứng cho thế hệ mai sau về một lối sống tự do, phóng khoáng, dám nghĩ dám làm, dám khẳng định giá trị của bản thân.
>>> Tham khảo thêm: Những bài văn hay phân tích cái tôi ngất ngưởng trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
-/-
Trên đây là bài văn mẫu phân tích Bài ca ngất ngưởng kèm dàn ý chi tiết mà THPT Ngô Thì Nhậm muốn gửi đến các em tham khảo. Chúc các em làm bài tốt khi tham khảo tài liệu hướng dẫn làm Văn mẫu 11 tại THPT Ngô Thì Nhậm.com !