Giáo dụcLớp 9

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) hay nhất (26 Mẫu)

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải lớp 9 ngắn gọn bao gồm dàn ý chi tiết cùng 26 bài mẫu hay nhất do thầy cô trường THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn và tổng hợp từ các bài văn đạt điểm cao trên toàn quốc. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn tham khảo để từ đó hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình

Đề bài: Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Nội dung chính

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Số 1

I. Mở bài

Giới thiệu khái quát về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

II. Thân bài

a. Bức tranh xuân thiên nhiên trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình:

– Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ.

– Màu tím biếc của hoa kết hợp cùng màu xanh trong của dòng nước mang đến bức tranh mùa xuân hài hòa, tràn đầy sức sống.

– Tiếng hót trong trẻo, vang vọng của chú chim chiền chiện làm cho bức tranh tràn ngập không khí mùa xuân.

– Nàng xuân kiêu kỳ mang giọt xuân đến cho đời

b. Xuân đồng hành cùng con người, cùng nhân dân:

– Mùa xuân – Người cầm súng: đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường.

– Mùa xuân – người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó; là nhiệm vụ lao động sản xuất thời hậu chiến.

– “Lộc” xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.

– Các từ ” hối hả”; ” xôn xao”, càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.

c. Xuân ca khúc hát tự hào:

– Sau ngàn năm vất vả đất nước được thái bình

– Niềm tin vào một ngày mai tươi sáng

d. Ý nguyện cao quý của thi nhân:

– Nguyện làm cành hoa nhỏ  bé, làm nàng chim xanh, làm một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời.

– Nguyện sống một cuộc đời thật ý nghĩa

III. Kết bài

Cảm nghĩ về giá trị bài thơ.

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Số 2

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
  • Cảm nhận chung về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

II. Thân bài

1. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên

– Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả:

  • Các hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng
  • Âm thanh tiếng chim chiền chiện.
  • Giọt long lanh: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác độc đáo.

=> Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng

2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước

  • Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ”: cuộc sống lao động xây dựng đất nước của lực lượng sản xuất.
  • Hình ảnh người cầm súng: niềm tin vào ngày mai hòa bình.
  • Từ láy “hối hả” và “xôn xao”: thể hiện nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.
  • Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ.
  • Nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
  • Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.

=> Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ

3. Mong ước được cống hiến của nhân vật trữ tình

  • Điệp ngữ “ta” kết hợp với các hình ảnh “con chim hót, một nhành hoa, nhập vào hòa ca”: hòa nhập giữa cái riêng và cái chung.
  • Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ”: thể hiện khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa được thể hiện một cách thiết tha.
  • Điệp ngữ “dù” kết hợp với “tuổi hai mươi” – còn trẻ, “khi tóc bạc” – già dặn: khát vọng được cống hiện trọn đời.
  • Khát vọng sống với tình yêu quê hương, đất nước: xin được hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ca ngợi mảnh đất Huế mộng mơ.

III. Kết bài

  • Đánh giá về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

26 Bài mẫu Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1

Mùa xuân là mùa hội tụ của cái đẹp, căng tràn nhựa sống vào buổi bình minh với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ… Có lẽ vì thế mà thi nhân muôn đời yêu mến xuân. Xuân đi vào lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ là những trang thơ văn, mà ở đó, xuân là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Ta đã có Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Một khúc ca xuân (Tố Hữu)… và giờ, với Thanh Hải, ta được thưởng thức một Mùa xuân nho nhỏ thân thương, gần gũi.

Bài thơ được ra đời lúc nhà thơ Thanh Hải đang giành giật với tử thần từng phút sống, từng hơi thở cuối cùng. Trong tâm lí nặng nề vì bệnh tật giày vò mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao để rồi mang đến cho đời một tình yêu cuộc sống thiết tha và ước nguyện chân thành được cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ quốc thân yêu. Tác giả muốn dâng tặng Mùa xuân nho nhỏ cho đời.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh quen thuộc của đồng quê được vẽ bằng hình ảnh bình dị, chọn lọc, gợi cảm. Cảm xúc trước mùa xuân của tác giả mở ra thật ngỡ ngàng, không gian dường như tươi mới hơn, thánh thót hơn.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Bạn đang xem: Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) hay nhất (26 Mẫu)

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Đó là màu tím biếc của bông hoa dân dã soi bóng dưới dòng sông trong xanh. Đặc biệt là tiếng chim chiền chiện trong trẻo, loài chim cất tiếng hót báo hiệu tin vui, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất trước đất trời xuân. Tất cả gợi cho ta cảm giác một không gian bận bịu và chắt chiu. Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tiếng chim chiền chiện thả vào không gian trong suốt của mùa xuân được cảm nhận thành từng giọt mang màu sắc long lanh. Điều đó cũng chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, một tấm lòng thiết tha yêu mến cuộc sống tươi đẹp này. “Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị mà trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa.. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của đất nước vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, dẫn đến cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Sự chuyển mạch ấy là tự nhiên và hợp lí. Bởi mùa xuân là “lộc” đất trời của chung mọi người.

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

“Lộc” ở đây có thể hiểu là sức mạnh dân tộc, “lộc trải dài nương mạ” là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng mới, cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh. “Người cầm súng và “người ra đồng” là hai lực lượng chính dựng xây Tổ quốc. Đây là mùa xuân trách nhiệm gắn với ý thức bảo vệ dân tộc. Câu thơ mang một ý nghĩa sâu sắc: Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi của dân tộc.

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Biết bao nhiêu mùa xuân ông cha ta đánh giặc giữ nước, bao nhiêu mùa xuân lập chiến công chống quân xâm lược “vất vả và gian lao”. Thanh Hải tự hào khi nghĩ về đất nước với bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đất nước như vì sao sáng vượt qua vất vả và gian lao để đi lên phía trước. Từ “cứ” đặt đầu câu thơ như một sự khẳng định, thể hiện một chân lí đơn giản mà thiêng liêng. Có thể nói bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay của dân tộc được đáp lại bằng những mùa xuân tiếp nối vô tần. Đó là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của nhà thơ đối với đất nước, với dân tộc.

Rung cảm thiết tha trước mùa xuân đất nước, nhà thơ bộc bạch một ước nguyện chân thành:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào họa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, mang hạnh phúc yên vui cho mọi người, “một cành hoa” để tô điểm cho núi sông, một nốt nhạc trầm “xao xuyến” trong khúc ca phấn chấn tự hào động viên, khích lệ. Chữ “tôi” ở khổ thơ đầu được thay thế bằng chữ “ta” đầy hào hứng, sảng khoái, nó thể hiện tư thế hòa mình của nhà thơ vào cuộc sống, vào mùa xuân đến với mọi người.

Mỗi người cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” đã là một: cuộc dâng hiến thật đầy đủ, thật trọn vẹn.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dà là khi tóc bạc

Nếu có ý thức hết mình, sống hết mình, lao động hết mình thì mùa xuân làm gì có tuổi? Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Thanh Hải như nhắc ta hãy sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến toàn vẹn cho đất nước, cho cuộc đời. Phải chăng đây chính là điều mong ước tột cùng đã đi theo tác giả suốt cuộc đời? Dù vẫn biết ngày mai rất có thể sẽ phải từ giã cõi đời này nhưng tiếng thơ Thanh Hải vẫn tràn ngập niềm tin và hi vọng vào cuộc sống.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai, Nam Bình là hai giai điệu nổi tiếng của xứ Huế từ bao đời nay. Câu hát truyền thống ấy đi mãi cùng trái tim một người con đến giây phút cuối cùng vẫn còn mong mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hương đất nước.

Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp, vừa là tiếng hát nhẹ nhàng tha thiết, sâu lắng về khát vọng cống hiến cho đất nước của nhà thơ Thanh Hải. Và đó cũng chính là một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi xa.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2

Sinh thời, nhà thơ Tố Hữu đã quan niệm:

“Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình?”

Tâm niệm cao đẹp về sự cống hiến ấy cũng đã gặp gỡ với một nhà thơ – cũng là người con gắn bó, nặng lòng với xứ Huế: Thanh Hải. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông đã gửi gắm tâm nguyện ấy của mình vào bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” .

Bài thơ được nhà thơ sáng tác vào tháng 11 năm 1980 – năm năm sau ngày nước ta giành được độc lập. Đây cũng là thời điểm đặc biệt của nhà thơ, bởi ông đang lâm bệnh nặng phải điều trị tại bệnh viện trung ương thành phố Huế, một tháng sau ông qua đời. Bài thơ là bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống: mùa xuân thiên nhiên trong trẻo, tươi sáng; mùa xuân của đất nước tràn ngập niềm vui. Trước những vẻ đẹp ấy, nhà thơ ước nguyện được dâng hiến cho cuộc sống, tô điểm thêm cho đời.

“Mùa xuân nho nhỏ” được mở ra bằng những hình ảnh, màu sắc và âm thanh tràn đầy sức sống:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Hai câu thơ đầu được tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, động từ “mọc” được đặt lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Qua đó, nhà thơ muốn tô đậm ấn tượng về sức sống, sự trỗi dậy mạnh mẽ của mùa xuân. Không gian mùa xuân được mở ra với dòng sông xanh chảy hiền hòa, màu xanh ấy là tổng hòa của sắc xanh trên bầu trời, của cây cối hai bên bờ – màu xanh đặc trưng của bất kì con sông nào người ta gặp được nơi dải đất miền Trung. Nổi bật trên nền sông xanh ấy là “một bông hoa tím biếc” – màu tím rất “Huế” . Hai màu xanh – tím hài hòa, tạo nét chấm phá nhẹ nhàng mà sinh động, đem lại vẻ đẹp nhẹ nhàng, rất mực tự nhiên. Bức tranh thiên nhiên không chỉ có màu sắc mà còn có cả âm thanh tiếng chim chiền chiện: “Ơi con chim chiền chiện/Hót chi mà vang trời” . Tiếng gọi “ơi” với biết bao tha thiết, mê say. Cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ nét qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời” . Tiếng chim hót như làm sống dậy cả một khoảng không gian cao rộng, và cả tâm hồn người thi sĩ đang đối mặt với bóng đen của bệnh tật, cái chết.

Nhà thơ đã cảm nhận về mùa xuân với tất cả sự tinh tế, tài hoa: “Từng giọt long lanh rơi/Tôi đưa tay tôi hứng” . Cụm từ “giọt long lanh” là một ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. “Giọt” có thể là giọt sương, giọt mưa xuân, cũng có thể là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện rơi xuống cõi lòng mộng mơ của thi sĩ. Cử chỉ “hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp say mê của thiên nhiên, đất trời độ xuân về. Như vậy, khổ thơ đầu đã mở ra bức tranh mùa xuân của thiên nhiên với sự kết hợp của cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh được họa lên từ những vẫn thơ có nhạc đầy sinh động.

Từ những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, Thanh Hải tiếp tục bộc lộ những cảm xúc về mùa xuân của đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ…”

“Người cầm súng” là những người trực tiếp chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, “người ra đồng” là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Đó là hai lực lượng chính trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc: người cầm súng đã đổ xương máu, người ra đồng đã đổ mồ hôi. Tất cả đều đã góp phần làm nên mùa xuân của đất nước. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “lộc” có thể hiểu là sức mạnh dân tộc. “Lộc ” trước hết là những lá ngụy trang trên lưng, chở che cho bộ đội, bảo vệ tính mạng cho họ trên những chặng đường hành quân. “Lộc” là những cành lúa trĩu bông vươn lên giữa cánh đồng xanh mướt. “Lộc” cũng là biểu tượng của sự độc lập, tự do, no ấm, hạnh phúc của đất nước, con người. Và “lộc” – cũng chính là niềm tin yêu, hy vọng của mỗi người vào tương lai đất nước.

Từ những suy nghĩ chân thực về đất nước, nhà thơ khái quát:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.”

Điệp từ “tất cả” kết hợp với từ láy “hối hả”, “xôn xao” góp phần giúp nhà thơ khái quát được cả một thời đại dân tộc. Ý thơ khẳng định rằng: tất cả đất nước đều đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất nước.

Nhà thơ đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc trong khổ thơ tiếp theo:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến đất nước cũng như con người, như người mẹ tần tảo, vất vả và gian lao. Để có được sự trường tồn sau “bốn ngàn năm” , đã đánh đổi bởi biết bao máu, mồ hôi, nước mắt của các thế hệ. Những thế lực xâm lược có tàn ác đến đâu cũng không thể làm khuất phục dân tộc Việt Nam:

“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.”

(Huy Cận)

Phép tu từ so sánh cũng được nhà thơ vận dụng đặc sắc: “Đất nước như vì sao – cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng của tự nhiên, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, cũng là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. Bằng cách đó, nhà thơ đã ngợi ca đất nước tráng lệ, trường tồn vĩnh cửu và đang hướng về tương lai ngày một tươi sáng hơn.

Nếu như ở những khổ đầu tác giả xưng “tôi” , thì trong khổ thơ tiếp theo, “tôi” đã hòa cùng “ta” – cái ta chung của cộng đồng:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.”

Tác giả muốn làm một con chim để cất tiếng hót làm vui cho đời, một cành hoa để tỏa hương khoe sắc thắm, một nốt trầm xao xuyến, ngân vang trong bản hòa ca chung của cả dân tộc. Ước nguyện ấy đơn sơ, khiêm nhường nhưng ý nghĩa biết bao. Khát khao cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” ấy càng tôn thêm vẻ đẹp của một nhà thơ giàu lòng yêu quê hương, đất nước. Điệp từ “dù là” như muốn khẳng định sự cống hiến không biên giới, không giới hạn của con người, không kể già hay trẻ đều tận tâm, tận lực hiến dâng những điều tốt đẹp, tinh túy cho cuộc đời chung.

Khổ thơ cuối cùng là vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam Bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế…”

Điệu “Nam ai, Nam bình” da diết, ngọt ngào như vang vọng mãi trên dòng sông xanh và đi vào lòng người đọc. Một mùa xuân trải dài trên đất nước “ngàn dặm tình, ngàn dặm mình”, mang mầm mống và sự chuyển mình, phát triển kỳ diệu. Mùa xuân từ xứ Huế như lan tỏa ra khắp đất Việt.

Bằng ngòi bút tài hoa và những rung động tinh tế, xúc cảm mãnh liệt, tác giả đã khắc họa sinh động, chân thực mùa xuân của thiên nhiên, đất trời và mùa xuân trên đất nước Việt Nam thân thương. Đằng sau những vần thơ ấy, ta cảm nhận được niềm yêu đời, yêu người, yêu đất nước, quê hương tha thiết của nhà thơ xứ Huế. Tình cảm và khát vọng cống hiến của ông thật đáng trân quý.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải, được viết vào tháng 11 năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, bài thơ của ông đã nêu bật lên một cảm hứng đón nhận thanh sắc, trời đất mùa xuân, cảm nhận được sự tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước. Đồng thời, bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, gắn bó với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên xứ Huế đặc sắc. Bức tranh xuân được mở ra với không gian thoáng đạt: dòng sông, mặt đất, bầu trời. Dòng sông xanh, dòng sông thơ mộng hòa sắc một bông hoa tím biếc trên cao những cánh chim chiền chiện chao liệng hết vang trời làm xáo động cả bức tranh xuân. Dòng sông, tiếng chim là những hình ảnh thực nhưng lại được xen vào hình ảnh ảo…

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc”

Cảm xúc của tác giả trước cảnh mùa xuân thiên nhiên được diễn tả tập chung ở chi tiết rất giản dị:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Lời thơ có hai cách hiểu… Dù hiểu theo cách nào thì lời thơ vẫn biểu hiện niềm say sưa ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp thiên nhiên đất trời vào xuân.

Khổ thơ 2, 3 từ mùa xuân thiên niên nhà thơ hướng cảm xúc của mình về mùa xuân đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Mùa xuân trước hết là mùa xuân của người cầm súng, người ra đồng những con người tiêu biểu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những con người gieo mùa xuân hòa bình ấm lo cho đất nước, ý nghĩa ấy kết đọng ở chữ “lộc” được lặp lại hai lần. Chữ “lộc” nghĩa thực là mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc. Chuyển nghĩa: Lộc trong câu thơ là búp non trên cành lá ngụy trang của người chiến sĩ ra trận, là lộc non của mạ gieo khắp cánh đồng, lộc ấy chính là sức sống vươn lên phát triển của thế giới. Hình ảnh sóng đôi, điệp từ, điệp ngữ, phép ẩn dụ, so sánh tạo lên nhịp điệu mùa xuân hối hả hào hùng và diễn tả trực tiếp không khí lên đường khẩn trương rộn ràng háo hức.

Mặc dù đất nước bốn ngàn năm vất vả gian lao của những người bền bỉ vững vàng. Ngôi sao ấy luôn tỏa sáng soi đường cho thế hệ này nối tiếp thế hệ kia chung tay góp sức xây dựng đất nước.

Trong không khí tưng bừng hối hả của mùa xuân đất nước nhà thơ muốn hòa vào cống hiến cùng mọi người. Nguyện ước của nhà thơ được làm con chim mang giọng hát trong trẻo tươi vui dâng cho đời một tiếng ca vui muốn làm cành hoa tỏa hương sắc trong muôn sắc màu, muốn làm nốt trầm xao xuyến tha thiết đầy ý nghĩa trong bản hòa ca cuộc đời, muốn làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn lao dân tộc mà không phô trương lặng lẽ dâng cho đời.

“Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Nghĩa là ngay cả lúc này sự sống đang vơi dần vẫn muốn cống hiến. Đó là lẽ sống cao đẹp, sống có ích biết dâng hiến cho cuộc đời tất cả những gì tinh túy nhất. Vậy là cái tôi chữ tình bộc lộ cảm xúc riêng tư trước mùa xuân thiên nhiên đất trời chuyển sang xưng ta diễn tả sự hòa hợp của cái tôi nhỏ bé với cái ta rộng lớn. Nguyện ước của nhà thơ không chỉ riêng một người mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người. Những câu thơ năm chữ kết hợp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc cú pháp tạo ra nhịp thở liền mạch sôi nổi, trẻ trung diễn tả cảm xúc vừa chân thành vừa thiết tha trào dâng với khát vọng mãnh liệt. Trước lúc đi xa nhà thơ vẫn cháy lên khát vọng sống và tình yêu quê hương đất nước.

“Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.”

Nhà thơ muốn hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ngợi ca đất Huế biểu hiện niềm tin yêu gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương đất nước, trở thành khúc ca xuân.

Bằng sự rung cảm và mãnh liệt của mình, nhà thơ Thanh Hải đã để lại trong lòng người đọc những suy nghĩ, những bài học vô cùng sâu lắng. Càng đọc thì người ta càng cảm thấy cuộc sống có rất nhiều ý nghĩa, bởi vì khi ta sống, chúng ta được hết mình và cống hiến cho tổ quốc Việt Nam dấu yêu. Cảm ơn tác giả Thanh Hải đã cho chúng ta có một cái nhìn mới mẻ, có một cảm nhận tinh tế về cuộc sống tươi đẹp này.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4

Thanh Hải là một nhà thơ được mọi người biết đến như một hiện tượng đặc biệt của thơ ca Việt nam. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh biến thái của cuộc đời, ngay cả những phút giây cận kề cái chết Thanh Hải vẫn khát khao sống, làm việc và cống hiến cho đời chung.

Mùa xuân nho nhỏ chứ không phải cái gì lớn lao ồn ào nhưng thật tinh túy, sâu xa lắng động của Thanh Hải để lại cho đời trước lúc ra đi. Những vần thơ nhỏ nhẹ trầm bổng mà ý tứ lắng sâu lạ kỳ. Và không thể thiếu ở làng thơ xuân nếu ta quên đi một mùa xuân nho nhỏ của một nhà thơ tài hoa, mệnh bạc – Thanh hải thì quả là thiếu sót. Bài thơ ra đời vào năm 1980 được xem như một lời tâm niệm trẻ trung đáng trân trọng của nhà thơ để lại cho đời trước lúc ra đi.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hóa đất trời. Sau những ngày đông giá lạnh lẽo, thiên nhiên; lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Đất trời như rộng thêm, cao hơn được Thanh Hải phác họa bằng ba nét chấm phá. Một “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, “tiếng chim chiền chiện” gợi ra không gian cao rộng, êm dịu, tươi tắn. những âm thanh vang vọng, tha thiết. Những đường nét đó đã khắc họa thành một bức tranh mùa xuân xinh đẹp, yên ả, thanh bình, rạo rực niềm vui và tràn trề sức sống.

Đối tượng được nhà thơ miêu tả sâu sắc đó là hình ảnh:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Đây là chi tiết tạo hình và sự chuyển đổi cảm giác tuyệt vời trong thơ ca. “Giọt long lanh rơi” là những giọt xuân, màu xuân đẹp, kì diệu với những sắc màu long lanh. Tác giả đã đưa tay hứng cả mùa xuân đất trời rất đỗi nâng niu, trìu mến, trân trọng và có cảm giác từng giọt xuân lung linh, ấm áp, mát dịu đang thấm vào da thịt, vào lòng người. Tất cả đang được tắm gội trong hương sắc mùa xuân say sưa, ngây ngất, ngọt ngào.

Vả cảm hứng nhà thơ chuyển dần từ màu xuân cảnh sắc thiên nhiên đất trời tươi đẹp sang mùa xuân đất nước Cách mạng:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đổng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao….”

Từ “mùa xuân” đã được chuyển nghĩa theo cách hiểu thứ hai với hai nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ trong tư thế đi lên đất nước. Điệp từ “lộc” láy lại đầu câu có nhiều nghĩa khác nhau: “lộc” là chồi non, sức sống, mùa xuân; lộc là do con người mang đến cho mùa xuân, đất nước trong chiến đấu, sản xuất. con người đi đến đâu mang mùa xuân đến đó, mang chồi non, lộc biếc cho cuộc sống sinh sôi nảy nở.

Âm hưởng của câu thơ,nhịp thơ hối hả, khẩn trương kết hợp tượng trung liên tưởng quá khứ hiện tại, tương lai đất nước:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Động từ “cứ” như một mệnh đề thăng tiến khẳng định bước đi vững chãi, tự tin của dân tộc sau mỗi mùa xuân nhìn lại mình, vững bước đi lên. Từ mùa xuân chung của đất nước và cách mạng Thanh Hải ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ đóng góp vào cuộc đời chung.

Nếu nhịp điệu thơ ở những khổ thơ trên vừa hối hả, vừa khẩn trương, vừa tả thực, vừa tưởng tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa về màu xuân của đất nước lớn lao. Tự hào thì mùa xuân ở những khổ thơ dưới như sau:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào họa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Lại cất lên một cách nhỏ nhỏ, khiêm tốn nhưng thật thiết tha, cảm động, sâu lắng. “ta làm” là điệp ngữ vang lên ở đầu các câu thơ như một khẳng định những ước nguyện chính đáng, cao đẹp thể hiện tâm hồn khát khao được làm việc, cống hiến nhiều nhất cuộc đời.

Hình ảnh đối ứng lặp lại ở đầu bài thơ “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” là thể hiện mong ước cụ thể của nhà thơ được góp cái đó dù nhỏ bé nhưng có ích cho đời. là con chim hãy mang lại những âm thanh vang vọng, những tiếng hót say mê lòng người là nốt nhạc, nốt trầm trong bản nhạc nhưng không thể thiếu dàn hợp xướng, trong bản hòa ca tất cả mọi người. Cũng trong khổ thơ này Thanh Hải đã được chuyển những cái bé nhỏ, riêng tư thành cái “ta” lớn lao, hòa chung mọi người. Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân thành không khuôn thước, ồn ào mà ngược lại đằm thắm, lắng đọng, sâu xa tác động mạnh mẽ vào con tim, khối óc người đọc. Khổ thơ tiếp theo là tiếng lòng cao cả của nhà thơ, của những con người biết hướng tới mùa xuân đẹp, sống có lý tưởng, mục đích, ước mơ:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Tác giả nhắc lại nhan đề bài thơ như một lời nhắn nhủ, tâm tình gợi ra một lẽ sống cống hiến cho đời chung lặng lẽ, khiêm tốn, sống đẹp, sống có ích âm thầm đóng góp cho mùa xuân chung không kể gì tuổi tác, không kể gì thời gian. Khổ thơ ánh lên và tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn luôn luôn khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp như mùa xuân vang vọng đất trời góp phần làm đẹp cho mùa xuân chung của đất nước, Tố Hữu viết:

“Nếu là con chim chiếc lá

Con chim phải hót chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

Thơ xưa và nay thường gắn nhiều định ngữ với mùa xuân nhưng mùa xuân của Thanh Hải nho nhỏ mà không nhỏ chút nào. Nó nói lên được nhiều ý nghĩa hơn cả bởi đó là lời tâm niệm chân thành, sâu lắng nhất của một tâm hồn trước lúc đi xa, giã từ cuộc sống ngàn lần đáng yêu về với cõi vĩnh hằng hư vô.

Có phải khi con người ta đến gần cái chết là lúc họ khao khát muốn sống hơn bao giờ hết. Nhưng chúng ta còn khâm phục hơn ở Thanh Hải đó là một tấm lòng rộng mở, thanh thản, cao đẹp, sống có ý nghĩa đến những phút chót cuộc đời. Đúng như mong ước nhà thơ “mùa xuân nho nhỏ” được phổ nhạc. bài thơ lại một lần nữa được chắp thêm cánh bay xa vào bản hòa ca trong dàn hợp xướng một nốt trầm làm xao xuyến lòng người.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5

“Mùa xuân nho nhỏ” đã cho người đọc cảm nhận được tiếng lòng đầy tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành từ tận đáy lòng của Thanh Hải.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh đặc trưng của mùa xuân, chỉ có mùa xuân mới có cảnh vật ngạt ngào như thế:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc”

Dòng sông xanh thanh bình yên ả – đó là tín hiệu của mùa xuân đã về. Giữa dòng sông xanh đó là màu tím biếc của bông hoa. Mùa xuân ở đây thật hào phóng nên sẵn sàng trao tặng cho ai biết trải rộng lòng mình:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Tiếng gọi “ơi” nghe sôi nổi và tha thiết biết bao. Nhà thơ đã đón nhận mùa xuân với tất cả sự thăng hoa của tâm hồn, điêu luyện trong ngòi bút. Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ hót “Hót chi mà vang trời” gợi ra tiếng chim hót trong trẻo, vang lừng xa như gần lại rõ ràng, tròn trịa kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu đọng lại thành giọt long lanh rơi, rơi mãi. Nhà thơ đã tưởng tượng bằng tất cả rung động của tâm hồn “tôi đưa tay tôi hứng” – người đang hứng tiếng hót hay là hạt mưa rơi.

Kế tiếp mùa xuân của thiên nhiên, là mùa xuân của đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Hình ảnh “người cầm súng” – những người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ nền hòa bình và “người ra đồng” – những người nông dân lao động phục vụ chiến đấu. Mùa xuân được khắc họa ở đây đã gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Cùng với đó là hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng”, “lộc trải dài nương mạ” cho thấy sức sống của mùa xuân đang căng tràn khắp mọi nơi. Tất cả đều đang “hối hả” và “xôn xao” để bừng nở.

“Ðất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Ðất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

“Đất nước bốn nghìn năm” gơi lịch sử lâu đời của dân tộc. Trong suốt bốn nghìn năm đó, đất nước đã phải trải rất nhiều “vất vả” và “gian lao” để dựng nước và giữ nước. Nhờ có bốn nghìn năm vất vả đó, mà ngày hôm nay đất nước giống như “vì sao” tỏa sáng giữa bầu trời rộng lớn. Từ “cứ” thể hiện sự quyết tâm vươn về phía trước, không chịu đầu hàng khuất phục trước mọi khó khăn.

Cuối cùng là những lời bộc lộ chân thành về khát vọng dâng hiến cuộc đời cho tổ quốc thân yêu:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Đến đây, nhà thơ không còn cầm bút nữa mà đang ôm đàn, gõ phách hát bài ca mùa xuân, bài ca cuộc sống. Nhà thơ muốn hóa thân vào muôn loài vạn vật làm tươi đẹp rộn ràng cho cuộc sống. Đó là “một tiếng chim hót” trong buổi sáng mai bắt đầu một ngày mới. Đó là “một nhành hoa” tô điểm cho vườn hoa cuộc đời. Và đó là “một nốt trầm” làm xao xuyến vạn trái tim, nhập vào cái chung để cùng nhau cống hiến. Tất cả đã thể hiện niềm khát khao sống, khát khao hiến dâng đến khôn cùng của tác giả. Đặc biệt hơn khi đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, đó là lúc nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Trước khoảnh khắc phải đối mặt với bệnh tật, cái chết, nhưng Thanh Hải vẫn giữ được một niềm lạc quan, yêu đời với mong muốn được cống hiến mãnh liệt.

Với “Mùa xuân nho nhỏ”, người đọc nhận ra được một hồn thơ đầy yêu đời của Thanh Hải. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về “một mùa xuân nho nhỏ”.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6

Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai”

Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,

Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”

(Chế Lan Viên)

Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”.

Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn?

Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đổng

Lộc trải dài nương mạ

Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…”

Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 7

Thanh Hải sinh năm 1930, quê ở Thanh Điền, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra trong một gia đình tri thức nghèo, từ nhỏ gắn bó với cuộc sống của những người nông dân nên ông dành một tình yêu đặc biệt cho quê hương, đất nước của mình. Là một nhà thơ hiện đại của Văn học Việt Nam, ông ghi dấu ấn trên văn đàn thơ ca bằng những tác phẩm nhẹ nhàng nhưng duyên dáng, thể hiện được ước muốn lớn lao và ý nghĩa. Có thể kể đến Những đồng chí trung kiên; bài thơ Ánh mắt hay tập thơ Huế mùa xuân. Và không thể không nhắc đến thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết vào những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, bài thơ thật đẹp không chỉ bởi ngôn từ mà còn bởi những thông điệp tích cực mà nó mang lại:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Bức tranh xuân trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình. Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo ấy, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ. Động từ “mọc” được đặt đầu câu thơ càng thể hiện được sức sống đầy mạnh mẽ của sự vật. Nhành lục bình nhỏ bé vẫn kiên cường trỗi dậy giữa dòng, mang vẻ đẹp thơ mộng của mình góp vui, tô điểm cho không gian mùa xuân tuyệt đẹp. Màu tím biếc của hoa, màu xanh trong của dòng nước hài hoà, duyên dáng mà đầy quyến rũ khiến người nghệ sĩ không khỏi bị cuốn hút, xao lòng. Xuân trên đất Huế không có  “mơ nở trắng rừng” như mùa xuân trong Việt Bắc, cũng không có “cỏ đồng nội xanh rì” như trong thơ Xuân Diệu, xuân Huế mang nét tươi mới của hoa lục bình, của nước sông Hương thơ mộng, của đất trời vùng đất kinh kỳ cổ kính, trầm mặc, bình yên đến lạ thường.

Xuân trên Huế không chỉ mang sắc màu, xuân trên Huế còn mang cả những âm thanh gần gũi mà đầy mê hoặc. Đó là tiếng hót trong trẻo của chú chim chiền chiện trên cao, khúc hót chào xuân xưa đi vẻ tĩnh lặng, mang đến niềm vui cho vạn vật. những tiếng “chi”, “ơi” nghe sao mà ngọt ngào đến thế, tiếng nói thân thương của người Huế ấy khiến ai cũng phải xao lòng bởi sự gần gũi mà thân thương.

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

“Từng giọt long lanh rơi” gợi cho ta nhiều liên tưởng thú mị, là nàng xuân kiêu kiêu kì mang giọt xuân đến cho đời hay là những giọt mưa xuân, cũng có thể là những giọt sương đêm còn vương nơi lá cành, những giọt âm thanh của chim chiền chiện. Nhưng dù là giọt gì đi nữa thì nó cũng được người thi nhân trân trọng, nâng niu, cảm nhận bằng cả trái tim mình. Dù đang nằm trên giường bệnh, mà sức xuân dạt dào đã làm cho người thi nhân không khỏi háo hức, hoà quyện trong vẻ đẹp của tự nhiên, trong không khí ngọt ngào của mùa xuân xứ Huế.

Bước sang khổ thơ thứ hai, ta được cảm nhận về bức tranh sinh hoạt và chiến đấu của con người trong những ngày xuân tươi.

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc trải đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương lúa

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Đất nước ta đi lên từ nghèo khổ, chiến đấu để giành độc lập và dựng xây đời bằng bàn tay lao động. Hiểu thấu được những hy sinh và công lao của dân tộc, Thanh Hải đã lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu nhất để bày tỏ. Mùa xuân – Người cầm súng, đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường, mang trên đôi vai cả niềm tin của dân tộc. Mùa xuân – người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến, khi hoà bình người dân lại tiếp tục hăng hái trên ruộng nương để phát triển kinh tế, dựng xây cho đời. “Lộc” xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.

Các từ “hối hả”; “xôn xao”, càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.

Trong khí thế sục sôi ấy, tác giả không khỏi tự hào, không khỏi xúc động khi nghĩ về những vất vả để làm nên đất nước ngày nay. Và hơn thế nữa là một niềm tin bất diệt về một tương lai đầy tươi sáng của dân tộc:

“Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Trong đoạn thơ này, ta như bắt gặp một cảm xúc chung của Thanh Hải với Nguyễn Đình Thi khi dựng lên một tượng đài đất nước bất tử và hiên ngang, kiên cường và bất khuất:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!”

Từ niềm say đắm và tự hào ấy, nhà thơ cũng muốn góp chút sức nhỏ bé của mình vào dựng xây đời, góp mùa xuân của đời mình vào tô điểm mùa xuân dân tộc:

” Ta làm con chim hót

Dù là tuổi đôi mươi

Dù là khi tóc bạc”

Tiếng “ta” cất lên cũng là lúc nhà thơ nói hộ tấm lòng của những con người đất Việt. Ai ai cũng muốn đóng góp sức mình cho sự phát triển chung. Có thể là cành hoa nhỏ  bé, có thể là một nàng chim xanh, cũng có thể là một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời. Dù là ai, dù làm gì thì cũng đều phải sống một cuộc đời ý nghĩa để mang đến cho cộng đồng, cho dân tộc những điều tốt đẹp mà mình có thể làm. Ước nguyện thật chân thành, ý nguyện thật lớn lao.  Phải chăng nhà thơ Thanh Hải cũng như chàng thanh niên trẻ trên đỉnh núi Sa Pa trong tác phẩm của Nguyễn Thành Long, cống hiến tuổi xuân xanh thầm lặng để làm việc giúp ích cho chiến đấu, giúp ích cho cuộc đời. Dù đã sắp lìa xa cõi đời mà nhà thơ vẫn không ngừng khát khao được cống hiến thì có gì khi còn trẻ mà chúng ta lại chần chừ do dự. Hãy sống một cuộc đời như chưa từng sông:

“Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Bài thơ khép lại bằng cây thơ tựa như lời hát nhẹ nhàng:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nằm ai Nắm bình

Nước non ngàn dặm tình

Nước non ngàn dặm mình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Mùa xuân ta xin dâng cho đời lời ca tiếng hát, lời hát mang tâm tình của một người con thủy chung gắn bó với cội nguồn xứ Huế. Nơi đất Việt, đâu cũng là nhà, chốn đất Việt, ta nặng lòng son sắt với Huế.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết nên bởi một ngòi bút đầy tài năng. Hình ảnh quen thuộc, bình dị, tứ thơ nhẹ nhàng, chân thành, ngôn ngữ trong sáng, đậm chất Huế,…tất cả góp phần làm nên một tác phẩm xuất sắc góp vào thành tựu của thơ văn nước nhà.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 8

Cuộc đời là giọt nắng ban mai, là hạt mưa vội vã, là cơn gió dịu mát. Nhà Thơ phải đưa tay hứng lấy những hồn, những sắc của cuộc sống và rót vào đoá hoa thi ca, để bông hoa vươn mình dâng lên cho đời mật ngọt quý giá,hương nhụy trong lành. Hẳn rằng, đã là người nghệ sĩ, có ai cất đi những rung động của trái tim vào chiếc rương khóa chặt, có ai giã từ bốn chữ “tận tâm tận tụy” mà mặc nhiên để “tâm nhãn” ngủ đông khi đứng trước những biến thiên của thế gian. Hiểu được một điều tất lẽ dĩ ngẫu ấy, Thanh Hải đã chắp bút viết nên hồn thơ “Mùa xuân nho nhỏ” khi nhịp thở dần yếu ớt, khi miền đất chết đã cận kề. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng của người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải gửi gắm niềm ước nguyện của mình.

Thanh Hải, một trong những thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời của xứ Huế, gắn bó cả đời người bên người mẹ thứ hai mang tên “Huế”. Ông là một nhà thơ luôn hướng ngòi bút của mình vào lý tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp dựng xây nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác lúc ông đang ở trên giường bệnh vào những ngày cuối đời. Với giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn bạn đọc đến với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa mộng, của đất nước Việt Nam. Ông còn gửi vào thi phẩm âm hưởng của niềm hi vọng về những vị lai đất nước sẽ tươi sáng hơn, thể hiện một niềm tự hào cùng khát khao tận hiến cho quê hương xứ sở.

Mở Đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa xuân rất Huế với những gam màu thật ấm áp:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.”

“Mọc” là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Bằng việc vận dụng nghệ thuật đảo ngữ,từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ càng tô đậm sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những tinh chất quý giá của ngày xuân. Cũng góp vào thi đàn hồn thơ nàng xuân, Chế Lan Viên đã viết “Xuân Về”, về trên màu xanh của tà áo chuối non, màu đỏ của những chùm pháo trước nhà và sắc hồng dịu dàng của hoa đào. Còn Thanh Hải, ông chọn cho mình những gam màu dịu dàng,nên thơ và rất đặc trưng của Huế. Đó là khúc sông uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung quanh co. Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ ? Dòng sông đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một “dòng sông xanh”. Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”.Xuân miền Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải là một màu tím biếc. Chẳng biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến tên gọi của vùng đất Cố đô thương nhớ, người tại mường tượng ra một sắc tím thủy chung ôm trọn cả bầu trời. Đến với hồn thơ của Thanh Hải, ta lại thấy sắc tím bình dị thấp thoáng giữa dòng Hương như một biểu tượng ngàn năm của xứ Huế trầm tư, cổ kính.

Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu nhạc” tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu hòa quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có lẽ vì vậy, Thanh Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang độ xuân về vào vần thơ của mình:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.”

Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong “ngôn ngữ Huế”. Thanh Hải là một người gắn bó với xứ Huế bằng tình yêu tha thiết, chân thành nên trong giọng thơ trìu mến, thân thương của ông tồn tại hình bóng của từ “Ơi”mộc mạc, gần gũi và lời trách yêu “hót chi mà”. Trong bản trường ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao tiếng hát trong veo, thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu tím biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn trong mắt, âm vang bên tai nhà thơ. Đó đều là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân cố đô. Ông đã nâng lên chén rượu kính đời và “say” trong niềm thổn thức trước thiên nhiên. Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực sang bến cõi mộng. Sóng xanh, hoa tím, tiếng chim… đều kết tinh thành giọt:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”.

“Giọt long lanh” – hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Đó Phải chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá? Hay mùa gió xuân đã thổi những hạt phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp ? Có lẽ là tất cả và còn nhiều hơn nữa.Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng chim hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng lại thành từng “giọt âm thanh” rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng chim như suối nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ được lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để “hứng” lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm vào thinh vắng. Đại từ “tôi” được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân. Như vậy, chỉ với vài nét hoạ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một kiệt tác tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất Huế căng tràn sức sống. Từ đó, bộc lộ niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

Vẻ đẹp của mùa xuân kinh thành Huế chính là một nét hoạ thần tình tô đậm cho vẻ đẹp của chốn thiên đường mang tên “mùa xuân con người, mùa xuân đất nước”:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp nhàng với hai hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Bởi lẽ họ là những người đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày đông giá lạnh trong kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật. Lộc giắt đầy trên lưng “người cầm súng”, phơi phới bước chân ra trận gợi liên tưởng đến cành lá ngụy trang của người chiến sĩ. Lộc mà người chiến sĩ mang đến cho chúng ta là mồ hôi, là giọt lệ, là xương máu mà các anh đổ xuống vì toàn dân, là thành quả của những năm tháng dốc toàn sức toàn lực bảo vệ mùa xuân thanh bình của tổ quốc, là phong bì đỏ của niềm hạnh phúc, an lành gửi đến mọi nhà. Lộc trải dài vô tận trên nương mạ do những đôi tay chai sạn của “người ra đồng” gieo trồng. Những người nghệ nhân ấy đã tô điểm thêm cánh diều xanh của niềm tin, hi vọng đang tung bay trong mùa gió xuân. Lộc mà người nông dân dành tặng cho người, cho đời là dãy bắp, bãi dâu, là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt. Người cầm súng mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng gieo mùa xuân trên từng thửa ruộng. Họ đã mang cả hương vị mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Tất cả “như hối hả”, “như xôn xao” mà hoà quyện trong sự phồn thực của mùa xuân. Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã mang đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

Cung bậc cảm xúc của thi nhân bất giác gói gọn trong nỗi chạnh lòng khi thước phim bốn ngàn năm lịch sử của quê hương, đất nước chợt sống dậy trong nhịp thơ trầm tư, sâu lắng:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Lịch sử”, mốc thời gian “bốn ngàn năm” đã đi vào tâm thức của biết bao thế hệ. Một lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao”, với muôn vàn những thăng trầm, gian truân, biến động. Cái nghèo cái đói chẳng buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương tay, những cơn thủy triều của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh Hải đã sử dụng hình ảnh so sánh “Đất nước như vì sao” để khẳng định sức mạnh lớn lao, ý chí bất khuất và bản lĩnh can trường của tổ quốc Việt Nam. Vì sao ấy luôn luôn tỏa ra vầng hào quang rạng ngời, sáng tỏa, vững vàng bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để ngày càng văn minh, hạnh phúc. Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm, đất nước như vì sao” diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Dằng dặc bốn ngàn năm, ta vẫn là ta, là một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới nhưng lại khiến toàn nhân loại thán phục với những chiến công hiển hách. Đó là ba lần thắng lợi trước đoàn quân Mông -Nguyên hung hãn. Là Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử – mồ chôn của bao đế chế ngông cuồng. Là những năm tháng đấu tranh ngoan cường khiến Mĩ và Pháp phải thua cuộc. Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải đứng trước những kẻ thù to lớn vẫn không bao giờ cam tâm quỳ xuống đã đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:

“Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân

Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy

Người trước ngã, người sau đứng dậy”

Từ “cứ” vang lên như một nốt thăng với khí thế hào sảng. Tiếng thơ là một lời khẳng định hùng hồ và chan chứa niềm tin, niềm tự hào bất diệt của Thanh Hải vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng trong tương lai của đất nước.

Tận sâu nơi cõi lòng của nhà thơ dâng trào một nỗi khao khát, một nguyện vọng hiến dâng cho đời tựa như một tia sáng vụt lên khỏi vực thẳm tăm tối nhuốm bệnh hiểm nghèo, như một dòng suối ấm nóng len lỏi đến mọi ngõ ngách của trái tim người thi nhân và người thưởng văn:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”.

Thanh Hải đã đặt bàn tay xám ngắt của mình lên chiếc vĩ cầm “thơ ca” để tấu lên giai điệu ngọt ngào, du dương, êm ái rót vào tâm hồn, nhẹ nhàng xoa dịu trái tim. Giai điệu ấy hiện lên trong những thanh bằng liên tiếp,những luyến láy, điệp ngữ “ta làm…ta làm…ta nhập”. Tiếng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện của nhà thơ. Thi nhân muốn hoá thân đến tột độ, hóa thân đến trọn vẹn hồn cốt – một sự hoá thân diệu kì. Đó hẳn là nguyên do mà ông sử dụng các động từ “làm” , “nhập”. Cái “ta” ở đây không phải là của riêng tác giả hay một cá thể đơn thân nào khác.”Ta” giờ đây là là một quần thể, một dân tộc. “Ta” đã đồng thanh, đồng điệu với mọi người, chân trời riêng đã hoà quyện với chân trời chung. Những hình ảnh”con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm” dẫu nhỏ bé, đơn sơ nhưng lạ phúng dụ lẽ sống cao đẹp của Thanh Hải. Ông muốn làm một “con chim”trong muôn vàn loài chim, góp vào đời tiếng hót tươi vui, tha thiết làm đắm say lòng người. Ông chỉ xin được làm “một cành hoa” trong xứ sở hoa với đủ đầy những gam màu từ rạng rỡ đến âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ ước mong được làm “một nốt trầm” lặng lẽ, âm thầm cứ mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến trong lòng người. Bản giao hưởng cuộc đời không thể thiếu những nốt trầm ấy. Thanh Hải – “nốt trầm” trong bản hoà ca muôn điệu của đất nước đã để lại trong lòng người đọc hình ảnh một thi sĩ sống với điều tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Khát vọng được cống hiến của tác giả cũng gặp được nét đồng điệu với nhạc sĩ Trương Quốc Khánh:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng

Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương

Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm

Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”

Khát vọng cống hiến sức nhỏ, cống hiến những gì tinh túy nhất của đời người cho đất nước đã làm sáng lên hồn thơ, làm ngân lên âm hưởng của một lẽ sống khiêm tốn, cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Mùa xuân là thước đo của thời gian, hạn định của không gian. Song, Thanh Hải đã sử dụng từ láy “nho nhỏ” đã định hình cho khái niệm trừu tượng, thể hiện ước vọng khiêm tốn, dung dị. Tính từ “lặng lẽ” cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách không ồn ào, khoa trương. Ông tự nguyện cả cuộc đời cho đi một cách lặng lẽ mà không hề đòi hỏi người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách. Ví như người lao công lặng lẽ giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh mệnh đang hấp hối.Lặng lẽ thôi mà sao ý nghĩa, đẹp đẽ biết bao. Lặng lẽ thôi mà sao như dòng suối mát lành, như ngọn lửa ấm áp. Ngâm khẽ những vần thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, bức thư tự tình của tác giả khiến ta nhớ đến một Sapa lặng lẽ nhưng không tầm thường, những con người cứ lặng lẽ mà miệt mài cống hiến thanh xuân và sức trẻ cho đất nước. Hay trong Áo xanh của Quách Tỉnh Xuân Trường có đoạn:

“Đất nước hòa bình, tôi vẫn mải miết đi

Tiếp bước cha anh, đâu nghĩ gì danh lợi

Ở trong trái tim, cờ sao bay phấp phới

Lý tưởng trau dồi, mãi mãi một niềm tin

Cống hiến sức mình, chẳng cần đợi gọi tên”

“Điệp ngữ “dù là” cùng hình ảnh đánh dấu hai mốc son quan trọng của đời người “tuổi hai mươi” và “ khi tóc bạc” khiến cho lời thơ khẳng khái như một lời hứa, lời tự nhủ rằng sẽ trọn đời cống hiến của nhà thơ. Trên lưng đồi từ tuổi trẻ đến những ngày vãn niên, khát vọng hiến dâng, lí tưởng sống thầm lặng và cao đẹp đã trở thành một lời tuyên thề vững bền, một tâm nguyện thủy chung in sâu vào trái tim người thi sĩ ấy. Tuổi hai mươi với nguồn năng lượng dạt dào, căng tràn sức sống, ông đầy kiên nghị và sôi nổi, hết mình sống vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Khi thời gian lưu lại dấu vết trên mái tóc bạc màu, ngọn lửa nhiệt huyết vẫn không bao giờ tắt lịm. Ngọn lửa ấy cứ bập bùng cháy mãi, mùa xuân ấy cứ nho nhỏ mà lại tận tâm tận tụy hoà nhịp cùng “Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng”. (Nguyễn Phan Quế Mai)

Sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, là “phòng triển lãm” lưu giữ những gì còn lại của đời người. Khúc ca cuối cùng của Thanh Hải vẫn hướng về vẻ đẹp quê hương, vẫn là khúc ca dành cho Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Khúc Nam ai là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước phim quá khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước đã trải qua. Và trong tiết xuân hiền hoà, ấm áp của hiện tại ta thấy ngân vang khúc Nam Bình – khúc nhạc êm ái, trìu mến. Những âm điệu đặc trưng của Huế đã hoà vào dòng máu của nhà thơ, đã trở thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong “ốc đảo” trái tim. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” làm cho âm hưởng bài thơ ngọt ngào, dịu nhẹ như làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Bài thơ khép lại với “nhịp phách tiền” rộn ràng,xao động. Đó là điệu nhạc của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc. Con đò xứ Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu hò xao xuyến, bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng, da diết rót vào hồn người. Để mỗi khi nghe hò là người ta nhớ đến Huế:

“Tiếng hát đâu mà nghe nhớ

Mái nhì man mác nước sông Hương”.

(Tố Hữu)

Xuân Diệu quan niệm: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”. Thơ hay là hay từ vẻ đẹp bên ngoài đến cốt cách bên trong. “…”chính là một thi phẩm không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn mang những nghệ thuật đặc sắc.Ta dễ dàng nhận thấy bài thơ có cấu tứ “lộ thiên” theo chiều không gian mở. Mạch thơ đi theo trình tự: Xuân thiên nhiên – Xuân con người – Xuân đất nước – Xuân thi sĩ và cuối cùng là Xuân đất Huế quê hương. Nhờ có những biện pháp ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ… đã góp phần làm nổi bật cấu tứ, hình ảnh, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. Mỗi câu thơ đều giàu sức gợi tình, gợi cảm. Đây quả là một bài thơ kết hợp hài hòa bốn yếu tố : ý – tình – hình – nhạc. “Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ 5 tiếng ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt…Không chỉ ngắt nhịp linh hoạt, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giã như thể nhịp phách tiền…” (Trần Đình Sử, Đọc văn học văn). Thả hồn vào “Mùa xuân nho nhỏ”, ta có thể cảm nhận được chất thi vị trong hồn thơ Thanh Hải.

“Mùa xuân nho nhỏ” là ngọn lửa diệu kì ủ ấm đôi tay xám ngắt của thi nhân.Ngọn lửa ấy như có phép màu truyền hơi thở, truyền tình yêu vào mạch huyết, vào trái tim của nhà thơ. Thi phẩm là tiếng hát của thiên nhiên đất trời, là tiếng nói ngân vang của cõi lòng người con xứ Huế với tình yêu dạt dào dành cho quê hương, đất nước, với khát vọng dâng hiến trọn đời vì tổ quốc. Hồn thơ cứ nhẹ nhàng mà thấm thía, lặng lẽ mà chạm đến ngưỡng rung động vĩnh hằng của trái tim người đọc. Tác phẩm là một minh chứng cho “nghệ thuật vị nhân sinh” bởi lẽ nó đã tác động và khơi gợi được”những ngọn lửa” tư tưởng tích cực, tiến bộ neo đậu trong trái tim độc giả trẻ rằng ta phải sống ý nghĩa, cống hiến hết mình vì dân tộc. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc trở thành ca khúc vượt thời gian để người đời hiểu thêm nhân cách một thi sĩ, một chiến sĩ.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 9

Nhắc tới mùa xuân trong thơ ca, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm, tác giả viết về nó, dùng nó để bộc lộ xúc cảm của mình. Xuân Diệu có “Vội vàng”, Hàn Mặc Tử có “Mùa xuân chín”, Nguyễn Bính có “Mùa xuân xanh”, … Thế nhưng khi đọc đến “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, ta lại cảm nhận được một hương vị khác, một hương vị vô cùng riêng biệt. Đó là một tình yêu cuộc sống tha thiết của một con người, tình yêu nước nồng nàn và khát vọng được dâng hiến cho cuộc đời.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được viết khi tác giả đang trên giường bệnh trước khi rời xa cõi đời không lâu. Chính vì vậy, bài thơ là nỗi ước vọng lớn lao của tác giả chứa chan trong đó là cả một thứ tình yêu quê hương đất nước tha thiết và tình yêu cuộc sống vô vàn. Bước vào bài thơ, chúng ta có thể thấy ngay một chất rất riêng của Huế đã được Thanh Hải gửi gắm:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Ngay trong dòng thơ đầu tiên, tác giả đã sử dụng một động từ nhấn mạnh “mọc”, không phải mọc trên bãi bờ hay mặt đất mà là “mọc giữa dòng sông xanh”. Chỉ vậy thôi nhưng người đọc cũng như thấy cả một dòng sông đang trải dài ra trước mắt, dòng sông ấy đang hiền hòa, lững lờ trôi. Và xuất hiện ngay giữa dòng nước trong xanh ấy “một bông hoa tím biếc”. Bông hoa ấy như được nở ra giữa dòng nước chảy, như được nổi lên từ mặt nước yên bình. Bông hoa ấy có màu tím biếc. Chắc hẳn ở đây, chúng ta có thể hình dung ra một bông hoa lục bình tím đang trôi giữa dòng. Không phải là tím đậm hay tím nhạt mà lại là tím biếc, từ “biếc” ấy dường như đã tô đậm thêm khung cảnh của dòng sông. Một bức tranh quê hương bình dị, mộc mạc đã hiện ra trước mắt người đọc. Nhưng mùa xuân nào chỉ có thế:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Một tiếng gọi “ơi” thân thương, giản dị! Chú chim kia đã trở thành người đưa tin của mùa xuân và loài chim chiền chiện vốn là loài chim quen thuộc ở những vùng quê. Tác giả đã đưa ra lời trách cứ “hót chi mà vang trời”. Chú chim nhỏ mang tin vui mùa xuân tới, đang cất vang những tiếng hót mừng mùa xuân về. Tiếng hót trong trẻo ấy vang vọng cả trời xanh khiến cho vạn vật đều cảm thấy vui tươi, hạnh phúc. Một lời trách cứ rất Huế, rất đáng yêu, dịu dàng. Được ngắm nhìn dòng sông với cánh hoa lục bình tím biếc dập dờn trôi cùng thưởng thức tiếng chim hót chào mừng xuân mới, nhà thơ như cảm nhận được tiếng chim mùa xuân kia đang dần đông đặc lại, quyện sánh lại như một giọt mật ngọt ngào. Giọt mật long lanh như sương sớm mai trong lành, từng giọt…từng giọt đang lặng lẽ nhỏ xuống không gian yên bình. Và tác giả đã đưa đôi bàn tay mình ra “hứng” lấy giọt mật xuân kia để thưởng thức. Chưa từng có bất cứ một so sánh nào khiến cho người đọc cảm thấy ngỡ ngàng hơn thế! Mùa xuân lại như những giọt nước long lanh, lại có thể khiến cho con người có thể chạm lấy, cầm lấy, nếm thử. Hành động hứng cả mùa xuân ấy, tác giả như đang muốn để cho mùa xuân lan đi, tràn ngập khắp ngõ ngách của tâm hồn mình. Phải yêu cuộc sống tha thiết tới nhường nào thì mới không muốn mất đi chỉ một giọt xuân nhỏ bé!

Không chỉ là tình yêu cuộc sống, yêu mùa xuân tha thiết, Thanh Hải dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng cũng không quên đi những hình ảnh của đất nước đang trong thời kì xây dựng. Đó là nỗi niềm của một người mang trong lòng tình yêu nước thiết tha:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

 Một mùa xuân mới lại bắt đầu với những người làm cách mạng. Hình ảnh đất nước đang trong thời kì xây dựng với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Chúng ta đã bước qua giai đoạn đấu tranh giành độc lập và bước vào thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vậy nên cùng với mùa xuân của đất trời, mùa xuân cũng đã về trong lòng những con người xây dựng đất nước. “Lộc” tức là những chồi non, những cành cây non biếc, là hình ảnh của mùa xuân. Nó tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt đang trở mình vươn dậy. Vậy nên, xuân của người lính là những lộc non giắt quanh lưng để che mắt quân thù. Xuân của hậu phương sản xuất là những cánh đồng nương mạ non. Sản xuất và chiến đấu luôn luon song hành cùng nhau để xây dựng đất nước, mang mùa xuân tươi đẹp hơn về cho dân tộc. Giữa khoảnh khắc mùa xuân của đất trời và mùa xuân của đất nước đang hòa làm một, cả đất nước bước vào đó với một sự khẩn trương rõ ràng:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Phải rồi, cả đất nước ta, cả trời xuân kia cũng đang rạo rực, đang chuyển mình. Vậy nên, vạn vật cùng con người hối hả hơn, xôn xao hơn. Hai từ láy “hối hả, xôn xao” được dùng liên tiếp trong hai câu thơ đều là những từ láy miêu tả sự gấp gáp, sự rộn ràng, mau lẹ. Cùng với đó là điệp từ “như”, tất cả đó hòa quyện tạo nên một nhịp điệu khẩn trương, vui tươi không ngớt. Đó chính là hình ảnh của đất nước ta đang trong thời kì mới, một thời kì không còn khói lửa, chỉ còn những niềm vui, những mùa xuân hòa bình. Ở khổ thơ này, chúng ta cảm nhận được sự gấp gáp, khẩn trương trong từng nhịp thơ, phải chăng đó cũng chính là sự hối hả của chính tác giả khi được chứng kiến công cuộc xây dựng đất nước trong một mùa xuân mới?

Thế nhưng, ở khổ thơ tiếp theo, chúng ta lại cảm nhận được một sự chậm rãi, không còn không khí khẩn trương hối hả nữa bởi nhà thơ đã đưa chúng ta trở lại hàng ngàn năm lịch sử của quê hương:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

 Nhịp thơ chậm rãi hào cùng giọng thơ bình thản như đang kể lại câu chuyện lịch sử “bốn ngàn năm” của dân tộc ta vậy. Trong trang dài lịch sử, chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, trải qua biết bao thăng trầm và gian khổ. Bao cuộc chiến chống ngoại xâm mà gần đây nhất là cuộc chiến chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã lấy đi của dân tộc ta không chỉ xương máu mà còn là nước mắt, là những ngày tháng cơ cực, lầm than và đen tối. Đó là trang lịch sử kéo dài đầy “vất vả và gian lao”. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả, đất nước chúng ta “như vì sao” sáng, vững vàng bước lên những ngày vinh quang, “tiến lên phía trước”. Ẩn chứa trong từng câu thơ là biết bao niềm tự hào dân tộc mà Thanh Hải muốn gửi gắm. Từ lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, tới những trang vàng lịch sử không thể phai mờ, nhà thơ muốn gửi tới chúng ta niềm tin, niềm hi vọng về một đất nước hòa bình, phát triển ngày càng thịnh vượng hơn. So sánh hình ảnh “đất nước như vì sao” là muốn nói lên niềm tự hào về một dân tộc luôn sáng chói trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cả khổ thơ là niềm tự hào dân tộc xen lẫn với tình yêu nước nồng nàn. Chỉ một khổ thơ thôi mà chứa đựng trong đó biết bao nhiêu điều!

Khi viết bài thơ này, tác giả đã nằm trên giường bệnh những ngày cuối đời, nhưng không phải vì thế mà tình yêu cuộc sống trong ông cũng lụi tàn đi. Ẩn sâu trong con người ông, vẫn là một tình yêu cuộc sống tha thiết, tình yêu đó được biểu hiện qua những vần thơ:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Cả hai khổ thơ là niềm ước vọng của tác giả. Mùa xuân của đất trời đã bên kia cửa sổ với bao nhiêu là nhựa sống tràn trề. Và Thanh Hải khi ấy muốn được hóa thành một phần của mùa xuân kia. Chỉ là một chú chim nhỏ được cất tiếng hót vang trong bản hòa ca mùa xuân hay là một cành hoa nhỏ bé được dâng tỏa hương thơm ngát cho đời. Chỉ vậy thôi cũng thấy khát vọng sống, tình yêu đời của nhà thơ to lớn tới nhường nào. Cả mùa xuân là một bản hòa ca đầy ý nghĩa với bao nhiêu là giai điệu, bao nhiêu thanh nốt. Vậy nhưng Thanh Hải chỉ muốn xin làm “một nốt trầm xao xuyến” bé nhỏ trong bản hòa ca bất tận ấy. Một nốt trầm lặng như cuộc đời của nhà thơ: bình yên và cống hiến hết mình cho sự nghiệp. Điệp từ “làm” được lặp lại để khẳng định chắc chắn nỗi khát khao cháy bỏng của ông. Nhà thơ muốn được một lần nữa cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời, cho sự nghiệp của đất nước. Chỉ cần “lặng lẽ dâng cho đời” thôi chứ không cần chút tôn vinh hào nhoáng nào hết. Bất cứ khi nào, lúc còn trẻ “tuổi hai mươi” hay khi đã về già “tóc bạc”, nhà thơ vẫn luôn muốn được sống hết mình, được dâng hiến hết mình cho sự nghiệp của đất nước cũng như với cuộc sống của chính ông. Điệp từ “dù là” được lặp lại hai lần liên tục như để khẳng định ước vọng của nhà thơ. Bất kể khi nào, bất kể như thế nào ông cũng muốn được hòa vào cuộc sống, cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng của đất nước. chỉ với hai khổ thơ ngắn ngủi nhưng gửi gắm trong đó là biết bao tình yêu cuộc sống này, yêu xuân, yêu đất nước và ước nguyện được dâng cho đời những thanh âm trong trẻo nhất. Mỗi con người trong đất nước đều là một mùa xuân nhỏ góp phần tạo nên mùa xuân bất diệt của Tổ quốc.

Kết lại bài thơ là một điệu hát quen thuộc của bất cứ người con xứ Huế nào. Nó chứa đựng trong đó là tất cả cảm xúc chân thành của tác giả – một người con của đất Huế thân thương:

“Mùa xuân tôi xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”.

“Nam ai, Nam bình” là hai điệu hát của người dân Huế. Khúc Nam ai mang điệu buồn thương còn khúc Nam bình mang điệu dịu dàng, trìu mến. Cả hai khúc hát trên đều được hát trên nhịp phách tiền là một nhạc cụ của dân ca Huế. Cuối cùng ở đây, tác giả lại muốn thể hiện một tình yêu quê hương, sự gắn bó khăng khít với Huế qua những câu hò quên thuộc. Những câu hát ấy chính là nỗi lòng của tác giả đầy ngọt ngào, sâu lắng, yêu thương.

Cả bài thơ của Thanh Hải được viết trên thể thơ năm chữ. Thể thơ đó cũng với những biện pháp tu từ đã chuyển tải hết cho người đọc thấy rõ một tình yêu cuộc sống mãnh liệt tới nhường nào của Thanh Hải. Và hòa quyện trong tình yêu đó là một tình yêu cao cả hơn, lớn lao hơn, cháy bỏng hơn dành cho quê hương, cho đất nước ta đang trong thời kì xây dựng. Nó cũng thể hiện khát khao được cống hiến của người con xứ Huế cho mùa xuân của đất nước và con người Việt Nam.

Bài thơ kết lại rồi nhưng âm hưởng ngọt ngào, da diết mà Thanh Hải để lại cho chúng ta cứ ngân vang mãi trong lòng mỗi người. Tình yêu cuộc sống, yêu đất nước và ước nguyện của tác giả đã làm ta cảm thấy khâm phục biết nhường nào. Nhắc tới Thanh Hải, người ta sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh  một “mùa xuân nho nhỏ” đẹp đẽ đến như thế!

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 10

Thanh Hải là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh của cuộc sống, Thanh Hải đã dâng cho đời nhiều áng thơ có giá trị. Ngòi bút của ông đã góp phần xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tâm sự của ông trong những ngày cuối của cuộc đời. Tình cảm dạt dào và suy nghĩ sâu lắng trong tâm tư của ông đã gởi gắm vào bài thơ. Đó là tình yêu đất nước bao la, niềm yêu mến thiết tha đối với cuộc sống đang bước vào thời kì xây dựng.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tươi đẹp, về với đất trời đang bước vào mùa xuân mới:

Mọc giữa dòng sông xanh,

Một bông hoa tím biếc,

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc cùng với tiếng hót trong trẻo của chim chiền chiện. Cảnh mùa xuân ấy gợi ra một không gian tươi mát, dịu dàng và đằm thắm. Cảnh vật mùa xuân đã làm tác giả dâng lên một niềm cảm xúc. Tiếng ơi trong câu thơ là hô ngữ, là từ gợi cảm biểu lộ sự thân thiết, yêu thương. Hai tiếng hót chi là cách, nói dịu ngọt của người dân xứ Huế đã làm tăng tính biểu cảm của vần thơ. Tác giả đã mượn tiếng chim hót để biểu lộ cảm xúc của mình về bức tranh mùa xuân. Tác giả không chỉ biểu lộ sự trân trọng, nâng niu những cái đẹp trong mùa xuân ấy:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Động từ hứng đã diễn tả được tâm trạng của tác giả trước cảnh sắc mùa xuân. Có ai ngờ tiếng chim hót vang trời lại đọng thành giọt long lanh rơi xuống? Phải chăng đây không chỉ là âm thanh của tiếng chim mà là âm thanh của mùa xuân, âm thanh của cuộc sống đang khơi dậy trong lòng tác giả? Tâm hồn nhà thơ đang chan hòa cùng cuộc sống, cùng mùa xuân tươi đẹp một cách bất ngờ.

Từ mùa xuân của đất trời, cảm xúc thơ chuyển sang mùa xuân của đất nước một cách tự nhiên:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trài dài nương mạ.

Đây là hình ảnh của đất nước với hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sản xuất. Mùa xuân của đất nước hòa cung niềm vui trong chiến đấu và niềm vui trong lao động sản xuất. Lộc là hình ảnh của mùa xuân. Đó là chồi non, cành biếc mơn mởn. Lộc là sự sinh sôi, nảy nở, là sức sống mãnh liệt đang vươn lên. Trong chiến đấu, lộc giắt đầy quanh lưng là hình ảnh người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc để che mắt quân thù và còn là biểu tượng của sức sống mùa xuân, là sức mạnh của dân tộc. Trong sản xuất, lộc trải dài nương mạ là hình ảnh của sự lao động cần cù đã làm nên một màu xanh bát ngát ruộng đồng. Người nông dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước. Hậu phương và tiền tuyến luôn song hành. Người cầm súng và người nông dân lao động, đều đem đến mùa xuân cho đất nước giữa mùa xuân của đất trời. Cả dân tộc đang bước vào mùa xuân với tâm thế khẩn trương và hào hứng:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Hối hả, xôn xao là những từ láy diễn tả sự gấp gáp, khẩn trương, náo nhiệt. Cặp từ láy ấy cùng với điệp ngữ tất cả như… làm cho câu thơ vang lên nhịp diệu vui tươi, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh đất nước và dân tộc đang bước vào mùa xuân của thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong mùa xuân tươi đẹp ấy tác giả không quên suy ngẫm về quá khứ của đất nước và cội nguồn dân tộc:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Tác giả đã bộc lộ niềm cảm thụ và tự hào về đất nước. Chặng đường lịch sử đã qua với bao gian lao, vất vả. Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, sức mạnh dân tộc được khẳng định, đất nước vẫn trường tồn và đi lên. Đất nước như vì sao là sự so sánh đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng vô tận, là vẻ đẹp của vũ trụ, vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Đây là niềm tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, bất diệt.

Đất nước ấy luôn lớn mạnh, đi lên từng ngày. Hành trình đi tới tương lai của đất nước vẫn không ngừng, cứ đi lên là sự thể hiện chí khí, quyết tâm của dân tộc Việt Nam.

Trước mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, sự đi lên của cuộc sống, tác giả khát khao được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Điều tâm niệm của tác giả thật chân thành sâu sắc. Con chim hót, một cành hoa là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Một nốt trầm trong giàn hợp xưởng là âm thanh mà mọi người đều thích nghe. Tác giả muốn làm việc, muốn cống hiến cho cuộc đời, cống hiến cho đất nước. Điệp từ một trong đoạn thơ diễn tả sự ít ỏi, khiêm tốn nhưng hình ảnh con chim, cành hoa, nốt trầm cuối cùng dã dồn vào hình ảnh thật đặc sắc:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Khát vọng của tác giả tuy ẩn chứa sự khiêm nhường qua hình ảnh nho nhỏ, lặng lẽ nhưng thể hiện một tiếng lòng cao cả, thể hiện một nhân sinh quan cao đẹp: phải cống hiến cho đất nước, dù là nhỏ bé, và phải không ngừng cống hiến cho cuộc đời. Mỗi con người hãy là một mùa xuân nho nhỏ để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Một xã hội tốt đẹp thì mỗi con người phải tốt đẹp. Đây là điều tâm niệm và khát vọng của nhà thơ trước lúc đi xa vĩnh biệt cuộc đời.

Cảm xúc chân thành của nhà thơ không chỉ dừng lại ở khát vọng về cuộc sống, tâm niệm về cuộc đời, tình cảm đối với quê hương, đất nước mà còn thể hệ qua khúc hát yêu thương:

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế, phách tiền là một nhạc cụ dân tộc điểm nhịp cho lời ca. Hình ảnh xin hát diễn tả tình yêu thương, gắn bó với quê hương, sự khao khát về cuộc sống mùa xuân. Tiếng hát ở đây cũng là tiếng lòng của tác giả, nó ngọt ngào sâu lắng và gây được sự đồng cảm với tất cả mọi người.

Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ đặc sắc. Với thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang, âm hưởng nhẹ nhàng xuyên khổ thơ, tác giả đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muôn được dâng hiến cho cuộc đời trước lúc đi xa.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 11

Mùa xuân luôn là đề tài phong phú cho các thi nhân thử bút. Đã có không ít bài thơ hay viết về mùa xuân. Nhà thơ Thanh Hải cũng khá thành công khi viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để nói lên ước nguyện khiêm tốn của mình, ước nguyện được dâng hiến mùa xuân bé nhỏ của mình vào mùa xuân chung của dân tộc, vào xuân bất tận của đất trời.

Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4-11-1930, ở Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động cách mạng từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hải là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời (1980). Bài thơ thể hiện cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với đất nước, với con người Việt Nam trong thời kì cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải dựng lên khung cảnh của một mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi, con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Không gian mùa xuân hiện lên trước hết từ một dòng sông xanh với một bông hoa tím biếc. Đây là những hình ảnh vốn rất riêng của quê hương xứ Huế – quê hương yêu dấu của tác giả. Sự hoà hợp giữa màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa đã tạo nên một cảm giác mát dịu. Khung cảnh mùa xuân còn gợi lên những âm thanh quen thuộc, vui tươi của con chim chiền chiện, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, như một dấu hiệu của mùa xuân. Tiếng hót của con chim chiền chiện vang trời đã làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức lạ thường. Tiếng chim chiền chiện đã được cụ thể hoá, hình tượng hoá. “Từng giọt long lanh rơi / Tôi đưa tay tôi hứng” là một hình thức chuyển đổi cảm giác. Âm thanh vốn chỉ nghe thấy, nhưng được chuyển đổi nên có thể cảm nhận, nhìn thấy và có thể tiếp xúc được. Ngay trong đoạn mở đầu, chúng ta đã hình dung được tâm trạng say mê, đầy hào hứng của nhà thơ trước mùa xuân mới của đất trời.

Bài thơ được viết khi cả nước đang trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí chung đó, không thể thiếu hình ảnh của những người đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc và những người làm ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy bên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Những người đang ngày đêm cầm súng bảo vệ tổ quốc và những người góp phần xây dựng quê hương đã được tác giả nhắc đến đầu tiên trong bài thơ. Đó là những người đã chịu nhiều hi sinh trong kháng chiến cũng như trong thời bình. Mùa xuân hiện hữu trong tất cả các hoạt động, mùa xuân theo người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân theo người nông dân ra đồng. Mùa xuân không còn là khái niệm thời gian mà đã trở thành người bạn của những người ngày đêm làm giàu và mang lại bình yên cho dân tộc. Xuân trong thơ Thanh Hải gần như đã có hồn và dường như thật hối hả trong nhịp sống chung của dân tộc. Nhắc đến hình ảnh người lính, tác giả không quên lịch sử hào hùng của dân tộc:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc, Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế.

Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều ý nghĩa. Mùa xuân với khái niệm thời gian đã được tác giả chuyển thành khái niệm của một sự vật nhất định. Chủ đề của bài thơ bộc lộ rõ qua đoạn thơ:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập trong hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Đến đây cái tôi đã được thay bằng cái ta và cảnh vật của thiên nhiên trong mắt quan sát của nhà thơ đều được thu nhỏ lại trong cái ta ấy. Mỗi một bông hoa, mỗi một tiếng chim, mỗi cảnh vật thiên nhiên đều góp phần tạo nên mùa xuân chung của đất nước. Và ta là tác giả cũng là một con người cụ thể, ta hãy như con chim chiền chiện, như bông hoa tím biếc trên dòng sông xanh, như một nốt trầm trong bản hoà ca xao xuyến của dân tộc. Cái ta chỉ khiêm tốn giữ vị trí của nốt trầm trong bản nhạc. Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ, cống hiến sức lực và cuộc đời của mình để làm nên mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.

Khổ thơ cuối cùng là lời tâm tình của tác giả, lời của một đứa con nói với quê hương:

Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai

Nam bình Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Khổ thơ mang đậm làn điệu dân ca xứ Huế và là khổ thơ duy nhất trong bài có hình ảnh Huế – quê hương của tác giả. Không vì thế mà bài thơ không chứa trong đó tình cảm của tác giả đối với quê hương. Cái hay của câu thơ ở chỗ đã đúc kết được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của xứ Huế thơ mộng và chất chứa trong đó là nỗi niềm của một người con đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Bài thơ được viết khi tác giả phải nằm trên giường bệnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống và hơn cả là tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước. Đó chính là thông điệp Thanh Hải gửi đến tất cả mọi người: “Hãy góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất nước, của dân tộc”.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 12

Mùa xuân là mùa của những sự khởi đầu mới, mùa mà vạn vật như hồi sinh, mùa mà nhựa sống của thiên nhiên và con người dâng trào mãnh liệt nhất. Mùa xuân cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những thi sĩ yêu thiên nhiên. Và Thanh Hải cũng là một trong những người thi sĩ như thế! Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, tình yêu đất nước nồng nàn và khát vọng cao đẹp của mình, Thanh Hải đã sáng tác Mùa xuân nho nhỏ – bài thơ đẹp đẽ ghi dấu ấn cuộc đời của ông.

Nhắc đến những bài thơ về mùa xuân, người ta có thể ngay lập tức nhớ tới Vội vàng của Xuân Diệu – một bài thơ xuân ngọt ngào, thắm đượm:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân đã già”

Thế nhưng, người ta cũng không thể nào quên được hình ảnh của một mùa xuân thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và khát vọng được dâng hiến cháy bỏng của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được.

Nếu như Xuân Diệu bắt đầu bài thơ xuân của mình bằng một ước muốn rằng:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Thì Thanh Hải lại mở đầu bài thơ xuân của mình bằng cả một không gian rộng lớn bao la với chim chóc, hoa lá, với dòng sông, … trong trí tưởng tượng của mình:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Tại sao nói tất cả không gian rộng lớn kia, tất cả tạo vật đang hoan hỉ trong bức tranh kia là trong tưởng tượng của tác giả? Đó là bởi vì khi ông viết lên những dòng thơ đầu tiên của bài thơ này, ông đang nằm dưỡng bệnh tại quê nhà ở Huế của mình vào tháng mười một năm 1980. Ấy thế mà cả mùa xuân hiện lên thật rực rỡ, thật đậm sắc qua từng hình ảnh thơ của Thanh Hải. Ông đã khắc họa cái không gian rộng lớn, thoáng đãng khi mùa xuân ào đến, cùng với sắc hoa, cùng với chim chóc và dòng sông, tạo nên một bức tranh mùa xuân đẹp tuyệt vời.

Xuất hiện ngay ở dòng thơ đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa nhỏ, mọc lên từ giữa dòng sông xanh biêng biếc. Chỉ có “một bông hoa tím biếc” như là một dấu hiệu báo cho con người và vạn vật rằng nàng xuân đã đến rồi. Bông hoa ấy chẳng phải màu đỏ rực, chẳng phải màu vàng phai, hồng thắm mà lại là màu “tím biếc”. Đây là màu sắc đặc trưng của quê hương ông – xứ Huế mộng mơ. Người ta biết đến Huế với những nhịp cầu Tràng Tiền nhịp nhàng với những tà áo dài Huế tím biêng biếc say mê, thế nên chẳng phải tự nhiên mà ông mang cái màu sắc đặc trưng ấy vào trong dòng thơ đầu tiên của Mùa xuân nho nhỏ. Đó phải chăng là một tình yêu thương thắm thiết với quê hương mà Thanh Hải muốn gửi gắm qua từng dòng thơ của mình?

Xứ Huế còn được đặc trưng bởi dòng sông “trăm thứ hương đổ về” – sông Hương. Và Thanh Hải đã đặt dòng sông ấy vào ngay trong câu thơ đầu tiên như để tri ân với quê hương. Một dòng sông Hương “xanh” biêng biếc đang lững lờ uốn lượn, trải dài trước mắt của chúng ta. Nó đang chở trên lưng mình một trong những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân, đó là một bông hoa “tím biếc”. Bông hoa ấy “mọc” lên ở giữa dòng sông, đột ngột, bất ngờ như báo hiệu mùa xuân đến thật bất chợt. Động từ “mọc” được ông đảo lên ngay đầu câu thơ càng làm cho chúng ta thấy rõ sự xuất hiện quá đỗi bất ngờ của bông hoa ấy. Bông hoa ấy không phải màu hồng phai, màu đỏ rực, … mà lại mang một màu tím – sắc màu thân thương của xứ Huế. Bông hoa ấy nở giữa dòng sông, ánh lên trong ánh nắng mới lóng lánh.

Không gian mùa xuân trong trí tưởng tượng của Thanh Hải không chỉ có hoa xuân mà còn những chú chim nhỏ bé nữa. Những chú chim ấy cũng như bông hoa kia, cũng là một người đưa tin cho mùa xuân. Giữa không gian bao la của bầu trời cao rộng, chú chim rướn mình, cất lên tiếng hót lanh lảnh, gọi mùa xuân về. Loài chim mà Thanh Hải miêu tả ở đây là “chim chiền chiện” – một loài chim quen thuộc, gắn bó thân thiết với nhà nông. Chú chim ấy cất tiếng hót vang, và nhà thơ đã không ngần ngại mà cất tiếng gọi:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Đây có phải chăng là một tiếng trách cứ, hờn dỗi đáng yêu của nhà thơ với chú chim đáng yêu kia chăng? Ông cất tiếng gọi “ơi” với chú chim, tiếng gọi tha thiết, thân thương như đối với một người thân thuộc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa chú chim ấy như một con người thực thụ, và con người ấy đang cất tiếng gọi mùa xuân về. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ trách cứ chú chim “hót chi mà vang trời”, nghe thật đáng yêu làm sao! Chữ “chi” là giọng điệu mang âm hưởng của xứ Huế thân yêu. Tiếng chim lanh lảnh xuyên qua tầng không, vang vọng trong tâm trí, tâm hồn nhà thơ khiến ông rạo rực quá! Nằm ở giường bệnh, nhưng ông muốn cất bước thật nhanh ra ngoài kia mà tận hưởng cho hết cái không khí của mùa xuân đang tràn về.

Thế nhưng, đặc sắc nhất trong đoạn thơ này phải kể tới hai câu thơ cuối của khổ thơ. Chỉ với hai câu thơ này, Thanh Hải đã dường như nắm bắt được cái hồn của mùa xuân:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Tiếng chim trên cao vọng xuống từng hồi lảnh lót, gọi nàng xuân về trong yêu thương. Tiếng chim ấy dường như đang cô đặc lại dần thành từng giọt mà nhỏ xuống thế gian, để thế gian bắt đầu một nguồn sống mới. Từng giọt mật mùa xuân trên cao rơi xuống, nhà thơ bất chợt đưa tay ra “hứng” lấy nó như để bắt trọn mùa xuân trong tay. Đọc thơ mà người ta như thấy được hình ảnh của Thanh Hải đang nâng niu hứng từng giọt mật xuân rơi xuống trong niềm vui, đắm đuối vô tận. Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để miêu tả về mùa xuân. Mùa xuân không còn là một thứ vô hình nữa mà đối với nhà thơ,, mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình mà ông có thể sờ, “hứng”, chạm và nếm thử. Hành động “hứng” giọt mùa xuân của nhà thơ là một hành động của một con người mang trong mình tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với mùa xuân. Với ông, tận hưởng mùa xuân trọn vẹn phải là sự tận hưởng ngay trong giây phút đầu tiên. Phải nhớ rằng, lúc này, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, vậy mà chỉ bằng trí tưởng tượng của mình, ông đã dựng lên bức tranh mùa xuân đẹp đến như thế!

Bức tranh mùa xuân của Thanh Hải được dựng lên trong niềm yêu thương tha thiết với thiên nhiên. Bức tranh ấy được ông mường tượng ra trên giường bệnh nhưng lại mang đậm nét linh hồn xứ sở quê hương Huế thân yêu, vừa giản dị lại vừa gần gũi vô cùng. Có lẽ, trong giây phút ấy, Thanh Hải đã khao khát cháy bỏng được rời khỏi giường bệnh, được bước ra ngoài với thiên nhiên, được ôm trọn thiên nhiên vào lòng để mà tận hưởng cái không khí mùa xuân đang dâng tràn trong tâm trí mình.

Viết bài thơ về mùa xuân, Thanh Hải còn dựng lên bức tranh mùa xuân của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đây như là một cách thức để ông biểu đạt tình yêu quê hương của mình:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…”

Nếu như mùa xuân của thiên nhiên với dấu hiệu là những bông hoa tím, là tiếng hót của những chú chim “chiền chiện” thì mùa xuân của đất nước lại được đánh dấu bằng hình ảnh của “người cấm súng” và “người ra đồng”.

Như chúng ta đã biết, năm 1980, đất nước ta đang bước vào công cuộc xây dựng mạnh mẽ với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Vậy nên, Thanh Hải đã dùng hải nhiệm vụ này để miêu tả về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân hiện lên trên vai “người cầm súng” là những cành lộc non “giắt” trên lưng áo ngụy trang. Những chồi non xanh biếc ấy như những niềm hy vọng, sự tin tưởng và sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam qua bao thời kỳ. Còn mùa xuân của “người ra đồng” là những “lộc” non của lúa, của mạ non để cấy cày, sản xuất, trở thành hậu phương vững chắc cho những người anh hùng “cầm súng”.

Có thể thấy, sản xuất và chiến đấu luôn luôn song hành cùng nhau, bởi chỉ có vậy chúng ta mới có thể cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước chúng ta phát triển ngày một tươi đẹp hơn. Đọc khổ thơ, người ta nhận thấy rằng mùa xuân của hai nhiệm vụ của đất nước đã hòa làm một thành mùa xuân của Tổ quốc, mùa xuân của hòa bình và phát triển.

Giữa sự chuyển mình của đất nước, tất cả vạn vật của Tổ quốc ta dường như cũng đang vội vã, “hối hả” chuyển mình. “Tất cả” đều “xôn xao”, “hối hả” trong công cuộc đổi mới ấy. Hai từ láy liên tiếp “hối hả”, “xôn xao” như diễn tả sự mau lẹ, sự nhanh chóng, gấp gáp của con người cũng như mọi vật. Tất cả như muốn góp một phần sức lực của mình để chung tay xây dựng mùa xuân của đất nước.

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Điệp từ “như” được Thanh Hải sử dụng trong hai câu thơ như để diễn tả nhịp điệu khẩn trương, mau lẹ. Cả đất trời, con người đang giao hòa thật hối hả, thật gấp gáp, thúc giục mọi người qua từng câu chữ. Ngay chính tác giả, dường như ông cũng đang rạo rực, muốn được hòa mình vào cùng mọi người để xây dựng Tổ quốc.

Đây là hình ảnh của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, không còn chiến tranh, chỉ còn công cuộc xây dựng đất nước đi lên trong hòa bình, tạo nên một mùa xuân rực rỡ cho dân tộc Việt Nam.

Không chỉ nhìn ngắm thực tại, Thanh Hải còn hồi tưởng qua từng dòng thời gian của lịch sử dân tộc, nơi khởi nguồn cho mạch sống trường tồn của đất nước. Nhịp thơ ở đây không còn gấp gáp, hối hả như khổ thơ trên mà nhẹ nhàng, chậm rãi như một cuốn phim quay chậm. Những thước phim ấy đang sống dậy những trang sử hào hùng của dân tộc ta.

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”.

Trải qua “bốn ngàn năm” dựng xây và giữ nước, những “vất vả và gian lao” mà dân tộc ta đã trải qua là những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trải dài từ khi vua Hùng Vương dựng nước và tới tận gần đây nhất là hai cuộc chiến tranh chống Pháp và đế quốc Mỹ. Ẩn sau từng câu chữ, người ta như thấy được niềm xúc động, tự hào của Thanh Hải trước công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử xa xôi ấy.

Đất nước đẹp như một bức tranh và sáng như một vì sao tỏ. Thanh Hải đã không ngần ngại mà so sánh hình ảnh của một Việt Nam kiên cường như một vì sao sáng trên bầu trời. Đây là niềm tự hào của Thanh Hải về non sông, đất nước Việt Nam, một đất nước mà luôn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, lúc nào cũng tỏa sáng rực rỡ “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

Bức tranh về mùa xuân của đất trời, mùa xuân của đất nước được Thanh hải truyền tải bằng tất cả sự trân trọng, tự hào và yêu thương nhất. Nếu mùa xuân của thiên nhiên vạn vật là những màu sắc tươi thắm nhất, những dấu hiệu đẹp đẽ nhất thì mùa xuân của đất nước lại đến cùng với công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, cùng với những con người “hối hả”. Dân tộc ta như Thanh Hải đã nói, đã trải qua bốn ngàn năm thăng trầm nhưng vẫn vững vàng “đi lên phía trước” – đây là niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của dân tộc ta.

Mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước tươi đẹp là thế vậy mà tác giả lại phải nằm trong giường bệnh. Vậy nên, những khổ thơ cuối cùng của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ấy, ông đã viết lên ước nguyện, khát vọng của mình, giản dị mà chân thành vô cùng:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Một nốt trầm xao xuyến

Ta nhập vào hòa ca”

Liên tiếp ở các câu thơ, nhà thơ đã sử dụng động từ “ta làm” để biểu đạt cái khát khao tột độ đang cháy bỏng ở trong tim mình. Ông ước được làm một “con chim hót”, “một cành hoa” nhỏ bé mà dâng hiến cho đời. Những vật ông ao ước trở thành đều là những vật nhỏ bé, tầm thường trong cuộc sống, thế nhưng ông lại khao khát được trở thành để được cống hiến cho cuộc đời. Ông ước mình trở thành “một nốt trầm xao xuyến” – một nốt lặng bé nhỏ giữa bản nhạc tươi vui của cuộc đời. Mong ước ấy thật nhỏ nhoi, thế nhưng lại chân thành, tha thiết biết bao nhiêu.

Thanh Hải ước được trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để “lặng lẽ” hòa mình vào thiên nhiên, đất nước để mà dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, chẳng cần hào nhoáng, chẳng cần được tôn vinh. Bất cứ ở độ tuổi nào, ông cũng muốn được cống hiến, được hi sinh hết mình cho Tổ quốc thân yêu, dù là lúc còn là một chàng thanh niên hai mươi tuổi tràn trề nhiệt huyết hay là giờ đây, khi đã là một ông già tóc bạc. Điệp từ “dù là” như một lời khẳng định mạnh mẽ ước vọng của nhà thơ.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Lời thơ như những lời khẳng định tình yêu tha thiết của Thanh Hải dành cho Tổ quốc, dành cho cuộc sống tươi đẹp. Bởi có yêu tha thiết quê hương, cuộc sống, ông mới khao khát cháy bỏng được cống hiến, được dâng hiến cho cuộc đời đến như thế, đặc biệt là lúc này, khi ông đang năm trên giường bệnh. Cái khát khao ấy cháy bỏng trong tim ông, chưa lúc nào, ông thôi khao khát được cống hiến hết mình cho cuộc đời cả.

Qua những khổ thơ trên, người ta có thể thấy Thanh Hải yêu quê hương, non sông đến thế nào, đặc biệt là xứ Huế thân thương. Chắc có lẽ bởi vì thế mà khép lại bài thơ, Thanh Hải đã cất lên một khúc hát với giai điệu quen thuộc của xứ Huế:

“Mùa xuân tôi xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Những điệu hò “Nam ai, Nam bình” đều là những khúc ca quen thuộc của xứ Huế. Nếu khúc Nam ai là giai điệu buồn thương, da diết thì Nam bình lại dìu dặt, trìu mến. Cả hai điệu hát đều được cất lên trên nhịp phách tiền đặc trưng của dân ca Huế. Thế mới biết, Thanh Hải gắn bó khăng khít và yêu thương xứ Huế đến nhường nào. Ông đã đặt nó vào trong tim mình, mang cả vào đó điệu hò quen thuộc của quê hương.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải được viết bằng thể thơ năm chữ quen thuộc với nhịp điệu uyển chuyển. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc đời của tác giả, đồng thời nó cũng thể hiện một khát vọng cháy bỏng mà chân thành của nhà thơ đó là được góp phần làm nên mùa xuân của đất nước.

Thanh Hải đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ linh hoạt như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, … để bộc lộ tình yêu của mình.

Viết bài thơ vào những ngày tháng cuối của cuộc đời, thế nhưng lời thơ của Thanh Hải lại không có một chút bi lụy mà thay vào đó, người ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, Tổ quốc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của đất nước cũng như khát vọng cháy bỏng của ông.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 13

“Mùa xuân nho nhỏ” là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Thanh Hải. Tác phẩm đã diễn tả được lòng yêu thiên nhiên, đất nước cũng như khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên vào mùa xuân với những nét đẹp thật giản dị:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Bức tranh được mở ra với không gian thật thoáng đãng của dòng sông, bầu trời và tiếng chim chiền chiện. Dòng sông xanh – một dòng sông thơ mộng hòa với đó là sắc tím của loài hoa. Tiếng chim chiền chiện đang ca lên bài ca mùa xuân bằng tiếng hót trong trẻo của mình. Đây là loài chim báo hiệu khi mùa xuân về với khát khao hy vọng về một tương lai ấm no, hạnh phúc cho con người. Những câu thơ đọc lên gợi ra một bức tranh mùa xuân dịu dàng, say đắm. Hai tiếng “hót chi” vốn là giọng điệu quen thuộc của người dân xứ Huế. Khi được nhà thơ đưa vào trong trang thơ để diễn tả lên cảm xúc thiết tha, yêu đời của người với cảnh vật. Chỉ với một vài hình ảnh đơn giản cũng đủ để chúng ta cảm nhận được hơi thở của mùa xuân.

Tiếp đến là những cảm nhận về mùa xuân của đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

“Người ra đồng” và “người cầm súng” là hai lực lượng chính để bảo vệ và xây dựng đất nước – những người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ nền hòa bình và những người nông dân lao động phục vụ chiến đấu. Mùa xuân ở đây đã bắt đầu gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng và bảo vệ những mùa xuân tươi đẹp mãi cho dân tộc. Nhiều mùa xuân đã trôi qua, máu và mồ hôi đã đổ xuống thì đất nước mới có được nền độc lập như ngày hôm nay:

“Ðất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Ðất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Hình ảnh đất nước bốn nghìn năm – gợi ra chiều dài lịch sử lâu đời của dân tộc. Trong suốt bốn nghìn năm đó, đất nước đã phải trải rất nhiều “vất vả” và “gian lao” để dựng nước và giữ nước. Đất nước lúc này đã giống như “vì sao” ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cách dùng từ “cứ” thể hiện sự quyết tâm vươn về phía trước, không chịu đầu hàng khuất phục trước mọi khó khăn. Những vất vả khi trước đã được đến đáp bằng những mùa xuân tươi đẹp của hiện tại.

Cuối cùng, nhà thơ bộc lộ ước nguyện chân thành của mình:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Tác giả mong muốn trở thành “con chim hót” để nhập gọi mùa xuân về. Và mong muốn làm “một cành hoa” để dâng hiến hương sắc đẹp đẽ cho đời. Cuối cùng tác giả còn muốn “nhập vào hòa ca” để trở thành một nốt trầm xao xuyến trong bản nhạc say mê. Chữ “ta” thể hiện tinh thần hào sảng, đầy hứng khởi và cảm xúc đang hòa mình vào cuộc sống tươi đẹp của mọi người trong tiết trời xuân đầy ấm áp, hạnh phúc.

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Một người cống hiến một “mùa xuân nho nhỏ” sẽ tạo thành một mùa xuân lớn, vĩ đại, đầy đủ và trọn vẹn. “Mùa xuân nho nhỏ” ở đây là một ẩn dụ rất thông minh và sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy khiêm tốn, chân thành, hãy biết cách sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến cho đất nước, đó là lẽ sống đẹp và lẽ sống cao cả.

Kết thúc bài thơ là tiếng hát đầy yêu thương:

“Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế”

Như vậy, “Mùa xuân nho nhỏ” đã cho người đọc cảm nhận được tiếng lòng đầy tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành từ tận đáy lòng của nhà thơ.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 14

Thanh Hải là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn chương cách mạng miền Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông sinh ra, sống, chiến đấu gắn bó với miền Thừa Thiên – Huế. Thơ của ông là tiếng lòng của đồng bào Trị Thiên – Huế lúc cất lên tiếng thét căm hờn tố cáo tội ác giết người của giặc, lúc thủ thỉ khúc tâm tình của đồng bào, chiến sĩ, lúc tha thiết một niềm kính yêu Bác Hồ… Những bài Mồ anh hoa nở, Núi vẫn nhớ người vẫn thương, Cháu nhớ Bác Hồ, A Vầu không chết… của ông được nhiều người tìm đọc với bao xúc động, mến thương. Thời gian này thơ Thanh Hải đã được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.

Sau khi thống nhất đất nước, ông tham gia lãnh đạo Hội văn nghệ Bình – Trị – Thiên song không ngừng sáng tác. Bài Mùa xuân nho nhỏ và một số bài thơ khác của ông đã được dư luận đánh giá là tác phẩm hay, phản ánh tâm hồn lạc quan, cái nhìn tươi trẻ của người Việt Nam trong giai đoạn xây dựng đất nước.

Bài Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết vào tháng 11-1980. Lúc đó đất nước đang có những khó khăn: chiến tranh biên giới, nền kinh tế chưa ra khỏi chính sách bao cấp… song công cuộc kiến thiết vẫn rộn ràng khắp nơi. Bài thơ đã phản ánh được tâm trạng của nhân dân ta: vui phóng khoáng, bay bổng nhưng không phải không còn những trăn trở. Vì lẽ đó bài thơ đã mau chóng được bạn đọc yêu mến, được phổ nhạc và bài hát lập tức được nhiều người ưa thích.

Bài Mùa xuân nho nhỏ giàu nhạc điệu. Có lẽ chính thể thơ năm chữ cùng với cách gieo vần đầy biến hóa tạo cho bài thơ một ưu thế diễn tả niềm vui có phần nhí nhảnh yêu đời của “mùa xuân nho nhỏ” kia. Các nhạc điệu của ngôn từ lại được nâng lên bởi chất nhạc, chất thơ của những hình tượng đẹp trong bài. Hãy đọc lại khổ thơ đầu để có thể thấy hết sự hòa quyện giữa nhạc và thơ trong từng chữ, từng dòng:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Trong khổ thơ này có chim và hoa, chim hót vang trời, hoa tím biếc; có trời và sông, trời rộng và sông xanh. Cảnh gợi một không gian phóng khoáng, bay bổng nhưng lại đằm thắm, dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Không gian ấy càng đậm chất Huế hơn nhờ cách dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc biệt Huế. Một từ “ơi!” đặt đầu câu thơ, một từ “chi” đi liền sau động từ “hót” đã đưa thẳng cách nói dịu ngọt, êm ái, thân thương của người Huế vào nhạc điệu của khổ thơ để gợi thương, gợi nhớ, cả khổ thơ dần tới một hình ảnh đẹp:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tiếng chim hót giữa trời xanh tưởng như vô hình này lại được hình ảnh hóa thành “từng giọt long lanh rơi” là một sáng tạo rất gợi cảm của nhà thơ. Một động tác “hứng” đủ diễn tả sự trân trọng của thi nhân đối với vẻ đẹp, chất nhạc của trời với sông, của chim với hoa, đồng thời thể hiện sự đồng cảm của tâm hồn thi nhân trước thiên nhiên và cuộc đời.

Chất nhạc, chất thơ của bài Mùa xuân nho nhỏ được cất lên từ chính cuộc sống vốn “vất vả và gian lao” đang hối hả “đi lên phía trước” của cả một đất nước mang đầy thương tích của hai cuộc chiến tranh và cũng đang phải đối phó với giặc ngoài nhưng vẫn hăm hở dựng xây cơ đồ của mình.

Một đặc sắc khác của bài thơ là sự diễn tả nhân vật trữ tình một cách thoải mái, dung dị và luôn biến đổi. Nhân vật ấy, lúc đầu xuất hiện trong tư thế một thi nhân đang hòa mình vào thiên nhiên. Tiếng “tôi” thốt ra từ thi nhân thật thân thiết, dịu nhẹ, khiêm nhường biết bao:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Cùng với sự vận động của tứ thơ, cách biểu hiện của nhân vật trữ tình cũng thay đổi. Chuyển từ cảnh mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên sang cảnh mùa xuân của cuộc sống cách mạng, của nhân dân, của đất nước:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

….

Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Ở đây, “ta” là nhà thơ và cũng là tất cả mọi người. Sự chuyển đổi của nhân vật trữ tình không có sự gượng gạo, giả dối. Đọc khổ thơ, chúng ta vẫn thấy một cách diễn đạt hào hứng, sảng khoái và tự nhiên. Ta làm con chim, làm một cành hoa, làm một nốt trầm, ta trở thành người mang lại niềm vui cho cuộc đời một cách khiêm tốn, đáng yêu.

Ở hai khổ thơ cuối, mùa xuân được chuyển thành mùa xuân của lí tưởng, của tiếng lòng cao cả. Đây là tiếng hát của con người muốn cống hiến sức mình cho cuộc sống cách mạng, cho đất nước không biết đến tuổi tác, coi đó là niềm ủi và lẽ sống. Nhân vật trữ tình lúc này không còn là “tôi” hay “ta” nữa, bỗng biến thành:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Cái công việc “lặng lẽ dâng cho đời” dù ở lứa tuổi nào đâu có còn là của riêng ai. Nó là khát vọng sống của cả một thời đại, của tôi, của bạn, của cả thế hệ chúng ta. Chính sự chuyển đổi như vậy của nhân vật trữ tình đã làm cho hai khổ thơ cuối tuy vẫn được diễn tả bằng giọng thơ nhỏ nhẹ nhưng lại mang sức khái quát lớn, có ý nghĩa triết lí.

Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ hay vì đã nói được những tình cảm lớn, những xúc động lớn của chính tác giả và của cả một thời đại.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 15

Khi nàng xuân nhẹ lướt trở về, trên trái đất như phủ lên một sức sống rạo rực kỳ diệu; Hương xuân quyện vào thiên nhiên, sông núi đất trời, tình xuân thấm vào tâm hồn mỗi con người với bao niềm hạnh phúc. Cả mùa xuân bừng nở giữa khoảng không gian tươi xanh ấy. Một thoáng bâng khuâng, ta chợt nhận ra hình như hương xuân, sắc xuân, tình xuân và cả mùa xuân đang hòa và trong bản xô-nát mùa xuân của nhà thơ Thanh Hải: Mùa xuân nho nhỏ.

Đọc kỹ bài thơ, ngẫm nghĩ, ta sẽ nghe được nhịp đập rạo rực mùa xuân đầy sức sống. Qua đó, chúng ta càng hiểu bản hợp tấu kỳ diệu của mùa xuân, của tâm hồn, của cuộc sống … Mùa xuân nho nhỏ – Tên của bài thơ đã tạo cho người đọc một cảm giác dễ chịu thoải mái. Mùa xuân nho nhỏ. Vâng mùa xuân của Thanh Hải thật đơn sơ và giản dị ở mức “nho nhỏ” mà thôi. Mở đầu, tác giả viết:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc …

Tôi đưa tay tôi hứng …

Một bức tranh xuân thật đơn sơ và giản dị! Tác giả đã lựa chọn những gam màu thật dịu, thật tươi để phác họa bức tranh xuân của mình, “dòng sông xanh – Hoa tím biếc”. Vài nét lướt nhẹ nhàng, nhưng tác giả đã cho người đọc thưởng thức mùa xuân đầy sức sống, trẻ trung, tươi và xanh. Mùa xuân của dòng sông, của bông hoa hay của đất trời quê hương xứ Huế? Những mảng màu sắc hình ảnh giản dị mộc mạc nhưng hài hòa và nên thơ.

Đoạn thơ gây ấn tượng và cảm xúc trong lòng người đọc. Như con tằm, tác giả đã rút những sợi tơ của lòng mình dệt nên bài thơ về quê hương bằng tất cả tình yêu của trái tim mình. Câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng mà duyên dáng, say sưa. Tiếng chim chiền chiện vút cao phải chăng là nốt thăng rộn ràng, tươi vui của bản nhạc mùa xuân. Tiếng chim ngân vang, kéo dài một âm sắc thánh thót, tiếng chim ấy như lan tỏa, hòa quyền vào bầu trời xuân ấy.

Giữa bức tranh xuân đầy màu sắc, Thanh Hải như đón nhận, như lắng nghe âm thanh của sự sống, của thiên nhiên đang trào dâng, ngân nga. Từng giọt long lanh rơi “giọt sương ban mai” – Hay giọt âm thanh? “Giọt long lanh rơi” – Giọt tình yêu hay hạnh phúc? Ồ phải rồi, đó là giọt mùa xuân êm đềm, thiết tha, giọt mùa xuân tiếng chim, của giọt sương hạnh phúc được Thanh Hải trân trọng, nâng niu – áp vào trái tim mình.

Mùa xuân, mùa xuân trong Thanh Hải là bức tranh đơn sơ mộc mạc nhưng đầy màu sắc. Cả tiếng chim chiền chiện vút cao, là giọt sương ban mai – mùa xuân là tất cả. Trong bản xô-nát của Thanh Hải, ta còn bắt gặp một mùa xuân trẻ trung, xôn xao đầy sức sống, đó là mùa xuân của “người cầm súng” của “người ra đồng”.

Mùa xuân người cầm súng

…Tất cả như xôn xao

Các thế hệ trước đã ngã xuống để bảo vệ mầm hạnh phúc của dân tộc; và giờ đây, mầm hạnh phúc ấy đã bừng nở thành hoa hạnh phúc – bừng nở thành niềm tin và hy vọng. Mùa xuân “người cầm súng”, với trách nhiệm tiếp nối cha anh bảo vệ đất nước bảo vệ mùa xuân của dân tộc.

Hình ảnh người ra đồng, là người tô điểm cho mùa xuân là họa sĩ vẽ những mảng xanh lên mùa xuân; và tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao – sức xuân đang tưng bừng lên. Với nhịp độ khẩn trương, dồn dập tưng bừng hoạt động trên quê hương, đất nước sau ngày giải phóng.

Hình ảnh thơ giúp ta hiểu được, trên mảnh đất vừa thoát khỏi đau thương, tất cả như rạo rực, như đang nảy nở, sinh sôi trong cái men say của mùa xuân trong cuộc sống hòa bình. “Hối hả”, “xôn xao” hai từ láy vừa gợi âm, gợi hình, gợi cảm xúc và gợi cả suy tư. Ôi! Một thanh âm từ rất xa vẳng lại, nhanh nhiều, thanh âm “xôn xao” của mùa xuân, của đất trời Việt Nam quê hương ta đó.

Câu thơ nhịp nhàng với những vần bằng tha thiết, vần trắc khỏe mạnh, bỗng trầm hẳn, lặng đi trong thoáng suy tưởng của nhà thơ.

“Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Tương lai Tổ quốc hiện lên rực rỡ huy hoàng, nhưng Thanh Hải lại nhớ về lịch sử dân tộc – nhớ về quá khứ bốn nghìn năm oai hùng “Vất vả và thương đau”. Qua đó, ta càng hiểu thêm về Thanh Hải – một tâm hồn nồng nhiệt, gắn bó với mùa xuân với đất nước và sự hi vọng. “Đất nước như vì sao” của tác giả về một ngày mai đẹp đẽ thật đáng quý, đáng yêu!

Say sưa trong khúc nhạc mùa xuân, tơ lòng tác giả cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc đoạn thơ cuối, ta cảm nhận được ý nguyện của tác giả: muốn cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng, cho Tổ quốc “bay lên bát ngát mùa xuân”

Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Điệp từ “Ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết chân thành càng làm ta xúc động bởi thái độ sống của nhà thơ. Sống phải làm nên “cái gì đó” cho đời, dù rất nhỏ… Bản hòa ca mùa xuân ngân lên với những nốt thăng rộn rã, tươi vui và với bè trầm tĩnh lặng, du dương. Nhà thơ lặng lẽ “nhập vào hòa ca” nhập vào bản xô-nát cuộc đời một chút xíu gì lặng lẽ, một chút xíu gì dễ thương làm sao.

Nốt trầm xao xuyến, một nốt trầm lặng lẽ đơn sơ nhưng không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Nốt nhạc trầm ngân nga lặng lẽ sau âm hưởng cao nhưng thường để lại trong lòng người ẩn tượng xao xuyến, bâng khuâng, sâu lắng, suy tư.

Xuân về đúng vào thời gian mà nhà thơ trọng bệnh, nhưng sức sống mãnh liệt đến diệu kì của mùa xuân đã bừng nở trong tâm hồn nhà thơ. Sức trẻ thôi thúc, rộn rã cùng nhịp đập trái tim nằm trên giường bệnh, nhà thơ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thiết tha, tràn đầy tình yêu thương lạc quan và hi vọng:

Một mùa xuân nho nhỏ …

Lặng lẽ dâng cho đời …

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Âm điệu thơ lắng dần ở khổ thứ tư, rồi chìm hẳn ở các khổ sau. Đọc thơ, ta như nghe được tiếng thì thầm, miên man của mùa xuân, của lòng người. Một lần nữa, tác giả lại nhắc tên bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Một tiếng chim một nhành hoa, một nốt trầm xao xuyến tạo nên một mùa xuân nho nhỏ. Nếu mỗi con người là “mùa xuân nho nhỏ” thì đất nước sẽ là cả một mùa xuân vĩnh viễn với bầu trời đầy chim, đất đầy hoa và lòng người đầy tiếng hát.

Ước muốn tha thiết của Thanh Hải là được cống hiến cho cuộc đời tất cả tuổi thanh xuân, tất cả cuộc sống của mình. Ông nguyện hát cho đất nước cho quê hương bản Nam Ai Nam Bình; bản xô-nát của mùa xuân, bản xô-nát của lòng người cùng hòa âm thành bản hòa ca bất tử của dân tộc.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh thiên nhiên đơn sơ mộc mạc một bản nhạc dịu dàng tha thiết. Một tâm hồn chân thành tự nguyện. Mùa xuân nho nhỏ – Đi giữa bầu trời xuân – hình như tôi nghe đâu đây hi vọng về bản hòa ca mùa xuân bất tử.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 16

Mùa xuân là mùa của cái đẹp đâm chồi là mùa của sự căng tràn đầy sức sống, là mỗi sớm mai thức dậy được hít hà cái không khí dịu nhẹ tươi mát, là mùa của chồi non lộc biếc cùng những câu hát dân ca quan họ trữ tình. Có lẽ vì thế mà mùa xuân đã mang lại rất nhiều cảm hứng sáng tác cho với văn nghệ sĩ, đã đi vào lăng kính của thơ văn như một sự tất yếu và trữ tình.

Với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân vừa là tiếng lòng tha thiết, yêu mến, khát khao gắn bó với cuộc đời, với quê hương đất nước và khát vọng được hiến dâng, chính vì vậy mà bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã ra đời như thế.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc và rất tươi đẹp:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Cảm xúc về thiên nhiên thật tươi mới và thân thuộc trong khung cảnh đồng quê. Màu tím biếc của bông hoa lục bình soi dưới bóng của dòng sông xanh mát, tiếng chim chiền chiện đang ca lên bài ca xuân bằng tiếng hát trong trẻo của mình, đây là loài chim báo hiệu một tương lai ấm no hạnh phúc cho con người. Lời thơ như tiếng hát, tiếng gọi say đắm trước khung cảnh thiên nhiên, trước bức tranh xuân đẹp dịu dàng.

Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu quen thuộc của người dân xứ Huế được tác giả đưa vào trong trang thơ để diễn tả lên cảm xúc thiết tha, yêu đời của người với cảnh vật. Chỉ ngắm dòng sông xanh, ngắm bông hoa bé nhỏ, nghe tiếng chim hót và bất giác thấy giọt sương long lanh trên tán lá cũng đủ làm trái tim của chúng ta thổn thức theo nhịp thở của mùa xuân. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của sắc trời khi bước vào xuân.

Khổ thơ thứ hai chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài hương lúa.

Sự chuyển mạch rất nhẹ nhàng và hợp lý. Bởi mùa xuân ấy đâu chỉ riêng là lộc của một vùng miền nào mà là của cả đất nước, của tất cả mọi người. Từ ”lộc” được nhắc lại hai lần ở đầu mỗi câu có thể hiểu như sức mạnh của dân tộc. Khi lộc đang “trải dài” trên những thửa ruộng những cánh đồng xanh ngát, bạt ngàn hương vị dịu ngọt của lúa.

Người ra đồng và người cầm súng là hai lực lượng chính để xây dựng Tổ Quốc. Mùa xuân ở đây đã bắt đầu gắn với ý thức và tinh thần bảo vệ dân tộc cùng với trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn mùa xuân hoà bình cho dân tộc và đất nước. Máu, mồ hôi và nước mắt của nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng và bảo vệ những mùa xuân tươi đẹp mãi cho dân tộc.

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Biết bao mùa xuân đã trôi qua, biết bao mùa xuân của dân tộc với những chiến công hiển hách đã in dấu ấn vàng son của dân tộc. Bao “vất vả” và “gian lao”, bao khó khăn khi trải qua thời kỳ bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đất nước Việt Nam ấy giờ đang tỏa sáng, phát triển và đi lên như những ngôi sao sáng rực rỡ trên bài trời của hòa bình, của tự do. Từ “cứ” thể hiện ra ý chí, quyết tâm, thể hiện một chân lý đơn giản mà thiêng liêng về khát khao của cả một dân tộc. Có thể nói những nỗi vất vả ấy bây giờ đã được đền đáp lại bằng những mùa xuân tươi đẹp, dài vô tận.

Ước nguyện của nhà thơ thật chân thành:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Tác giả muốn trở thành con chim hót để gọi mùa xuân về, để mang tiếng hót trong trẻo, hạnh phúc để tô điểm thêm cho núi sông. Tác giả cũng muốn làm một” nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca vĩ đại của dân tộc để động viên và khích lệ tinh thần nhân dân. Chữ “ta” thể hiện tinh thần hào sảng, đầy hứng khởi và cảm xúc đang hòa mình vào cuộc sống tươi đẹp của mọi người trong tiết trời xuân đầy ấm áp, hạnh phúc.

Một mùa xuân nhỏ nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là khi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Một người cống hiến một mùa xuân nho nhỏ sẽ là cả một mùa xuân lớn, vĩ đại, đầy đủ và trọn vẹn. Mùa xuân nhỏ ở đây là một ẩn dụ rất thông minh và đầy sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắc nhở mỗi chúng ta hãy khiêm tốn, chân thành, hãy biết cách sống cho tất cả, sống cho tình thân ái bao la và sống để cống hiến cho đất nước, đó là lẽ sống đẹp và lẽ sống cao cả.

Khổ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế

Trong khổ thơ tác giả đã nói đến hai giai điệu nổi tiếng của xứ Huế bao đời này đó là giai điệu: Nam ai và Nam bình. Câu hát truyền thống và thiêng liêng ấy vẫn mãi đi sâu vào trái tim con người của chính tác giả đến phút cuối đời cùng khát vọng sống và cống hiến cho đất nước. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải chính là viên ngọc sáng trong chùm thơ xuân của dân tộc.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 17

Cứ mỗi dịp tết đến xuân về chúng ta không thể nào quên Thanh Hải với “Mùa xuân nho nhỏ” đã góp vào thơ ca truyền thống dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Bài thơ được viết năm 1980 khi tác giả đang trên giường bệnh, được xem là lời tâm niệm đáng trân trọng trước lúc ra đi. “Mùa xuân nho nhỏ” của ông đã nói lên lẽ sống, ý nghĩa của đời sống con người bằng cảm xúc thật, là điều tâm niệm chân thành, thiết tha với giọng thơ nhỏ nhẹ tâm tình.

Bài thơ bắt đầu bằng cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Từ đó mở ra thành hình ảnh mùa xuân của đất nước. Từ mạch cảm xúc ấy nhà thơ bộc lộ suy nghĩ và ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn và kết thúc bài thơ là niềm tự hào về quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

Bằng những hình ảnh chọn lọc đặc sắc nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân với dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc và tiếng chim chiền chiện:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi! Con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Bức tranh xuân còn tràn trề sức sống được thể hiện qua nghệ thuật đảo ngữ. Động từ “mọc” làm vị ngữ đặt trước bộ phận chủ ngữ, đặt ở đầu khổ thơ và bài thơ là một dụng ý nghệ thuật. Nó không những tạo cho người đọc ấn tượng đột ngột bất ngờ, mới lạ mà còn làm cho hình ảnh sự vật trở nên sống động như đang diễn ra trước mắt. Tưởng như bông hoa tím kia đang từ từ mọc lên trên dòng sông xanh. Qua vài nét phác họa nhưng tác giả đã vẽ ra được cả không gian mênh mông với những gam màu xanh – tím mang đậm đặc trưng xứ Huế.

Trong không gian ấy tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời xuân làm cho cảnh trở nên tươi vui rộn ràng, ấm áp và náo nức, nhà thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc một cách cao độ:

Ơi! Con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: từ thính giác (nghe tiếng chim hót), thành thị giác (thấy tiếng chim đọng thành giọt long lanh như có ánh sáng) và xúc giác (đưa tay hứng tiếng chim). Hình ảnh có cái phi lí nhưng có thể chấp nhận trong thơ, một sự sáng tạo hợp lí để biểu hiện cái cảm xúc ngây ngất say sưa của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân.

Từ mùa xuân thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước với hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”

Bằng cấu trúc song hành chỉ hai nhiệm vụ chiến lược sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. “Lộc” là chồi non lộc biếc mơn mởn. Khi xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vòng lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ Quốc. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh ruộng đồng” trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

“Hối hả” nghĩa là vội vã. gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau làm náo động; Trong câu thơ “xôn xao” chỉ niềm vui đang dâng lên, cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” với điệp ngữ ” Mùa xuân”, “Lộc”, “Tất cả như…” làm cho câu thơ vang lên với nhịp điệu vui tươi mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc vào xuân của thời đại mới.

Tiếp theo là những câu thơ nói lên những suy tư về đất nước và nhân dân:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

Chặng đường lịch sử của đất nước bốn nghìn năm trường tồn với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Nhân dân, với bao thế hệ này sang thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi bảo vệ và xây dựng đất nước “Đất nước như vì sao” là hình ảnh so sánh đẹp đầy ý nghĩa. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước, khẳng định lòng tin vào sự phát triển không gì ngăn cản nổi “cứ đi lên phía trước”. Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt nam giàu mạnh.

Sau những suy tư về đất nước là tâm niệm của nhà thơ. Tác giả nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Nếu khổ thơ đầu nhà thơ xưng “tôi” (Tôi đưa tay tôi hứng) thì ở đây nhà thơ chuyển sang xưng “ta” không phải là sự ngẫu nhiên. Với “Ta” vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt cụ thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. Đây là quan niệm, phương châm sống và cống hiến của tác giả mà cũng là của chúng ta.

Khát vọng của nhà thơ được làm một “con chim hót” làm “một cành hoa” và thêm hình ảnh “một nốt trầm”. Từ hình ảnh đẹp của mùa xuân thiên nhiên được miêu tả phần đầu bài thơ, nhà thơ đã chọn nhiều hình ảnh để thể hiện lẽ sống tâm niệm đời mình là phục vụ đất nước, cống hiến cho đất nước. Cách chọn hình ảnh như thế hay ở chỗ tự nhiên, hợp lí theo sự chuyển nghĩa của hình ảnh mùa xuân từ thiên nhiên đến xuân tư tưởng làm cho các tầng lớp trước sau của bài thơ gắn bó với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Lấy cái đẹp của thiên nhiên để thể hiện cái đẹp của lòng người. Con chim, cành hoa vốn nhỏ bé trong đời nhưng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, hoa vô tư cống hiến hương thơm sắc đẹp, làm nên mùa xuân đất trời. Mượn hình ảnh chim trời, bông hoa, nhà thơ muốn nói lên tha thiết, khiêm tốn ước vọng sống có ích, góp phần nhỏ bé phục vụ đất nước, làm nên mùa xuân đất nước. Một nốt nhạc nhỏ chưa đủ làm nên bản nhạc nhưng góp phần làm nên bản nhạc. Nhà thơ ước vọng làm một “nốt nhạc trầm” không véo von, ồn ào, ầm ĩ, nghĩa là mong sống có ích, khiêm tốn và âm thầm góp phần mình vào sự phát triển chung của đất nước.

Điệp ngữ “ta làm” thật thiết tha, lời thơ như đang ngân lên thành lời ca. Sống phải làm cái gì đó cho đời dù rất nhỏ.

Khổ thơ tiếp theo càng rõ hơn ý nghĩa nhan đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Nhà thơ còn tâm niệm làm “Một mùa xuân nho nhỏ” lặng lẽ dâng cho mùa xuân rộng lớn của đất nước. làm một mùa xuân nghĩa là gì? Nghĩa là sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân. Nhưng tại sao lại là mùa xuân nho nhỏ? Một ý thơ hay, một khát vọng khiêm tốn, một ý thức đúng về mối quan hệ cá nhân và xã hội. Hình ảnh mùa xuân thường gợi cảnh đất trời rộng lớn, trăm hoa đua nở. Nhà thơ chỉ nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân rộng lớn thuộc về đất trời, đất nước, xã hội, không một cá nhân nào làm nổi. Nhưng mỗi cá nhân có thể đóng góp mùa xuân của cuộc đời riêng vào mùa xuân của cuộc đời chung làm cho nó phong phú, rực rỡ thêm. Và lặng lẽ dâng cho đời với tất cả sự khiêm tốn đáng yêu của một con người tha thiết được cống hiến suốt đời cho đất nước dù tuổi hai mươi hay khi tóc bạc.

Ai cũng phải sống có ích cho đời “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng ” Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Bởi lẽ “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu). Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước cả từ lúc “tuổi hai mươi” đến khi”tóc bạc”. Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời “gan ruột” của mình, ông đã sống như lời ông tâm tình. Khi đất nước bị Mĩ – Diệm và tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ tài tình: “Ta làm…ta làm…ta nhập…” “Dù là…dù là…”đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng thơ trữ tình, ấm áp như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăng trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương: Phải chăng nhà thơ vừa làm thơ vừa hát những câu thơ của mình, hát theo làn điệu dân ca trầm trầm, buồn buồn nhưng lạc quan của quê hương xứ Huế. Nhịp thơ năm chữ gieo vần hai câu một nhưng ở khổ thơ này dôi ra một câu vần bằng. Bài thơ như ngừng chậm lại, ngẫm nghĩ, lắng nghe:

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

“Nước non ngàn dặm” mấy câu mở đầu bài ca Nam ai xứ Huế đi vào bài thơ một cách tự nhiên. Nhưng “nước non ngàn dặm mình” rồi lại “nước non ngàn dặm tình”, thật là yêu đất nước mình, yêu quê hương mình lắm. Nước non ngàn dặm của mình, cũng là nước non ngàn dặm trong tình yêu tha thiết của mình.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải, góp vào các hình ảnh mùa xuân trong thơ ca. Các nhà thơ từ xưa tới nay đã viết nhiều về mùa xuân với nhiều cảm hứng và những phát hiện riêng khác nhau nhưng tựu trung thường khai thác hai phương diện: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân con người, Thanh Hải cũng không đi ngoại lệ ngoài hai phương diện ấy của chủ đề mùa xuân. Cái đặc sắc ở đây chính là hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ”, Đó là những biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và của cuộc đời mỗi người. “Mùa xuân nho nhỏ” ấy góp vào làm nên mùa xuân lớn của cuộc đời, của đất nước. Hình ảnh này thể hiện quan niệm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung giữa cá nhân và cộng đồng. Mùa xuân nữa lại về trên đất nước ta, thắp nén nhang tưởng nhớ thi nhân đã để lại cho đời một lời tâm tình nhỏ nhẹ khiêm nhường. Mỗi chúng ta hãy sống đẹp – hãy làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân lớn của dân tộc.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 18

Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu của mảnh đất cố đô xinh đẹp, ông nổi tiếng với những vần thơ mượt mà, sâu lắng mang đậm văn hóa con người xứ Huế. Mùa xuân nho nhỏ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ được ông viết vào năm 1980, trong khung cảnh hòa bình, trong công cuộc xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang Đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng.

Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên ,một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón chào tín hiệu mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh,

Một bông hoa tím biếc.

“Bông hoa tím biếc” ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê:

Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình tím cả bờ sông…

(Trở về quê nội – Lê Anh Xuân)

Màu xanh của nước hòa hợp với màu “tím biếc” của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót. Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nhà nông. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

“Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác – thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh.

Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của đất nước vào xuân. Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đổng

Lộc trải dài nương mạ

“Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nẩy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “nương mạ” bát ngát trên quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

“Hối hả” nghĩa là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động; ở trong câu thơ, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất cả như… ” làm cho nhạc thơ vang lên nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.

Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của nhà thơ về đất nước và nhân dân:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Chặng đường lịch sử của đất nước với bốn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Thời gian đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và tinh thần quả cảm để xây dựng và bảo vệ đất nước. Dân ta tài trí và nhân nghĩa. Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, đã khẳng định sức mạnh Việt Nam. Câu thơ “Đất nước như vì sao” là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian, và thời gian. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta không một thế lực nào có thể ngăn cản được: “Cứ đi lên phía trước”. Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”.

Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào họa ca

Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, đem đến niềm vui cho con người. “Một nhành hoa” để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi. “Một nốt trầm” của bản “hòa ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người, cổ vũ nhân dân. “Con chim hót”, “một nhành hoa”, “một nốt trầm…” là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui, cho tài trí của đất nước và con người Việt Nam.

Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu), sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc “tuổi hai mươi” trai tráng cho đến khi về già “tóc bạc”. Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời “gan ruột” của mình. Ông đã sống như lời thơ ông tâm tình. Khi đất nước bị Mĩ – Diệm và bè lũ tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: “Ta làm… ta làm… ta nhập…”, “dù là tuổi… dù là khi…” đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng điệu thơ trữ tình, ấm áp tình đời như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăn trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân – ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm,’chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “Ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt” vậy.

Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 19

Mùa xuân từ lâu đã trở thành mạch nguồn cảm xúc dạt dào cho các văn nghệ sĩ sáng tạo. Là người con của xứ Huế mộng mơ, giàu sức sống nghệ thuật và tài hoa, tinh tế, Thanh Hải cũng đã góp vào mạch nguồn chung ấy một bài thơ ngắn nhưng đầy ý nghĩa: “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ là những rung động, cảm nhận sâu sắc, nồng nàn về cảnh sắc mùa xuân thiên nhiên và đất nước, đồng thời cũng thể hiện tâm nguyện lớn lao, đáng trân trọng của tác giả trước lúc đi xa.

“Mùa xuân nho nhỏ” được nhà thơ sáng tác vào tháng 11 năm 1980, năm năm sau ngày đất nước ta giành được độc lập. Thời điểm này, Thanh Hải đang bị bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, một tháng sau khi viết, ông qua đời. Phải hiểu và cảm nhận được hoàn cảnh ấy, ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với quê hương, đất nước của ông.

Khổ thơ đầu là cảm xúc trước cảnh sắc mùa xuân và thiên nhiên xứ Huế. Nhà thơ đã tái hiện lại khung cảnh mùa xuân của đất trời và xứ Huế qua một vài hình ảnh: một dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ôi con chim chiền chiện

Hót chi mà vàng trời.”

Không gian mùa xuân cao rộng với cả dòng sông, mặt đất, bầu trời; có cả màu sắc tươi thắm và âm thanh vang vọng của tiếng chim chiền chiện gọi xuân về. Hình ảnh thơ giàu tính tạo hình, hài hòa giữa màu sắc và âm thanh. Lời gọi “ơi” và lời hỏi “hót chi” làm cho câu thơ như lời trò chuyện trực tiếp với thiên nhiên, bộc lộ sự ngạc nhiên, yêu thích trước vẻ đẹp mùa xuân xứ Huế.

Tác giả đã bộc lộ cảm xúc tươi vui, hồn nhiên trước cảnh mùa xuân:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Câu thơ “Từng giọt long lanh rơi” sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đặc sắc. “Giọt” có thể là giọt sương hay giọt mưa mùa xuân long lanh, cũng có thể hiểu là “giọt âm thanh” khi gắn với những câu thơ trước. Tiếng chim vốn được cả nhận bằng thính giác, nay được cảm nhận bằng thị giác, âm thanh như đọng lại thành từng giọt, có hình khối, lại cũng có thể cảm nhận bằng xúc giác khi “tôi đưa tay tôi hứng”.

Nếu như khổ thơ đầu là cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất trời thì ở khổ thơ thứ 2, 3, tác giả bộc lộ cảm xúc của mình trước mùa xuân của đất nước. Thanh Hải đã chọn ra hai hình ảnh tiêu biểu đó là “người cầm súng” và “người ra đồng” – hai hình ảnh tượng trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng đất nước. Xuyên suốt hai cặp câu thơ là màu xanh của chồi non lộc biếc:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.”

Hình ảnh “lộc” được nhắc lại hai lần trong khổ thơ gợi ra hình ảnh mùa xuân của đất trời với sắc xanh trải dài bất tận. Khi người lính ra trận, lộc non trên vành lá ngụy trang tiếp sức cho họ trong từng bước hành quân, bảo vệ và giữ gìn mùa xuân cho cả dân tộc. Người nông dân ra đồng, trước ắt họ trải ra màu xanh đầy sức sống, hay cũng chính họ là người đã gieo mùa xuân trên khắp mọi miền Tổ quốc. Nhà thơ như nghe thấy trong mùa xuân xanh bạt ngàn ấy có tiếng tưng bừng, xôn xao, hối hả: “Tất cả như hối hả – Tất cả như xôn xao.”

Trong dòng suy ngẫm của nhà thơ, đất nước vừa lớn lao, vừa gần gũi:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao”

Nghệ thuật nhân hóa gợi hình dung đất nước như con người, đã trải qua biết bao gian lao, thăng trầm của lịch sử. Vẻ đẹp của đất nước cũng chính là vẻ đẹp của sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Đất nước sẽ mãi trường tồn và tỏa sáng rực rỡ trong tương lai:

“Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Thanh Hải đã so sánh đất nước với những vì sao lấp lánh, qua đó thể hiện niềm tự hào, tin tưởng về tương lai tươi sáng, sức sống trường tồn vĩnh cưu của dân tộc mà không một kẻ thù nào có thể ngăn nổi.

Từ những xúc cảm nồng nàn về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ tha thiết mong ước được hóa thân để cống hiến cho cuộc đời:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến.”

Nghệ thuật điệp cấu trúc “Ta làm…” diễn tả chân thực khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến những điều tốt đẹp – dù có phần nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung của đất nước. Khổ thơ có sự thay đổi của cách xưng hộ: từ “tôi” sang “ta” – từ cái tôi cá nhân, riêng biệt trở thành cái ta chung của cộng đồng; ước nguyện của tác giả cũng chính là ước nguyện chung của tất cả mọi người. Nhà thơ ước được làm “con chim” để dâng cho đời những tiếng hót, làm “một nhành hoa” để dâng cho đời hương sắc đẹp. Đó là những hình ảnh đẹp nhất, khiêm nhường nhất của thiên nhiên, tạo hóa. Tác giả còn tha thiết được hòa vào cuộc sống của muôn người, được làm “một nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca bất tận của cuộc đời, cống hiến bền bỉ, thầm lặng, không đòi hỏi đền đáp như một lẽ tự nhiên.

Nhà thơ ước mình được làm “Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời”. Qua câu thơ, tác giả ngầm ví cuộc đời con người cũng như một mùa xuân. Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một phần nhỏ bé của mình và phải luôn luôn cống hiến cho quê hương, đất nước “Dù là tuổi hai mươi – dù là khi tóc bạc”.

Lẽ sống của Thanh Hải là lẽ sống của những con người trọn đời đi theo Cách mạng. Cuộc đời của họ chỉ thực sự có ý nghĩa khi được chăm lo cho cuộc đời chung và có thể đóng góp, cống hiến những phần tinh túy nhất cho quê hương, đất nước.

Bài thơ đã sử dụng linh hoạt thể thơ tự do trên nền thơ năm chữ, nhạc điệu thơ trong sáng, tha thiết, gần gũi với những làn điệu dân ca xứ Huế. Hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị nhưng giàu ý nghĩa, gợi hình, giàu giá trị biểu đạt. Đồng thời, trong bài thơ giọng điệu biến đổi phù hợp với mạch cảm xúc của tác giả: khi vui vẻ, khi say mê, khi trầm lắng, khi lại thiết tha,…

“Mùa xuân nho nhỏ” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc trước những xúc cảm nồng nàn về mùa xuân của thiên nhiên và đất nước cũng như khát vọng được hòa nhập, cống hiến của nhà thơ Thanh Hải. Tác phẩm đã mở ra cho độc giả những suy ngẫm, triết lí về cuộc đời: một cuộc đời thực sự có ý nghĩa là khi biết sống có ích, biết cống hiến cho cuộc đời chung của đất nước.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 20

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Khi đọc bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được một tiếng thơ đầy thiết tha mong muốn được cống hiến cho đất nước.

Mở đầu là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc,

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Chỉ bằng vài nét vẽ đơn giản và những hình ảnh thật thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có sự kết hợp của không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím” kết hợp với cách sử dụng các từ ngữ “ơi” , “chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Hình ảnh ẩn dụ “giọt long lanh” hay chính là giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ”

Hình ảnh “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Không khí lao động khẩn trương rộn ràng, say mê.

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”

Điệp từ “tất cả” ,từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

Hình ảnh so sánh đẹp “đất nước như vì sao” gợi cho ta về hình ảnh đất nước toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng.

Trước mùa xuân của thiên nhiên và đất nước, nhà thơ bộc lộ niềm khát vọng hiến dâng của mình:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa tỏa ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh túy nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả.

Khi đọc xong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, người đọc đã cảm nhận được tình yêu mùa xuân của tác giả gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, cũng như khát khao dâng hiến cho cuộc đời.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 21

Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi danh của nhiều nhà văn, nhà thơ. Một trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Thanh Hải cùng bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ là tiếng lòng, là khao khát, ước muốn mãnh liệt của tác giả được hòa mình, được cống hiến cho đất nước, dân tộc.

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Khung cảnh mùa xuân được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như ngọc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương. Bức tranh ấy lại càng đẹp hơn, có “hồn” hơn khi cái màu tím được tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Hai câu thơ tiếp theo không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Cả bầu không gian tĩnh lặng giờ đây trở nên sôi động, tưng bừng sức sống. Âm thanh tiếng chim hót tưởng chừng như nhỏ bé nhưng trong cái tĩnh lặng, nó như bao quát cả đất trời. Tiếng chim không chỉ ngân vang trên không trung và đất trời mà giờ đây nó đã cô đọng thành giọt, có hình thù, kích thước nhất định, cách chuyển đổi cảm giác này tưởng chừng vô lí nhưng lại rất hợp lí, làm nổi bật khung cảnh mù xuân với dòng sông, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện cùng người thi sĩ khiến cho bức tranh trở nên bình dị mà vẫn tươi đẹp.

Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

“Lộc” ở đây có thể hiểu là sức mạnh dân tộc, “lộc trải dài nương mạ” là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng mới, cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh. “Người cầm súng và “người ra đồng” là hai lực lượng chính dựng xây Tổ quốc. Đây là mùa xuân trách nhiệm gắn với ý thức bảo vệ dân tộc. Câu thơ mang một ý nghĩa sâu sắc: Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi của dân tộc.

Đất nước bốn nghìn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.”

Biết bao nhiêu mùa xuân ông cha ta đánh giặc giữ nước, bao nhiêu mùa xuân lập chiến công chống quân xâm lược “vất vả và gian lao”. Thanh Hải tự hào khi nghĩ về đất nước với bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đất nước như vì sao sáng vượt qua vất vả và gian lao để đi lên phía trước. Từ “cứ” đặt đầu câu thơ như một sự khẳng định, thể hiện một chân lí đơn giản mà thiêng liêng. Có thể nói bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay của dân tộc được đáp lại bằng những mùa xuân tiếp nối vô tần. Đó là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của nhà thơ đối với đất nước, với dân tộc.

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Ước muốn của tác giả: trở thành con chim, làm cành hoa: những thứ giản dị mà đẹp đẽ tô điểm cho cuộc đời một cách thầm lặng mà ý nghĩa. Điệp cấu trúc câu: “Ta làm…” nhấn mạnh khát vọng sống hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé, của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Nhà thơ muốn mang đến cho cuộc đời những giai điệu đẹp đẽ, ý nghĩa. Trong bản nhạc rộn rã của cuộc đời, tác giả chỉ muốn làm một nốt trầm nhưng cũng đủ làm xao xuyến lòng người. Một ước mơ nho nhỏ, chân tình, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng yêu. Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên, chân thành, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào.

Một mùa xuân nhỏ nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là khi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

Khao khát cống hiến của tác giả muốn được dâng hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước xuyên suốt cuộc đời của mình dù là khi đang trong độ tuổi hai mươi thanh xuân tươi đẹp hay khi mái tóc đã bạc trắng. “Lặng lẽ” là sự cống hiến trong âm thầm, yên lặng nhưng nồng nhiệt, hết mình, không phô trương. Điệp từ “dù là” như là một lời hứa, cũng là một lời tự nhủ với lương tâm sẽ mãi mãi là mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương, đất nước. Bốn câu thơ thể hiện tình yêu thương, một lời hứa, một lời tự nhủ với bản thân sẽ sống hết mình và cống hiến nhiệt tình cho tổ quốc mến yêu bằng cả cuộc đời mình – Một mùa xuân nho nhỏ.

“Mùa xuân – ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huế.”

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt”.

Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến dạt dào, khát khao hòa mình vào cuộc sống muôn màu muôn vẻ của tác giả. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 22

Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc,

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi”, “chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả

Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sĩ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

Hình ảnh so sánh đẹp: “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:

Ta làm con chim hót

Ta làm một canh hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả

Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ

Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả. Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:

“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 23

Giây phút đầu tiên khi năm mới gõ cửa, hãy hòa mình vào những vẻ đẹp của mùa xuân qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải – một bài thơ từ lâu đã trở thành một khúc ca quen thuộc mỗi độ đất nước vào xuân.

Mùa xuân đã về trên đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng ta. Đâu đây dặt dìu lời ca êm dịu về “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ôi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Mùa xuân xứ Huế thơ mộng hiển hiện trước mắt ta. Chỉ một bông hoa tím mỏng manh, mọc giữa dòng sông Hương xanh biếc mà sao sức sống lại dồi dào mãnh liệt đến vậy? Và cũng chỉ một con chim chiền chiện cất lời, mà sao tiếng hót vang xa bay bổng đến thế? Từng giọt âm thanh tiếng chim thả vào không gian, hội tụ tất cả ánh sáng, sự thanh khiết trong lành của đất trời mùa xuân nên nó cứ long lanh, long lanh. Không cầm lòng được, nhà thơ bất chợt đưa tay ra hứng lấy âm thanh ấy, những mong nắm bắt điều diệu kì của thiên nhiên tươi đẹp trên quê hương. Sự chuyển đổi cảm giác trong ông diễn ra thật nhanh chóng, bất ngờ, mà cũng thật tinh tế. Rồi ông đưa mắt nhìn những chồi non lộc biếc đậu trên vành lá ngụy trang của người ra trận, trải dài theo bước chân người ra đồng, trên khắp đất nước mình. Mặc dù chúng ta vừa ngưng nghỉ tiếng súng ở hai đầu biên cương, mặc dù thời bao cấp vẫn in hằn dấu vết trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng thành quả chiến đấu và lao động suốt 4.000 năm lịch sử đã ngời ngời trong mùa xuân 1980 ấy.

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Quả thực là “chẳng kẻ thù nào ngăn nổi bước ta đi”.

Bằng sự mẫn cảm, bằng niềm tin son sắt, Thanh Hải đã nhận ra sức sống bền bỉ và tư thế luôn vững vàng thăng tiến của dân tộc ta. Đến hôm nay, mùa xuân 2017 sắp về, ta càng khẳng định rằng điều Thanh Hải dự báo từ 37 năm trước đã, đang và mãi mãi là hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Đáng trân trọng biết bao, tấm lòng của một người con đất Việt! Khi đang lâm bệnh nặng, sắp từ giã cõi đời, còn phải sống trong thiếu thốn khó khăn, ông vẫn có những cảm nhận vô cùng tươi trẻ về thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống. Phải chăng, có sự đồng điệu trong tâm hồn thi sĩ:

“Tôi lại nhìn như đôi mắt trẻ thơ

Tổ quốc tôi, chưa đẹp thế bao giờ”.

(Tố Hữu)

Từ niềm say sưa trước mùa xuân thiên nhiên và cuộc sống trên đất nước, Thanh Hải đã chân thành bộc lộ ước nguyện của bản thân:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Tuy đó là ước nguyện khiêm nhường (muôn hóa thân làm những thứ bé nhỏ: Một con chim, một cành hoa, một nốt trầm, một mùa xuân nho nhỏ để “lặng lẽ dâng cho đời”). Nhưng đó là ước nguyện rất tự nhiên, đẹp đẽ, sáng trong như thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng (con chim, cành hoa), rất bền bỉ, thiết tha:

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

Đó cũng là ước nguyện hết sức chân thành của Thanh Hải. Bởi vì cả cuộc đời ông đã bám trụ ở quê hương (vùng Thừa Thiên Huế) cùng đồng bào, đồng chí đánh giặc qua hai cuộc kháng chiến ác liệt trường kì. Từ vùng đất này, những bài thơ “Mồ anh hoa nở”, “Cháu nhớ Bác Hồ” của ông đã có sức lay động sâu xa tâm hồn bao bạn đọc. Rồi đến giờ phút cuối cùng, ông vẫn như con tằm rút ruột nhả tơ, dâng cho đời “mùa xuân nho nhỏ” thiết tha nồng thắm từ đáy tâm can. Những “nốt trầm” ấy sao mà “xao xuyến”, sao mà đắm say!

Bài thơ của Thanh Hải đề cập đến vấn đề nhân sinh quan. Sống có ích, sống đẹp là có cống hiến cho đời. Vậy mà nó không hề khô cứng như lời giáo huấn đạo lí. Bởi vì, tác giả đã nói bằng cảm xúc thực, bằng những điều tâm niệm chân thành, thiết tha, bằng giọng thơ nhẹ nhàng và hình ảnh thơ bình dị. Chính vì thế những dòng thơ của ông thấm sâu vào lòng người, thức tỉnh những ước nguyện, những cách sống đẹp của mỗi con người.

Mùa xuân nay đi trong dìu dặt lời ca:

Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm tình...

Ta thấy nhớ Thanh Hải – nhớ một “Mùa xuân nho nhỏ” của dân tộc thiết tha

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 24

Thế là bất ngờ xuân tới, nồng nàn, ngất ngây mà dịu dàng, thướt tha quá đỗi. Mùa xuân khác cho mọi vật chiếc áo xanh tươi mơn mởn, điểm những màu hoa trắng hồng trên nền áo nguyên sơ. Xuân về xua tan bao giá băng lạnh lẽo, cho vạn vật hồi sinh tràn đầy sức sống. Xuân sưởi ấm lòng người, thắp cho nhân sinh niềm hi vọng ở ngày mai.

Có lẽ vì thế xuân luôn là đề tài cho thi nhân rung động được cảnh: cảnh thiên nhiên, cảnh đời mà cất bút đề thơ – xuân hà hơi, tiếp sức cho thi sĩ hóa thân vào cuộc đời. Ở nhà thơ Thanh Hải – xuân đáng trân trọng làm sao. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông là một ví dụ. Thật ra, xuân đối với Thanh Hải không hề nho nhỏ mà xuân đang mang trong mình hơi ấm của sự sống Xuân lung linh, đầy sắc màu của tình yêu, yêu đời, yêu người tha thiết.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả đặc trưng của mùa xuân, chỉ có mùa xuân mới có cảnh vật ngạt ngào như thế:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Dòng sông xanh là một dòng sông thanh bình yên ả – đó là tín hiệu báo mùa xuân dần về sắc tím biếc của bông hoa nổi trội, đậm đà, nồng ấm cả dòng sông xanh – xuân là thế, dịu dàng mà nồng đượm sắc hương. Bông hoa là có thật, hay chỉ là dáng hình của niềm tin? Niềm hi vọng là sắc màu tím biếc thân quen của quê hương mà mãi in đậm trong tâm tưởng nhà thơ thấp thoáng trong câu thơ màu tím của chiếc áo dài nữ sinh xứ Huế từng là ấn tượng khó phai của người dân Cố đô. Mùa xuân ở đây thật hào phóng nên sẵn sàng trao tặng cho ai biết trải rộng lòng mình:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi,

Tôi đưa tay tôi hứng…

Tiếng gọi ơi nghe sôi nổi và tha thiết biết bao. Nhà thơ đã đón nhận mùa xuân với tất cả sự thăng hoa của tâm hồn, điêu luyện trong ngòi bút. Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ hót chỉ thể hiện tâm trạng đùa vui, nô nức của tác giả trước giai điệu của mùa xuân. Tiếng chim hót trong trẻo, vang lừng xa như gần lại rõ ràng, tròn trịa kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu đọng lại thành giọt long lanh rơi, rơi mãi. Nhà thơ đã tưởng tượng bằng tất cả rung động của tâm hồn “tôi đưa tay tôi hứng” người đang hứng những tiếng chim hót cứ như là hứng những giọt mưa rơi. Từ tưởng tượng tác giả chuyển sang cảm giác thật tinh tế và tài hoa. Làm sao có thể hứng những âm thanh không hình dáng, kích thước ấy nhưng thật ra âm thanh đó đã rót vào trái tim mẫn cảm với cuộc sống tinh tế với mọi âm thanh, sắc màu:

Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Đến đây, nhà thơ không còn cầm bút nữa mà đang ôm đàn, gõ phách hát bài ca mùa xuân, bài ca cuộc sống. Nhà thơ muốn hóa thân vào muôn loài vạn vật làm tươi đẹp rộn ràng cho cuộc sống: một tiếng chim hót trong buổi sáng mai bắt đầu một ngày mới; một nhành hoa tô điểm cho vườn hoa cuộc đời; một nốt trầm làm xao xuyến vạn trái tim. Tất cả đã thể hiện niềm khát khao sống, khát khao hiến dâng đến khôn cùng của tác giả. Điều đáng nói ở đây là khi sáng tác bài thơ, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Trong cái tuổi đương xuân của đời người ấy có mấy ai chấp nhận được sự thật là mình sắp lìa khỏi cõi đời với phong thái yêu đời an nhiên giữa mùa xuân như thế.

Với Thanh Hải, không ai đoán trước được bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông sẽ tồn tại bao lâu nhưng ít ra trước khi ra đi, ông đã để lại cho độc giả một bài thơ yêu đời, hồn nhiên đến lạ và giữ lại trong ông một phong cách thơ bình dị, chân thành.

Xin cảm ơn mùa xuân, cảm ơn thi nhân đã để lại cho đời những vần thơ vượt thời gian làm ấm lòng độc giả trong những nỗi mưu sinh nhọc nhằn của cuộc sống.

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 25

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng.

Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc,

Ơi! con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế. Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi”, “chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong, thật tròn, vang ngân giữa không gian, đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng

Lộc dắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ.

Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sĩ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. “Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận, theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao.

Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:

Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước.

Hình ảnh so sánh đẹp: “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương.

Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:

Ta làm con chim hót

Ta làm một canh hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người. Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:

Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước. Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả.

Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ.

Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả. Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:

“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”

Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 26

Cảm hứng lãng mạn trong văn chương thường xuất phát từ chính tâm hồn thơ mộng, nghệ sĩ của các nhà văn, nhà thơ nhưng đôi khi, nó còn đến từ những yếu tố ngoại cảnh như thiên nhiên, con người…. Những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước với sự phong phú, giàu có và tiềm tàng luôn khiến cho con người ta cảm thấy rung động, say đắm, và nhà thơ Thanh Hải cũng không ngoại lệ. Ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của tiếng thơ Thanh Hải qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Không chỉ vậy, bài thơ còn được sáng tác trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là khi tác giả đang năm trên giường bệnh, một tháng trước khi qua đời. Có lẽ bởi vì vậy mà tình yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước mới dâng trào lên trong lòng nhà thơ một cách mạnh mẽ, cháy bỏng. Tất cả được thể hiện thông qua bức tranh thiên nhiên của xứ Huế mộng mơ.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp và hài hòa màu sắc:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc”

Là người con của xứ Huế mộng mơ, nhà thơ Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh thziên nhiên từ chính những hình ảnh có thật ở quê hương của mình. Đó là màu tím đặc trưng của cố đô Huế, giữa dòng sông xanh biếc, nên thơ “mọc” lên một bông hoa màu tím, tất cả gợi lên một sức sống căng tràn, vui tươi, rộn rã. Hơn thế nữa, nhà thơ đảo động từ “mọc” lên đầu câu cho thấy sự sống tràn đầy của bông hoa cùng với vẻ đẹp nổi bật của nó. Bức tranh thiên nhiên chẳng những được kết hợp hài hòa bởi màu sắc mà còn đầy ắp tiếng chim:

“Ôi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Âm thanh của tiếng chim khiến cho bức tranh thiên nhiên không còn tĩnh lặng mà trở nên sống động hơn, có hồn hơn. Âm thanh ấy vang khắp cả một vùng trời, như là tiếng ngân lên tha thiết của lòng yêu đời, của tình yêu cuộc sống. Chỉ với vài nét khắc họa từ những hình ảnh vô cùng đơn sơ, mộc mạc như: dòng sông, bông hoa, tiếng chim… nhà thơ Thanh Hải đã vẽ nên một cách khái quát về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi xứ Huế mộng mơ. Phải là một người gắn bó với quê hương, yêu quê hương thì mới cảm nhận được những sự vật thân thuộc, gần gũi đến như vậy.

Nếu bốn câu thơ đầu chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên xứ Huế thì ta thấy ở 2 câu thơ cuối của khổ thơ đầu, nhà thơ trực tiếp bày tỏ tâm trạng của mình:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng thành công trong câu thơ này. Âm thanh của tiếng chim vốn là thứ âm thanh mà con người chỉ có thể nghe được, không thể nhìn thấy hay chạm vào được, vậy mà tác giả lại có thể hứng từng giọt âm thanh. Những âm vang, giai điệu của cuộc sống như đang rơi xuống theo từng nhịp, để nhà thơ cảm nhận nó bằng cả tâm hồn của mình. Say lòng trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, Thanh Hải trân trọng hứng từng giọt âm thanh ấy. Đặt trong hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ thì ta có thể hiểu rằng, nhà thơ Thanh Hải không muốn lãng phí từng phút giây nào, ông muốn tận hưởng trọn vẹn nhất từng sự vật, cảnh vật của quê hương.

Chỉ qua một khổ thơ ngắn với 6 dòng thơ mà ta cảm nhận được cả vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, cả tình yêu đời tha thiết, say mê của nhà thơ. Thiên nhiên xứ Huế vốn đã đẹp, đã thơ mộng, như bức tranh của dòng sông Hương phóng khoáng, man dại như cô gái Digan trong lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ấy thế mà khi đọc thơ của Thanh Hải, ta vẫn thấy được một nét gì đó rất riêng, nhà thơ miêu tả thiên nhiên dưới con mắt của một người chẳng còn nhiều thời gian trên trần thế, nên ý thơ gợi chút gì đó cháy bỏng, tha thiết hơn những gì mà nó thể hiện.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải quả thực là một bài thơ hay và giàu cảm xúc. Bài thơ không những gieo vào lòng ta tình yêu cuộc sống mà còn gửi gắm đến mỗi chúng ta rằng cần phải sống một cuộc đời có ích, cống hiến cho cuộc đời ngay khi còn có thể để không phải hối tiếc về sau này.

*****

Trên đây là 26 Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải lớp 9 ngắn gọn hay nhất do thầy cô trường cấp 3 Lê Hồng Phong biên soạn. Hy vọng dựa vào đây, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới lạ để hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình với điểm số cao nhất.

Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Giáo dục

Nội dung bài viết được đăng tải bởi thầy cô trường thpt Ngô Thì Nhậm (trước đây là trường trung học phổ thông Sóc Trăng). Cấm sao chép dưới mọi hình thức.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button