Tổng hợp

Kinh Dương Vương là ai? Thân thế của Kinh Dương Vương

Kinh Dương Vương là ai?

Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王) là một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử, tương truyền ông là Đức thủy tổ mở ra nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta.

Năm 2879 trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nên nhà nước Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼 tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong số 28 vì sao sáng trên bầu trời). Các vua Hùng là hậu duệ huyết thống của Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương là ai?
Kinh Dương Vương là ai?

Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 1, mặt khắc 1 có chép về thân thế của Kinh Dương Vương như sau: “Vương tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông. Nhâm Tuất, năm thứ 1. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân lần đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương.

Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho Đế Nghi, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân”.

Như vậy, theo Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thì Kinh Dương Vương làm vua và cai trị đất nước Xích Quỷ từ khoảng năm 2879 trước Công nguyên trở đi. Địa bàn hoạt động của quốc gia Xích Quỷ dưới thời Kinh Dương Vương rất rộng lớn; phía Bắc là miền đồng bằng thuộc lưu vực sông Dương Tử giáp hồ Động Đình; phía Nam giáp với Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ); phía Tây giáp đất Ba Thục; phía Đông giáp biển Đông. Sách Lĩnh Nam chích quái có ghi lại truyền thuyết vua đánh đuổi thần Xương Cuồng dũng mãnh, trừ hại cho dân chúng.

Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng 1 tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh và được nhân dân kính cẩn lập miếu thờ. Mộc bản sách Đại Nam thực lục đệ tam kỷ, quyển 53, mặt khắc 25, 26 có chép: “Miếu Kinh Dương Vương nằm ở xã Á Lữ, huyện Siêu Loại (huyện Siêu Loại nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), tỉnh Bắc Ninh”. Ngôi đền thờ cùng lăng mộ của vua Kinh Dương Vương hiện vẫn còn tồn tại ở làng Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh – nơi duy nhất ở Việt Nam còn nguyên dấu tích Thủy tổ của người Việt.

Đền thờ Kinh Dương Vương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại phong kiến Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, là chốn linh thiêng bậc nhất của xứ Kinh bắc. Cứ mỗi lần quốc lễ, triều đình đều sai quan đến tế, nhân dân quanh năm được phụng thờ. Dưới triều Nguyễn, miếu thờ Kinh Dương Vương cũng được các bậc vua chúa quan tâm đặc biệt. Vào năm Minh Mạng thứ 20 (1840), khi bộ Lễ dâng lên vua lời tư của tỉnh Bắc Ninh: “xã Đình Bảng hạt ấy, có lăng tẩm của các vua triều Lý, nhưng chỗ nào là lăng vua thì sự tích không rõ. Và các lăng Kinh Dương Vương, Sỹ Vương, có nên theo ân chiếu tu lý dựng bia hay không?.

Vua Minh Mạng nói: Tên lăng các vua triều Lý đã không xét vào đâu được, lại cùng một chỗ cấm địa. Nên chiểu chỗ lăng, thuê dân sửa đắp cho chỉnh đốn, rồi chọn chỗ đất cao ráo lập một tấm bia đá”.

Đến năm 1874, vua Tự Đức đã hạ lệnh cho địa phương trùng tu, sửa chữa lại: “chỗ miếu thờ Kinh Dương Vương, nếu có hư hỏng gì thì địa phương xét thực, xin chi tiền, giao cho dân sở tại tu bổ, cấm cắt cỏ chăn trâu, định làm lệ mãi mãi”. Đồng thời, nhà vua cũng cho định lại điển lễ thờ tự miếu bậc Đế Vương: Miếu Kinh Dương Vương thờ 1 vị thì mỗi năm cấp cho tiền 100 quan và 10 người miếu phu.

Sở dĩ các vua triều Nguyễn quan tâm đến miếu thờ Kinh Dương Vương bởi vì theo vua Minh Mạng lễ nghi thờ cúng phải nên suy từ gốc nguồn. Mộc bản sách Đại Nam thực lục, quyển 215, mặt khắc 9 có chép về lời nói của vua Minh Mạng: “Sự tích Kinh Dương Vương dẫn chép ở sách “Ngoại kỷ”, thực là vua bắt đầu lịch đại nước ta”. Như vậy, trong tư liệu lưu trữ Mộc bản, Miếu thờ nhân vật Kinh Dương Vương là có thật, Kinh Dương Vương không phải là nhân vật huyền thoại nữa.

Và như để tôn trọng sự thật lịch sử, vào ngày 2/2/1993, Bộ Văn hóa – Thông tin đã ra quyết định công nhận “Di tích lịch sử lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành”. Đến năm 2008, Bộ Văn hóa – Thông tin tiếp tục công nhận đền thờ Kinh Dương Vương là Di tích quốc gia. Hằng năm, cứ đến ngày giỗ của Đức thủy tổ (18 tháng 1 âm lịch) nhân dân khắp mọi miền tổ quốc lại về thắp nén hương thơm tỏ lòng tri ân, hướng về cội nguồn đối với vị vua đầu tiên của lịch sử dân tộc.

Thân thế của Kinh Dương Vương
Thân thế của Kinh Dương Vương

Thân thế của Kinh Dương Vương

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, một quyển sách theo quan điểm Nho giáo thì Kinh Dương vương có nguồn gốc từ phương Bắc: Nguyên Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi cưới Vụ tiên nữ (鶩僊女), sau đó sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên Lộc Tục (祿續).

Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương vương (chữ Hán: 涇陽王). Theo Đại Việt Sử ký toàn thư thì Kinh Dương vương làm vua và cai trị từ khoảng năm 2879 TCN trở đi. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Lĩnh Nam chích quái ghi lại truyền thuyết vua đánh đuổi thần Xương Cuồng dũng mãnh, trừ hại cho dân.

Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là Thần Long, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.

Ngày nay, người trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay) hay tổ chức Lễ hội tưởng nhớ Kinh Dương vương vào ngày 18/1 âm lịch hằng năm.

Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương

Việc thờ cúng Kinh Dương Vương ở Việt Nam không phổ biến bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Hùng Vương đồng thời là vị thần rất được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam; được các triều đại phong kiến lập Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm.

Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại Phong kiến Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, mỗi lần Quốc lễ đều cho quân đến tế lễ, dân thờ phụng trang trọng. Năm 2013, tỉnh Bắc Ninh công bố quy hoạch bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hoá quốc gia lăng và đền thờ Kinh Dương vương với tổng mức đầu tư khoảng hơn 491 tỷ đồng . Dự án chia làm 4 hạng mục xây dựng chính gồm: Không gian bảo tồn di tích, tập trung tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương sân đền, vườn khu lăng mộ; không gian giá trị di tích gồm: Tượng đài thuỷ tổ, quảng trường văn hoá lễ hội, nhà trưng bày văn hoá…đi kèm các dịch vụ phụ trợ để phát triển du lịch văn hoá tâm linh, thu hút du khách và hạ tầng kỹ thuật, san nền, đường giao thông, đường điện.

Đền thờ Kinh Dương Vương
Đền thờ Kinh Dương Vương

Đường Kinh Dương Vương

Tên Kinh Dương vương được đặt cho một số con đường tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Bắc Ninh, Thị xã Hồng Lĩnh và Huyện Thuận Thành.

Tại Bắc Ninh, đường Kinh Dương vương nối từ đường Ngô Gia Tự chạy ngang qua Trung tâm văn hóa Kinh Bắc và kết thúc tại đường Đấu Mã. Còn đường Kinh Dương vương thứ 2 là quốc lộ 38 từ Cầu Hồ tới ngã tư Đông Côi huyện Thuận Thành.

********************

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Tổng hợp

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button