Văn mẫu 10

Dàn ý phân tích Tam đại con gà

[Văn mẫu 10] Tham khảo dàn ý phân tích Tam đại con gà, một truyện cười trào phúng đặc sắc phê phán sự dốt nát và bảo thủ của một bộ phận nhân dân.

    Dàn ý phân tích Tam đại con gà bao gồm các luận điểm phân tích các chi tiết của truyện, qua đó phê phán sự dốt nát và thói bảo thủ che che đậy sự dốt nát của một bộ phận nhân dân bằng tiếng cười sâu cay.

Cùng tham khảo bài hướng dẫn dưới đây của THPT Ngô Thì Nhậm để hiểu rõ hơn về tác phẩm và cách làm dạng bài này em nhé!

Dàn ý phân tích truyện Tam đại con gà

I. Mở bài

– Giới thiệu về thể loại truyện cười: Là thể loại tự sự dân gian thông qua tiếng cười để đả kích, phê phán

– Giới thiệu khái quát về truyện cười Tam đại con gà: Là truyện cười trào phúng đặc sắc, phê phán sự dốt nát và thói bảo thủ che che đậy sự dốt nát của một ông thầy và cũng là của một bộ phận nhân dân bằng tiếng cười sâu cay.

II. Thân bài

1. Tình huống truyện

– Anh học trò dốt nát nhưng lại hay khoe khoang lên mặt văn hay chữ tốt, có người mời anh ta về dạy học

→ Sự xuất hiện của nhân vật đã gây ra tiếng cười bằng cách tạo ra những mâu thuẫn: Dốt nát – hay khoe khoang, dốt nát, hay khoe khoang – được là thầy.

– Anh ta bị đẩy vào hai tình huống éo le:

+ Đi dạy học trò nhưng không biết mặt chữ vì có nhiều nét rắc rối, lại bị học trò hỏi gấp, cuống quá phải nói liều.

+ Bị người nhà phát hiện giảng sai, thầy phải bao biện, giấu dốt.

→ Thầy đồ dốt nát, đến chữ vỡ lòng còn không biết. Không những thế còn giấu dốt và lừa gạt người.

2. Giải quyết tình huống

– Giải quyết tình huống 1:

+ Thầy nhắm mắt nói liều, sợ sai nên bảo học trò đọc khẽ, trong lòng vẫn thấp thỏm.

→ Thầy đồ dốt nát nhưng lại biết cách che đậy sự dốt nát ấy.

→ Cách nói mỉa mai “thầy cũng khôn” là sự châm biếm của dân gian về sự khôn lỏi của kẻ dốt.

+ Khấn thổ công, xin đài âm dương xem chữ đó có đúng không. Được đài, thầy đắc chí ngồi bệ vệ trên giường bảo học trò đọc to.

→ Thầy đã dốt còn mê tín, huênh hoang, tự đắc. Tiếng cười được mở rộng, cái dốt của thầy càng lộ rõ.

– Giải quyết tình huống 2:

+ Người lật tẩy cái sai của thầy là chủ nhà, một người nông dân vô học.

+ Thầy thầm nghĩ “mình đã dốt, thổ công nhà nó còn dốt hơn mình”

→ Thầy đồ ý thức được cái dốt của mình nhưng lại bảo thủ, cố tình bao biện, che giấu. Cách nghĩ của thầy khiến cho ta phải bật cười

+ Thầy ngụy biện bằng việc giảng giải tận gốc vấn đề: dạy cháu để biết đến tận tam đại con gà “dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”

→ Thầy là kẻ ma lanh, láu cá, lí sự cùn để che đậy bản chất dốt nát của mình. Tiếng cười bật ra.

3. Ý nghĩa phê phán của câu chuyện

– Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân.

– Phê phán thói giấu dốt, một tật xấu phổ biến trong nhân dân.

– Phê phán hiện thực xã hội: kẻ dốt, kẻ ma lanh, láu cá được trọng dụng.

– Khuyên mọi người phải không ngừng học hỏi, không nên giấu dốt

4. Nghệ thuật

– Kết cấu ngắn gọn, chặt chẽ

– Xây dựng những tình huống mâu thuẫn, trái tự nhiên, gây ra tiếng cười

– Cách giải quyết tình huống bất ngờ, hài hước

– Cách sử dụng từ ngữ tạo ra tiếng cười sâu cay.

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật truyện cười Tam đại con gà

– Mở rộng: Ngoài “Tam đại con gà”, truyện cười trào phúng dùng tiếng cười để đả kích phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội rất phong phú như: Nhưng nó phải bằng hai mày, Lợn cưới áo mới, Đẽo cày giữa đường,… Mỗi truyện lại đem lại những bài học sâu cay đằng sau tiếng cười sảng khoái. Tất cả đã làm nên đặc sắc của thể loại truyện cười.

  • Hướng dẫn chi tiết soạn bài Tam đại con gà

Bài văn mẫu phân tích Tam đại con gà

Bài văn mẫu 1:

    Tam đại con gà là truyện cười có kết cấu ngắn gọn, mục đích chủ yếu lên án phê phán thói giấu dốt của anh thầy đồ. Bằng nghệ thuật tạo tình huống truyện tài tình, hấp dẫn đã giúp người đọc bật ra tiếng cười thật tự nhiên sảng khoái, mà cũng thật nhiều ý nghĩa.

Mở đầu tác phẩm tình huống gây cười đã được bộc lộ: Xưa có anh học trò học hành dốt nát, những trò đời xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt. Ngay trong bản thân anh thầy đồ đã chứa đựng mẫu thuẫn giữa hình thức với nội dung: nội dung dốt nát, kém cỏi nhưng lại hình thức lại khoe mẽ, luôn cho mình là giỏi giang.

    Với thói khoe mẽ ấy anh ta cũng lấy được lòng tin của một người nông dân, người này đã mời anh về nhà dạy chữ cho con. Bản thân vốn dốt nát kém cỏi, nhưng khi được mời anh ta nhận lời đi ngay, và hệ quả tất yếu anh ta sẽ phải đối mặt với nhiều câu hỏi, nhiều tình huống xảy ra trong quá trình dạy. Bài học Tam thiên tự với chữ kê nhiều nét, khó đọc đã làm khó anh ta. Lúc bấy giờ anh ta cuống cuồng trước lời hỏi của các trò, bị đặt vào thế bí anh ta đành phát biểu bừa: Dủ dỉ là con dù dì. Điều hài hước là ở chỗ: thầy đi dạy chữ người khác nhưng những chữ tối thiểu thầy cũng không biết, đã vậy lại còn giấu dốt, nói bừa cho trò.

   

Mặc dù nói ra như vậy nhưng thầy vẫn hết sức thấp thỏm, lo âu, thầy đã trấn an mình bằng cách cầu khẩn đến thần linh, và dường như thổ địa, thần linh cũng đứng về phía thầy đồ dốt nát, cho ba quẻ âm dương đều được ưng thuận. Đây là chi tiết dẫn dắt hợp lí, giúp cho câu chuyện tăng phần kịch tính. Khi khấn thổ công xong thầy vô cùng đắc chí, và yêu cầu học trò đọc thật to: thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to. Đồng thời ta cũng cần thấy rằng thầy tỏ ra hết sức khôn ngoan và thận trọng, trước khi xin quẻ thầy đã dặn lũ trẻ đọc bé bé, vì sợ sai: thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ. Như vậy, ở tình huống này, thầy đồ càng bộc lộ rõ nét hơn sự dốt nát và thói giấu dốt của mình.

    Nhưng nào ngờ, anh thầy đồ dốt nát lại tiếp tục vấp phải tình huống thứ hai, ấy là khi người cha nghe thấy vậy liền vào và nói rằng đó là chữ kê – gà càng khiến câu chuyện trở nên hài hước hơn. Người bố vốn là nông dân, chân lấm tay bút, ít chữ nghĩa sách vở mà còn biết đó là chữ kê, còn anh thầy đồ vốn được cho là văn hay chữ tốt lại không biết. Mẫu thuẫn này vừa vạch rõ bộ mặt dốt nát của anh thầy đồ, vừa tăng kịch tính cho câu chuyện. Chi tiết thầy nghĩ thầm: Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa góp phần làm cho tiếng cười thêm phần thú vị hơn. Và ngay lập tức anh ta chữa cháy với ông chủ nhà: Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ kê, mà kê nghĩa là gà, nhưng tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia; Thế này nhé ! Dủ dỉ là con dù dì. Dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Anh thầy đồ dốt nhưng lại luôn giấu dốt, khoe mình văn hay chữ tốt, bởi vật chính anh ta đã tự đặt mình vào tình huống bất lợi, tự bộc lộ điểm yếu cả bản thân. Càng cố che giấu bao nhiêu thì người đọc lại càng thấy sự liều lĩnh, dốt nát của anh ta bấy nhiêu. Truyện phê phán những kể dốt nát mà vẫn luôn giấu dốt.

   

Tác phẩm đã xây dựng được mẫu thuẫn trào phúng đặc sắc ngay từ đầu tác phẩm, tạo nên sức hấp dẫn bằng cách tăng tính mẫu thuẫn ấy lên theo từng bước hợp lí, lôgic. Dung lượng ngắn, kết cấu chặt chẽ, mọi tình tiết đều giàu giá trị, ý nghĩa. Nghệ thuật phóng đại, cường điệu đã lột trần bản chất giấu dốt của anh thầy đồ.

    Tác phẩm mang ý nghĩa phê phán cái xấu trong một bộ phận người dâ : dốt nhưng không biết học hỏi nâng cao hiểu biết bản thân mà còn giấu dốt. Tiếng cười bật ra không phải đả kích, châm biếm mà như một bài học sâu sắc để tự bản thân mỗi chúng ta tự răn mình phải cố gắng học hành trau dồi tri thức cho bản thân.

Bài văn mẫu 2

    Nhân vật chính trong truyện Tam đại con gà là anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ. Các nhân vật khác chỉ làm nền cho nhân vật chính hoạt động. Điểm độc đáo của truyện là tác giả dân gian tạo ra tình huống đặc biệt để nhân vật thầy đồ tự bộc lộ “trình độ” của mình.

    Thông thường, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; còn cái dốt của học trò thì chỉ đáng chê trách, chứ không đáng cười. Người xưa nói:” Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, nhưng anh học trò dốt lại đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt Cả gan hơn, anh ta dám làm nghề “gõ đầu trẻ”, mà nghề này muốn dạy một thì phải biết mười. Thói xấu ấy của anh ta không dừng ở lời nói, mà đã thành hành động.

   

Truyện Tam đại con gà không hướng tiếng cười vào hành động “ngược đời” và liều lĩnh ấy, mặc dù nó là nguyên nhân gây ra tiếng cười. Cái bị phanh phui, phê phán chính là thói “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”.

    Các tÌnh huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ hày tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên khi tình huống cuối cùng khép lại.

    Tình huống thứ nhất nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì.

    Các tác giả dân gian cố tình để thầy bẽ mặt với chữ kê. Tuy cỏ nhiều nét nhưng chữ này không khó. Sách Tam tự kinh dùng cho trẻ học vỡ lòng chữ Hán, phần giải nghĩa rõ ràng, lại có vần vè rất dễ thuộc, vậy mà thầy mù tịt.

    Học trò hồn nhiên hỏi gấp, vô tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy sẽ chẳng còn giữ được cái oai của mình nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại. Dủ dỉ đâu phải chữ Hán? Và trên đời làm gì có con vật nào tên là dủ dỉ, dù dì? Như vậy là thầy vừa dốt Kiến thức sách vở, lại vừa dốt kiến thức thực tế. Người đọc đọc đến đây phải bật cười ngạc nhiên trước “trình độ” của “ông thầy kì quặc” này.

   

Tình huống thứ hai là thầy cũng khôn, sợ nhớ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bào học trò đọc khẽ. Thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu nhẹm cái dốt của mình.

    Tạm thời, sự láu cá ấy cứu được thầy nhưng thực ra nó càng đẩy nhanh thầy vào ngõ cụt.

    Tình huống thứ ba là thầy khấn hỏi Thổ Công của gia chủ để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì ” không.

    Lẽ ra, không biết thì thầy phải tìm sách mà học, tìm người mà hỏi. Nhưng truyện không có cái lẽ ra ấy. Tình huống này làm cho mâu thuẫn phát triển lên tới điểm đỉnh.

    Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khoèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đổ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.

   

Tình huống thứ tư nằm ở phần kết thúc truyện. Khi thầy đồ bộc lộ đến tận cùng sự ngoan cố của thói giấu dốt thì cũng là lúc tiếng cười bật lên.

    Sự tin tưởng mù quáng vào thần thánh đã đưa thầy đến cuộc chạm trán bất ngờ với chủ nhà. Cái dốt nát của thầy đã bị lật tẩy. Lúc này, thầy đã tự nhận thức được sự dốt nát của mình và thầm trách Thổ Công: Mình đã dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa.

    Vốn “vụng chèo khéo chống”, thầy vẫn cố gượng gạo giấu dốt bằng cách giải nghĩa quanh quẩn rất buồn cười. Không ngờ chữ dủ dỉ vô nghĩa mà lại được thầy tìm ra lắm nghĩa đến thế (!). Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng CƯỜI trào phúng hả hê. Truyện khai thác cả vần điệu, cả yếu tố thứ bậc trong tam đại con gà mà chế giễu, chọc cười: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.

   

Câu chuyện ngắn gọn chi xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ có tính cách hẳn hoi. Đó là một con người “dốt lòi” nhưng lại hay “lên mặt vốn hay chữ tốt” và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa.

    Đặc điểm của truyện này là mâu thuẫn trái tự nhiên trong nhân vật chính được nói ra ngay từ đầu câu chuyện. Bản chất “dốt nát” của thầy đồ đã được khẳng định. Toàn bộ câu chuyện chứng minh cho định đề này.

    Tuy nhiên, khi thể hiện bản chất của nhân vật thầy đồ, vấn đề có khác đi một chút. Thầy đồ dốt đến mức những chữ tối thiểu trong sách dùng để dạy cho trẻ con mà cũng không phân biệt nổi. Dốt nhưng lại tự cho là mình giỏi (sau khi khấn Thổ Công). Khi bị người khác chỉ ra cái dốt thì ngầm tự nhận là mình dốt nhưng vẫn tìm cách chống chế bằng được.

    Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mẫu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.

   

Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng “lấp liếm” thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chi là “lí sự cùn” chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.

    Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cắn mai” mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thì sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường.

    Truyện cười này cùng nhiều truyện cười khác đã lật tẩy thực chất của không ít hạng “thầy đồ dốt” trong xã hội phong kiến ngày xưa. Và tất nhiên, truyện không chỉ mua vùi và phê phán thói giấu dốt của các thầy đồ mà nó còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những ai không nhiều thì ít cũng mẳc phải căn bệnh ấy.

   

Hai truyện phân tích ở trên là những truyện hài hước trào phúng khá tiêu biểu cho truyện cười dân gian Việt Nam. Cả hai truyện đều chứa đựng những bài học nhân sinh thâm thúy và bổ ích thông qua nghệ thuật gây cười bằng cử chỉ, lời nói, tình huống đáng cười và yếu tố bất ngờ được sử dụng rất đắc địa. Nội dung hai truyện cười này là biểu hiện sinh động của trí thông minh, tính lạc quan và tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động đối với những thói xấu trong xã hội để cuộc sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.

***********

    Từ dàn ý phân tích Tam đại con gà mà THPT Ngô Thì Nhậm đã hướng dẫn trên đây, các em hãy vận dụng kiến thức đã học, kết hợp với cách hành văn của mình để làm thành một bài viết hoàn chỉnh nhé. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài Văn mẫu 10 tại doctailieu.com. Chúc các em luôn học vui và học tốt!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button