Tổng hợp

Đôn Hoàng là ai? Đôn Hoàng bồ tát là ai?

Đôn Hoàng là ai?

Đôn Hoàng (chữ Hán giản thể: 敦煌市, âm Hán Việt: Đôn Hoàng thị) là một thành phố cấp phó địa thuộc địa cấp thị Tửu Tuyền, tỉnh Cam Túc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố Đôn Hoàng có diện tích 31.200 ki-lô-mét vuông, dân số 130.000 người (năm 2002). Mã số bưu chính của thành phố này là 736200, mã vùng điện thoại là 0937. Đôn Hoàng nằm trong một ốc đảo sa mạc.

Đôn Hoàng là một điểm dừng chân chính trên Con đường Tơ lụa cổ đại. Đôn Hoàng chiếm vị trí chiến lược tại ngã tư của Con đường Tơ lụa cổ đại phương Nam và con đường chính dẫn từ Ấn Độ qua Lhasa đến Mông Cổ và Nam Siberia, cũng như kiểm soát lối vào Hành lang Hexi hẹp, dẫn thẳng đến trung tâm của các đồng bằng phía bắc Trung Quốc và các thủ đô cổ của Trường An (ngày nay được gọi là Tây An) và Lạc Dương. Đôn Hoàng nổi tiếng với các tượng Phật được khắc trong hang đá và được biết đến nhiều nhất với Hang Mạc Cao gần đó.

Đôn Hoàng là ai?
Đôn Hoàng là ai?

Lịch sử của Đôn Hoàng

Thị trấn ở phía Tây Bắc Trung Quốc, là địa đầu của con đường Lụa xuyên Trung Á nổi tiếng, theo con đường này, các Tăng sĩ truyền giáo Ấn Độ đã đi qua Trung Quốc truyền bá đạo Phật. Tại thị trấn Đôn Hoàng hai nhà khảo cổ học phương Tây là Stein và Pelliot đã phát hiện thấy có nhiều kinh sách Phật quan trọng bằng chữ Sanskrit.

Đôn Hoàng xưa kia vốn là kinh đô của nhà Tây Lương, miền Bắc Trung Quốc. Vị trí của nó ở tỉnh Cam Túc. Ở đây, có nhiều danh tăng xuất hiện, trong số này có Trúc Pháp Hộ, đời Tây Tấn, được tôn gọi là Bồ Tát Đôn Hoàng.

Đôn Hoàng có động bằng đá nổi tiếng, gọi là “Thiên Phật động”, vị trí ở núi Minh Sa, gồm 353 hang, trong mỗi hang đều chạm trổ nhiều tượng Phật và Bồ Tát rất đẹp.

Đôn Hoàng, một ốc đảo nằm trên Con đường tơ lụa xưa, không chỉ là nơi dành cho những đoàn thương nhân dừng nghỉ, mà còn là điểm giao thoa văn hóa, nghệ thuật và Tôn giáo giữa Đông và Tây.

Đến Đôn Hoàng, có lẽ ý nghĩa nhất là dịp để ta thưởng ngoạn những công trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật cổ xưa đặc sắc; ghé thăm bảo tàng – thư viện Phật giáo đồ sộ, nơi lưu giữ vô số những tài liệu quý giá mà không nơi nào có được.

Đôn Hoàng, nay nằm ở phía Tây tỉnh Cam Túc và phía Đông sa mạc Taklamakan (Tháp-khắc-lạp-mã-can sa mạc), là một địa danh rất quan trọng về phương diện lịch sử, với cả Phật giáo và Trung Quốc. Di sản thế giới được UNESCO công nhận này xác chứng cho một nghìn năm trao đổi văn hóa và nghệ thuật cũng như sự phát triển rực rỡ của Phật giáo.

Trong mười thế kỷ (từ thế kỷ IV đến XIV), Đôn Hoàng phát triển không ngừng nhờ vào vị trí địa lý chiến lược của mình. Những hang động Mạc Cao, tọa lạc bên ngoài ốc đảo Đôn Hoàng 25km, trở thành một kho lưu trữ những tư liệu về đời sống tôn giáo, nghệ thuật, kinh tế, chính trị và xã hội của vùng đất này, được minh họa qua những bích họa, những tác phẩm điêu khắc, những vật thể, tài liệu được tìm thấy bên trong quần thể những hang động này.

Vào thế kỷ III tr.CN, Đôn Hoàng là nơi sinh sống của người Nguyệt Thị (Yuezhi), Ô Tôn (Wusun) và Hung Nô (Xiongnu). Thế kỷ II tr.CN, một thanh niên người Trung Quốc có tên là Trương Khiên  đã hai lần đến nơi này và sau đó đến những vùng xa xôi khác ở phía Tây. Hành trình của ông là một trong những hành trình quan trọng nhất lịch sử, bởi ông đã ghi chép những thông tin có giá trị về lịch sử và địa lý của vùng đất này, đưa Trung Quốc đến khám phá Châu Âu, do đó khai sinh nên “Con đường tơ lụa”.

Đôn Hoàng được Hán Vũ Đế thiết lập như một pháo đài vào năm 111 tr.CN để mở rộng sức mạnh quân sự và vì những lợi ích thương mại. Triều đình cũng đưa người từ chính quốc đến định cư ở đây và đóng quân để bảo vệ và khai phá đất đai. Từ đó về sau Đôn Hoàng trở thành một tiền đồn quan trọng. Là cửa ngõ đến Trung Á, nó cũng phát triển thành một trung tâm thương mại, nhập khẩu vào những thứ như thuốc men, đồ gia vị, rượu, thảm, gỗ trầm.v.v… và xuất khẩu lụa, đồ sứ. v.v… Bởi vì thương mại mang về tài sản lớn cho Trung Quốc, những cuộc chiến tranh không hồi kết đã xảy ra giữa người Trung Quốc và những tộc người khác để kiểm soát huyết mạch kinh tế này.

Nhưng bất kể ai kiểm soát khu vực này, nó vẫn luôn đầy nguy hiểm đối với những đoàn thương nhân khi họ có thể bị Sa tặc (cướp sa mạc) tấn công bất cứ lúc nào hay chịu cảnh đói khát. Nhưng bất chấp mọi hiểm nguy, “Con đường tơ lụa” vẫn phát triển.

Khi xã hội Trung Quốc hỗn loạn vào thời Nam Bắc triều (thế kỷ III – VI), Đôn Hoàng tương đối bình yên và trở thành một trung tâm tỵ nạn. Thời kỳ này dân số nơi này gia tăng và triết học cũng như tôn giáo bắt đầu hưng thịnh. Một nhóm những Nho gia đã phát triển triết học của họ ở đây. Và văn hóa Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo, cũng được truyền vào vùng đất này.

Nền Văn Hóa Đôn Hoàng
Nền Văn Hóa Đôn Hoàng

Vào thế kỷ III, ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa) người gốc Nguyệt Thị, đã hành Đạo rất tích cực ở Đôn Hoàng sau khi đến Trường An và Lạc Dương. Ngài là một dịch giả xuất chúng, thuyết giảng và dịch kinh Phật trong nhiều năm với biệt danh là “Bồ-tát Đôn Hoàng”. Ngài Trúc Pháp Phong (Dharmaksema), một dịch giả Phật giáo khác, cũng đã từng lưu trú ở nơi này vào thế kỷ V.

Và chúng ta biết rằng, dịch giả Phật giáo quan trọng nhất thời kỳ đầu, ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) từ Kucha (Diêu Tần), đã hành hoạt tại Đôn Hoàng trước khi đến Trường An. Từ đó về sau, những phái đoàn truyền đạo và những người hành hương Phật giáo nhập Trúc cầu pháp trong hành trình thỉnh kinh và chiêm bái các thánh tích Phật giáo Ấn Độ cũng đã đi ngang qua đây.

Những Tăng sĩ Phật giáo nổi tiếng như ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã dừng chân ở đây khi đến Ấn Độ thỉnh kinh và chiêm bái. Theo đó, một cộng đồng Phật giáo được hình thành ở Đôn Hoàng, và những kiến trúc Phật giáo như chùa, tháp, được kiến tạo. Một loại kiến trúc mới – kiến trúc chùa hang động (Thạch quật) theo đó cũng được bắt đầu.

Hang động sớm nhất, theo ghi chép, được một vị du tăng tên là Lạc Tôn kiến tạo vào năm 366 sau CN. Khi đến ngọn núi này, ông bất chợt nhìn thấy những tia sắc vàng phát ra như thể hàng nghìn vị Phật xuất hiện trên vách núi. Sau đó, ông đào hang và an trú ở đó.

Sau ông, một vị sư là Pháp Lương) đã đào hang động thứ hai gần kề hang của Lạc Tôn. Những hang động này ngày nay không thể xác định được vị trí. Những ngôi chùa đầu tiên ở đây được tin rằng cũng do hai vị Tăng sĩ này xây dựng. Những việc xây dựng này có thể có sự hỗ trợ của những Phật tử địa phương.

Bên cạnh Phật giáo, một vài tôn giáo nước ngoài khác chẳng hạn như Mazdaism, phái Thiên Chúa giáo, Nestorian và Mani giáo, cũng đến Trung Quốc bằng Con đường tơ lụa cùng với nghệ thuật và văn học của họ.

Giữa thế kỷ IV và VI, thời Thập lục quốc (366 – 439), Đôn Hoàng nằm dưới sự kiểm soát của những vị cai trị du mục. Vào năm 439, Đôn Hoàng thuộc về Bắc Ngụy. Mặc dù triều đình cho chuyển phần lớn dân chúng đến nơi khác nhằm loại bỏ đi những truyền thống du mục của họ, việc kiến tạo hang động vẫn thịnh hành và ít nhất có 32 hang động được đục vào thời này. Vào những triều đại tiếp theo là Tây Ngụy (534 – 556) và Bắc Chu (557 – 581), có nhiều sự kiện ngược đãi kỳ thị tôn giáo xảy ra.

Tuy nhiên, do Đôn Hoàng nằm cách xa chính quốc nên những hang động Mạc Cao dường như thoát khỏi sự đàn áp này. Vô số những hang động đặc biệt được kiến tạo vào thời kỳ này.

Triều Tùy (581-618) chỉ kéo dài 37 năm nhưng nó đã chấm dứt sự hỗn loạn xã hội. Hệ thống chính trị và văn hóa của nó đã tạo ra một nền tảng vững chắc về sau cho triều Đường (618 – 907). Hai vị hoàng đế nhà Tùy là trong số những vị bảo hộ Phật giáo nhiệt thành nhất ở Trung Quốc. Phật giáo hưng thịnh khắp vương quốc và vô số chùa tháp được xây dựng. Việc kiến tạo hang động đạt đến những đỉnh cao mới vào thời kỳ này.

Nghệ thuật và văn minh của “Con đường tơ lụa” đạt đến đỉnh điểm vinh quang nhất vào vương triều nhà Đường khi đế quốc Trung Quốc đạt đến kỷ nguyên vàng son nhất trong lịch sử của nó. Vào đầu đời Đường, lãnh thổ của vương quốc được mở rộng và nó trở nên rất hùng mạnh.

Hoàng đế Thái Tông (tức Lý thế Dân 627 – 649) củng cố sức mạnh quân sự ở khu vực Tây Hạ, nhờ đó đã bảo đảm một sự phát triển liên tục và ổn định văn hóa và kinh tế của Đôn Hoàng.

Giữa những năm 781 và 847, bởi sự suy thoái của nhà Đường, Đôn Hoàng bị những người Tây Tạng (Tibetan) kiểm soát và những người Tạng cũng nhiệt tâm trong việc xây dựng chùa tháp và khắc đục các hang động.

Năm 847, một vị quan địa phương tên là Trương Nghị Triều đã tái thiết lại sự cai trị của Trung Quốc ở vùng đất này. Ông kiểm soát tất cả 11 huyện ở Tây Hạ với đội quân của mình được đặt ở Đôn Hoàng. Ông thệ nguyện trung thành với triều đình nhà Đường và được phong tước hầu, tuy vậy ông vẫn củng cố sự phòng thủ để bảo đảm sự độc lập của Đôn Hoàng. Ông cũng thiết lập một hệ thống kế thừa nhưng về sau, do thiếu người kế vị, quyền lực được chuyển giao cho những người họ Tào và dòng họ này tiếp tục cai trị mãi cho đến năm 1036, trước khi phục tùng Tây Hạ (1036 – 1227).

Để củng cố quyền lực của mình, những người họ Cao thành lập liên minh với các vương quốc xung quanh như Khotan và những vùng khác của Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) thông qua hôn nhân. Tất cả họ ủng hộ Phật giáo và tận tâm với việc kiến tạo hang động. Họ cũng cho họa vẽ những hình ảnh gia đình của họ lên các hang động để khẳng định quyền lực chính trị của họ.

Vào cuối đời Đường, một khu vực rộng lớn của Bắc Trung Quốc chịu sự cai trị của Liêu triều (907 – 1125), trong khi khu vực lớn khác lại do Tây Hạ kiểm soát. Đôn Hoàng rơi vào tay những người Duy Ngô Nhĩ vào thế kỷ XII trong khoảng 50 năm, sau đó nó bị những người Đường tộc xâm chiếm và cuối cùng vào năm 1227, những người Mông Cổ mà họ đã thiết lập nên nhà Nguyên (1271 – 1368), đã kiểm soát nó.

Suốt thời kỳ này, một vài hang động vẫn được kiến tạo ở Đôn Hoàng, nhưng sớm giảm số lượng. Con đường thương mại khác là bằng đường biển được phát triển và nhà Nguyên đã chú trọng phát triển về phía Tây, khiến cho Đôn Hoàng không còn là một vị trí chiến lược. Sự cạn kiệt dần những con sông mà chúng cung cấp nước cho ốc đảo đã ảnh hưởng đến điều kiện sống ở đây.

Bên cạnh đó, sự xâm chiếm của những chiến binh Hồi giáo đến từ A Rập đã làm chấm dứt những hoạt động đa văn hóa. Những yếu tố này đã khiến cho Đôn Hoàng bị lãng quên và dần lụi tàn.

Khi Trung Quốc rơi vào thời kỳ hỗn loạn vào cuối thời nhà Thanh (1638 – 1911), một Đạo sĩ tên là Vương Viên Lục tình cờ khám khá ra một “thư viện hang động” được bít kín vào năm 1900, mà nó chứa hơn 5.000 bản kinh chép tay, lụa và tranh vẽ, tranh thêu.v.v… Tại sao hang động này được bít kín với nhiều di vật quý giá ở bên trong vẫn còn là một điều bí ẩn. Sự khám phá này đã đưa những sử gia, những nhà khảo cổ học nước ngoài đến đây vào những thập niên của đầu thế kỷ XX và khiến Đôn Hoàng hồi sinh trở lại trên trang sử mới.

Ngày nay, Đôn Hoàng trở thành một điểm tham quan du lịch nổi tiếng. Đến đây, chúng ta sẽ được thưởng thức những tiết mục biểu diễn nghệ thuật đặc sắc, được dạo khu chợ đêm mà ở đó ta có thể mua những món hàng hay thưởng thức những món ăn mang hương vị “Con đường tơ lụa”. Nhưng đến Đôn Hoàng, có lẽ ý nghĩa nhất là dịp để ta thưởng ngoạn những công trình kiến trúc cổ, những tác phẩm nghệ thuật cổ xưa đặc sắc; được tiếp xúc với một mảnh đất từng là điểm giao thoa về văn hóa, nghệ thuật, triết học và tôn giáo; được ghé thăm bảo tàng – thư viện Phật giáo đồ sộ, nơi lưu giữ vô số những tài liệu quý giá mà không nơi nào có được.

Lịch sử lâu đời của Đôn Hoàng
Lịch sử lâu đời của Đôn Hoàng

là ai?

(敦煌菩薩) I. Đôn Hoàng Bồ Tát. Phạm: Dharmarakwa. Dịch âm: Đàm ma la sát. Cũng gọi Trúc pháp hộ, Đôn hoàng tam tạng, Nguyệt chi bồ tát. Ngài gốc người nước Nguyệt chi, nên mặc dầu tổ tiên nhiều đời sống ở Đôn hoàng nhưng vẫn lấy họ Chi. Ngài xuất gia năm lên tám, thờ vị sa môn người Ấn độ là Trúc cao tòa làm thầy, nên đổi lấy họ Trúc, người đời gọi là Trúc pháp hộ. Ngài tính tình thuần hậu hiếu học, thông suốt sáu kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, Xuân thu.

Hiện nay kinh Nhạc không còn, chỉ có năm kinh, nên thường gọi là Ngũ kinh của Nho giáo), am tường bách gia (100 nhà, gọi chung các nhà chuyên môn thời Xuân thu Chiến quốc nước Tàu). Vào thời Vũ đế nhà Tây Tấn, ngài theo thầy sang Ấn độ, học tất cả 36 thứ ngôn ngữ các nước, đồng thời thỉnh một số lớn kinh tiếng Phạm mang về Trung quốc và ngài phiên dịch luôn trên đường về, siêng năng không mệt mỏi. Cứ theo Xuất tam tạng kí tập quyển 2, thì trong khoảng 40 năm từ 268-308, ngài lần lượt dịch các kinh như: Chính pháp hoa, Hiền kiếp, Văn thù sư lợi tịnh luật, Như lai hưng hiển, v.v… gồm hơn 150 bộ, hơn 300 quyển. Vào những năm cuối đời vua Vũ đế, ngài ở ẩn trong núi sâu, không bao lâu, ngài lại làm chùa ngoài cửa Thanh môn thành Trường an. Sau ngài qua lại các nơi như Lạc dương, Thương viên, giảng thuyết kinh điển và hướng dẫn chúng tăng tu học. Ngài thị tịch vào khoảng năm Kiến hưng, không rõ tuổi thọ. [X. Lương cao tăng truyện Q.1; Khai nguyên thích giáo lục Q.2]. (xt. Trúc Pháp Hộ). II. Đôn Hoàng Bồ Tát. Ngài Đỗ thuận, Sơ tổ tông Hoa nghiêm, sống vào đời Đường, Trung quốc.

********************

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Tổng hợp

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button