Giáo dụcLớp 9

Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

Đề bài: Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

cam nhan ve 8 cau tho cuoi cua bai kieu o lau ngung bich

Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bạn đang xem: Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Dàn ý Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác phẩm, tác giả, đoạn trích và tám câu thơ cuối.

2. Thân bài:

a. Cặp lục bát thứ 1: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

– Không gian: nơi “cửa bể”, rộng lớn mênh mông.
– Thời gian: “chiều hôm” là khi bóng đêm dần bao phủ, đây là khoảng thời gian tĩnh nên dễ khơi dậy những tâm sự buồn.
– Cảnh vật: “thuyền ai thấp thoáng” càng làm không gian cô quạnh, mênh mông hơn.
– Nghệ thuật: đảo ngữ “thấp thoáng” lên trước, cùng từ láy “xa xa”: gợi cảm giác nhớ bé của con thuyền.

b. Cặp lục bát thứ 2: “Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu”.

– Hình ảnh “hoa trôi”: ẩn dụ cho cuộc đời người lênh đênh, vô định, “bảy nổi ba chìm”.
– Hai từ “về đâu”: gợi cảm giác về tương lai mịt mù, không thể tự định đoạt của Thúy Kiều.

c. Cặp lục bát thứ 3: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.

– “Rầu rầu”: chỉ sự ảm đạm, úa tà
– “xanh xanh”: trời đất hoà cùng một sắc, nối liền một dải, không thấy sự sống con người.
→ Câu thơ thể hiện tâm trạng chán chường, mệt mỏi đến tuyệt vọng của Kiều.

d. Cặp lục bát thứ 4: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.

– Tiếng sóng “ầm ầm”: gợi lên sự dữ dội, ẩn dụ cho những sóng gió cuộc đời của Kiều.
– Thể hiện nỗi sợ hãi, dự cảm không lành về số phận tương lai của chính nàng.

d. Đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật:

– Nội dung: Bộc lộ tâm trạng cô đơn, lạc lõng cùng những dự cảm không lành của Thúy Kiều về tương lai.

– Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc.
+ Điệp từ “Buồn trông”: điệp khúc của tám câu thơ, thể hiện sự trầm buồn
+ Hệ thống từ láy được sử dụng khéo léo để diễn tả tâm trạng cô độc của Kiều.
+ Nhịp thơ linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất tạo hình.

3. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của tám câu thơ cuối và đoạn trích.

II. Bài văn mẫu Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)

Đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy sử dụng ngôn ngữ cũng như việc sử dụng các bút pháp nghệ thuật để miêu tả cảnh vật, miêu tả con người, đặc biệt là miêu tả nội tâm nhân vật. Một trong những đoạn trích miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất của Nguyễn Du chính là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Qua tám câu thơ cuối của đoạn trích, ta có thể thấy được tâm trạng đau đớn, buồn tủi và cô đơn của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích và tài năng nghệ thuật xuất sắc của đại thi hào.

Tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể được coi là đỉnh cao trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Bốn cặp thơ lục bát không chỉ cho thấy được đau đớn, cô đơn tột cùng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở chốn lầu Ngưng Bích mà còn mang những dự cảm về một tương lai sóng gió, gập ghềnh.

Mở đầu mỗi bức tranh tâm trạng là điệp ngữ “buồn trông”. “Buồn trông” lặp lại bốn lần tạo thành điệp khúc trầm buồn, bộc lộ nội tâm nhân vật với nỗi buồn đang dâng lên tầng tầng lớp lớp, ngập tràn trong tâm hồn. Cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích như thấu hiểu, đồng điệu với nỗi đau của Thúy Kiều nên mỗi hình ảnh mà nàng nhìn đều thấm đượm một nỗi buồn da diết.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được mở đầu bởi hình ảnh của bóng chiều hoàng hôn. Hoàng hôn như nhuộm đỏ cả bức tranh, cả không gian mênh mông và thời gian. Qua con mắt của Kiều, bóng hoàng hôn ấy thật trầm buồn, u uất như lớp lớp nỗi sầu đang trào dâng trong tâm hồn của nàng. “Chiều hôm” là khi bóng đêm dần bao phủ, đây là khoảng thời gian tĩnh nên dễ khơi dậy những tâm sự buồn trong tâm hồn con người. Không gian chiều tà mênh mông rộng lớn làm cho Thúy Kiều thấm thía hơn nỗi cô đơn, bé nhỏ và tình cảnh trớ trêu của mình ở nơi lầu xanh “khoá xuân” này. Không gian cộng hưởng càng khiến cho tâm hồn của người con gái xa nhà thêm buồn tủi, cô đơn, xót xa. Giữa mênh mông sóng nước vô tận mà cô độc ấy, Kiều mong mỏi một chút hơi ấm, một sự xuất hiện của sự sống để khiến nàng vơi đi sự cô đơn của mình. Và bóng “thuyền ai thấp thoáng” chính là biểu tượng của sự sống con người. Thế nhưng đó chỉ là một chiếc thuyền không rõ, hư ảo mịt mờ “thấp thoáng” ở nơi “xa xa”. Nguyễn Du đã đặt ở đây từ láy “thấp thoáng” và “xa xa” cùng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, mơ ảo của con thuyền nơi cửa bể. Chiếc thuyền lênh đênh nơi “cửa bể” mờ mịt, không bến không bờ, vô định như chính cuộc đời của Kiều hiện tại. Nhìn con thuyền – biểu tượng cho sự sống của con người, ngỡ như nó mang tới cho Kiều một chút ấm áp nhưng trái lại nó lại càng gợi lên sự cô quạnh, gợi lên nỗi sầu lạc lõng vô biên trong tâm hồn chơi vơi của Kiều.

Nhìn xa ra nơi “cửa bể” nhưng không thể tìm thấy chút sẻ chia ấm áp, Kiều đành hướng mắt nhìn về nơi con nước gần bên mình:

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Giữa dòng nước đang cuộn chảy phía dưới chân Kiều, những cánh hoa đang xoay tròn rồi bị cuốn trôi đi. Những cánh hoa mỏng manh ấy là ẩn dụ về số phận của người con gái chìm nổi giữa dòng đời, gợi nhắc Kiều về số phận của một kiếp hồng nhan trôi dạt, lênh đênh. Những cánh hoa ấy nổi trôi bồng bềnh “bảy nổi ba chìm” như chính số phận của Kiều hiện tại. Câu hỏi tu từ “hoa trôi man mác biết là về đâu?” như xoáy vào trong tâm tư người đọc những trăn trở, những xót xa cho kiếp hồng nhan mỏng manh, phải phiêu bạt nơi chốn xa xôi, lạc lõng, cô đơn tới tuyệt vọng. Hai từ “về đâu” ở cuối câu thơ với hai thanh bằng tạo nên một cảm giác vô định như chính tình thế hiện thời của nàng. Ngồi một mình trong chốn thanh lâu, Kiều muốn tìm đến với thiên nhiên để vơi bớt đi nỗi lòng đau xót, tủi hờn, cô đơn của mình, thế nhưng, càng nhìn Kiều lại càng thấy nỗi sầu thêm chất chứa sâu nặng, tâm trạng càng thêm rối bời.

Nhìn về dòng nước, về cửa bể không tìm thấy chút niềm thân mật, an ủi, Kiều trở về với những ngọn cỏ xanh bên đôi bờ:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh”

Những tán cỏ xanh tưởng như sẽ giúp nàng xoa dịu chút ưu phiền, thế nhưng tất cả chỉ nhuốm một màu úa tàn, ảm đạm “rầu rầu”. Đã không còn những “cỏ non xanh tận chân trời” như trong những ngày Kiều còn “êm đềm”, tự do trong “trướng rủ màn che”, giờ đây, những ngọn cỏ non xanh cũng nhuộm một màu tâm trạng của kiếp người lênh đênh. Nhìn từ xa tới gần, từ “chân mây” tới “mặt nước”, tất cả không gian đều nhuốm một màu “xanh xanh” rợn ngợp. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng chán chường, ảm đạm đến thê lương của Kiều. Nỗi buồn đó của nàng còn thấm vào cảnh vật, vào không gian. Vốn là một khoảng không rộng lớn, với những màu xanh biêng biếc của cỏ non, của chân trời, vậy nhưng qua con mắt của Kiều, nó trở nên rợn ngợp và cô liêu biết bao. Không một âm thanh, không một tiếng động, chỉ có sự vắng lặng đến thê lương bao trùm lấy cảnh và người. Nguyễn Du đã vận dụng thật khéo léo nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở đây để làm nổi bật lên tâm trạng chán chường tới tuyệt vọng của Thuý Kiều.

Trong khung cảnh vắng lặng đến rợn ngợp ấy, Kiều muốn nghe được một tiếng vọng hồi đáp của con người để nàng cảm thấy được an ủi, để không cảm thấy sự cô đơn đến tuyệt vọng trong lòng, thế nhưng đáp lại, nàng chỉ nghe thấy tiếng sóng, tiếng gió, tiếng nước của thiên nhiên:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”

Tất cả những cảnh vật xung quanh: gió, nước, sóng, đều gợi lên số phận lênh đênh, nổi trôi của nàng Kiều. Những “tiếng sóng” đang “ầm ầm” xung quanh nàng khiến cho Kiều sợ hãi. Bởi tiếng sóng ấy như là một lời dự cảm, một sự báo hiệu cho số phận tương lai đầy sóng gió của Kiều. “Tiếng sóng” “ầm ầm” “quanh ghế ngồi” ấy cũng khắc sâu tâm trạng đau đớn của Kiều. Bởi xung quanh nàng chỉ có thiên nhiên vắng lặng đến rợn ngợp mà chẳng thấy có một sự ấm áp nào của sự sống con người.

Qua 8 câu thơ, ta có thể thấy được bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa của Nguyễn Du. Điệp từ “buồn trông” cũng tạo nên nhịp điệu trầm buồn, điệp khúc mở đầu cho tám câu thơ. Cùng với đó, Nguyễn Du cũng vận dụng rất khéo léo hệ thống từ láy để tạo nên bức tranh tâm trạng của Kiều rất đặc sắc. Nhịp thơ thay đổi linh hoạt cùng ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, tất cả làm nên thành công cho bức tranh tâm trạng của Kiều.

Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã cho ta thấy được tâm trạng của Kiều khi bị lừa giam lỏng thông qua bút pháp miêu tả nội tâm cực kì đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du. Đồng thời nó còn cho ta thấy rõ được tấm lòng thương cảm sâu sắc, thấu hiểu cho số phận những người con gái tài hoa bạc mệnh. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những trích đoạn hay nhất trong thiên tuyệt phẩm Truyện Kiều.

—————–HẾT—————-

Để tìm hiểu kĩ hơn về đoạn trích đặc sắc Kiều ở lầu Ngưng Bích, mời các bạn cùng tham khảo các bài viết như: Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Cảm nhận về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích, Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo Dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button